Ở tuổi thất thập cổ lai hy, tôi chợt hiểu một cách sâu sắc và lý thú vì sao Thiên Nhiên được tôn vinh ở vai trò bà mẹ
nhân loại.
Cũng giống như các bà mẹ sinh học của loài người, Mẹ Thiên Nhiên cũng có khi nóng giận dưới ảnh hưởng thời
tiết, gây tai họa: giông bão, lũ lụt, lốc xoáy, mùa màng thất bát v.v... nhưng bình thường, Thiên Nhiên là một bà mẹ
tốt, nuôi dạy con cái tuyệt vời.
Tôi sinh ra trong một gia đình quyền quý, giàu có, là đứa con cuối cùng và lại là gái trong khi trước tôi đã có các
anh chị như bố tôi mong muốn. Mẹ tôi là người đàn bà duy nhất sinh con cho nhà họ Bùi nhưng chưa bao giờ
được làm vợ bố tôi, giản dị vì mẹ già tôi chọn nái tốt, đem bà từ đồng ruộng Bắc Ninh về chỉ với mục đích kiếm
người nối dõi thay cho mẹ già tôi không sinh nở được. Tôi như ngón tay thừa trên cái bàn tay đã đủ ngón nên cả
một thời thơ ấu, bây giờ nhìn lại, thấy mình đã vô tình được mẹ Thiên Nhiên bảo dưỡng trong khu vườn rộng cả
mẫu tây đất nằm về tả ngạn sông Hương.
Bố tôi cai quản một sự nghiệp đồ sộ nên ông không mấy khi có nhà mà nếu thỉnh thoảng ông ở nhà một buổi thì
thời giờ ấy dành cho anh tôi, thừa kế duy nhất của ông, được ông rất mực cưng chiều và đặt nhiều kỳ vọng. Trong
nhà, người ăn, kẻ làm và thợ thuyền đông, mẹ tôi phải quán xuyến cơm nước phục vụ nhà trên, nhà dưới ba bốn
chục người nên rất vất vả, đêm nào mùa trăng thì trăng xế bóng ngọn cau mẹ tôi mới được lên giường ngủ một
giấc ngắn, áo còn nguyên mùi khói bếp, rồi lại vội vàng thức dậy lúc trăng vẫn còn mờ nhạt ở chân trời.
Lên 5, lên 6, tôi không còn quẩn chân mẹ trong gian bếp ám khói hay ở cái chuồng gà nồng nặc mùi lông nữa.
Ngoại trừ những ngày mùa đông rét mướt, tôi ngồi đằng sau cửa sổ có chấn song, nhìn mông ra cánh đồng phía
trước nhà và cả khu vườn cây lá ướt mưa lướt thướt xung quanh, lắng nghe tiếng mưa, tiếng gió rì rầm chuyện trò
trong trí tưởng non nớt của tôi ngày ấy, một mình làm bạn với chính mình. Những mùa khác trong năm thì tôi thích
hơn. Mùa Hè ở Huế nắng chang chang, tôi ôm cái chiếu nhỏ ra vườn, chọn chỗ nào có bóng râm thì trải chiếu
xuống, nằm khểnh nhìn trời, nghe chim hót ríu rít trong các lùm bụi và nhìn hoa trái khắp bốn xung quanh. Hoa mộc,
hoa sói, hoa cam, hoa bưởi, hoa chanh, hoa mận, hoa nhãn, hoa khế, hoa sầu đông, hoa thiên lý, hoa cau, hoa
nhài, hoa mẫu đơn, hoa hồng, hoa dạ lý, hoa ngọc lan, hoa violette... Ngày cũng như đêm, vườn lúc nào cũng thơm
dịu dàng hương của một loài hoa nào đấy mà tôi rất quen thuộc nên cứ mường tượng như nghe hoài trong từng
cơn gió thoảng qua. Chưa kể cả một hồ sen lớn bên phủ ông Hoàng Mười cách nhà tôi một lũy tre, quanh năm
mặt hồ xanh nghít những tàu lá rộng và mùa hè ngả nghiêng những búp hoa trắng hồng bát ngát Tịnh Tâm.
Sau này, sống và đi qua cả ba miền đất nước, tôi thấy trăng không ở đâu đẹp bằng trăng ở Huế, trong xanh trên
nền trời thăm thẳm cao, lấm tấm những đốm sao long lanh. Có lẽ nào do đời sống một tỉnh nhỏ giữa thế kỷ hai
mươi quá đỗi êm đềm và thanh sạch, hầu như không gian ở đây chưa bị ô nhiễm? Hay có lẽ do Huế có nhiều khu
vườn rộng san sát kề vai nhau, cây quả sum suê, cành lá um tùm nên ánh trăng và màu lá biếc lẫn vào nhau chập
chùng trong đôi mắt trong trẻo của đứa bé là tôi ngày xa xưa ấy? Hay có lẽ do Huế có dòng sông Hương từ
thượng nguồn đổ về xuôi, lờ lững chảy qua thành phố, mỗi năm dâng nước gội rửa những bờ tường rêu mốc và
những con đường bụi bặm vang tiếng guốc học trò bằng ba tháng mưa dầm và một tháng mưa ngâu? Cho nên
những đêm trăng mùa thu tĩnh mịch, hoa bưởi nây nã trên cao, hoa nhài ngồn ngộn dưới thấp, trắng xóa một góc
vườn, trắng xóa một góc giếng nước, trắng như không thể có gì khác trắng hơn được nữa, lồng lộng ý liêu trai.
Tôi thích nhất những buổi nắng trưa vắng vẻ nằm lim dim dưới gốc khế, nhìn hoa khế li ti màu tím hồng rung rinh
trong gió, lấm tấm bay, chỉ duỗi cánh tay nhỏ xíu của tôi ra là có cả đống ổi xiêm vặt sẵn, ruột đỏ như son, cắn răng
vào mùi thơm nức lên tận óc. Có hôm chị người làm cắp nách cái rổ đi ra ao, qua chỗ tôi chị ghé xuống hỏi: “Cô B.
có ăn ốc không?” Lẽ tất nhiên là có rồi. “Cho em đi với!” Chị nghiêm trang nói để tôi không cãi: “Cô đi theo nhưng
phải ngồi trên bờ.” Bỏ tay xuống ao khoắng một loáng, chị có ngay một rổ đầy những con ốc bưu mép vàng hươm,
chỉ nhỉnh hơn ngón tay cái của chị một tí. Chị mang vào sân bếp, đổ chúng vào cái chậu sành đựng nước vo gạo
mới chị giữ lại để ngâm một đêm cho ốc nhả hết bùn đất ra. Trưa hôm sau, chị ra vườn nhổ mấy nhánh sả, hái lá
chanh, lá bưởi lót đáy cái nồi đất để luộc. Chị làm một tô lớn nước mắm gừng, chanh, tỏi, đường, giã thêm ớt đỏ
lừ. Chị ra gốc bưởi bẻ mấy cái gai nhọn để lể ốc và cho tôi nhập bọn với mấy mẹ con chị, cùng hỉ hả, sì sụp ăn.
Những con ốc vừa giòn, vừa thơm, vừa cay, càng ăn càng say, để lại trong tôi dư vị lâu dài của những bữa tiệc ốc
không thể nào quên cùng với tuổi thơ gần gũi Thiên Nhiên.
Bây giờ hồi tưởng lại, tôi nhớ tôi ít buồn, ít khóc, ít tỵ nạnh với anh chị em về thân phận hẩm hiu của mình trong cái
gia đình quý tộc đầy rẫy bất công trong xã hội phong kiến thời đó. Thỉnh thoảng có đứa bạn ghé vườn nhà tôi hái
ổi, vú sữa hay mận, thấy tôi một mình, nó hỏi: “Mẹ H. đâu?” Tôi biết nó không nhận ra hay không nỡ đoán thầm
người đàn bà lam lũ qua lại trong tầm mắt nó là mẹ tôi nên tôi ậm ừ kéo vội nó ra vườn để không phải trả lời. Có
lẽ cho đến khi tôi rời Huế, chỉ có V. biết mẹ tôi là ai vì nhà V. ở ngay cạnh nhà tôi. Lần đầu nó qua kiếm tôi mà gặp
bà, tuy nghe bà gọi: “Cô B. ơi, có bạn tìm này!” nhưng khi tôi ra, còn đang bối rối thì nó nói nhỏ vào tai tôi: “V. biết
mẹ H. rồi! Chỉ có bà mẹ rất thương con mới gọi bằng cái giọng hiền hậu như thế!” Hơn nửa thế kỷ bặt tin nhau,
gặp lại bên Mỹ, V. cho tôi món quà quý giá thứ hai: tấm ảnh cũ kỹ chụp hai đứa như đá ngây ngô những ngày trẻ
dại. Thời loạn ly, làm sao nó giữ được và mang theo được cái kỷ niệm không ngờ ấy? Như nhiều bạn khác, V.
thương tôi đã đành nhưng tôi hiểu nó cũng thương cả mẹ tôi nữa. Điều kỳ diệu này là một bí mật bạn tôi không
bao giờ nói ra và tôi cũng sẽ không bao giờ hiểu nếu tôi không sực nhớ lại, ngày ấy, bố mẹ V. thường bảo nó đón
tôi sang nhà hai bác ăn những bữa cơm gia đình đông vui, thịnh soạn, và tôi hay hỏi nó: “V. ơi, vợ chồng gọi nhau
là anh em như bố mẹ V. hả?”
Những bài học vô ngôn mẹ Thiên nhiên ở Huế cho tôi toàn là sự bao dung và vẻ đẹp. Tràn trề. Độ lượng. Chứa
chan. Dạy cho tôi biết vui từ mỗi nhỏ nhoi, biết yêu và biết đón nhận những tặng phẩm từ Trời. Bờ sông ẩm cát ở
Bãi Dâu nhìn qua Cồn hến xanh tươi thường in dấu chân tôi những buổi chiều một mình chạy bộ ra đấy, ngồi hàng
giờ nghe tiếng sóng xô nhẹ dưới chân và mây trên đầu đem tôi theo chúng tới những chân trời thật xa. Khi những
ngọn đèn dầu leo lét được thắp lên đó đây trong các bụi bờ rậm rạp trên Cồn và bên kia sông, tôi mới hộc tốc
chạy về ăn bát cơm chiều mẹ cho, chỉ có vài con tép rang hay một con cá móm mẹ kho ngon ơi là ngon! Có khi đi
chơi mà không kịp thưa gửi, về muộn, mẹ trói vào chân ghế đánh mấy roi rớm máu. Chị người làm thay mẹ cho ăn
nhưng bát cơm vẫn mang dấu ấn của bà như mọi buổi trưa hay chiều khác. Ăn xong, mẹ đến gần, rớm nước mắt
dúi vào tay tôi quả na hay quả hồng đang mùa, dặn tôi lần sau đi đâu khỏi nhà phải nói để bà không lo lắng. Tôi
biết bà rất bận, công việc nhà làm tới nửa đêm chưa xong nhưng hôm đó mẹ ngồi lại trên thềm, cho tôi gối đầu lên
chân bà nhìn đom đóm bay trong vườn, hỏi hàng chục câu trẻ con bà không trả lời được và khi cái quạt nan rơi
xuống ngực tôi, tôi biết bà ngủ gật.
Bé tí thôi, tôi được Mẹ Thiên Nhiên vỡ lòng bài học Hạnh Phúc bằng cách hòa mình với xung quanh, lúc mừng vui
lắng nghe tiếng con ong bay vù vù trên khóm hoa trang mà tôi thường ngắt một bông để rút ra những cái cuống nhỏ
xíu đầy mật và hút đến mỏi mồm; lúc nhìn xuống giếng xem mẹ có thả xuống đấy mấy đẵn mía cho chúng lên men
rượu thì kéo lên một khúc rồi tha thẩn tìm một chỗ ngồi gậm, nghe tỏa lan trong hồn hương thơm, mật ngọt và hơi
lạnh từ giếng sâu.
Thế hệ con cái tôi không được hưởng đặc ân này tuy xét một cách khác, chúng có nhiều ưu thế hơn thời tôi khôn
lớn. Chúng không quá sợ cha mẹ như thế hệ tôi nhưng nhiều khi chúng sử dụng sai tự do. Khi chúng thất vọng
điều gì, chúng không có mẹ Thiên Nhiên kề cận trong thinh lặng riêng mình để được vỗ về, an ủi, mở mắt, mở lòng
cho chúng biết đón nhận nhiệm mầu của đời sống không chỉ quẩn quanh trong buồn vui nghiệt ngã thế gian. Chỉ
hưởng một phần rất nhỏ ân huệ cho đi không tiếc của Mẹ Thiên Nhiên là đủ an vui để... lãng quên phận người và
thấy cuộc sống có thêm nhiều ý nghĩa.
Bùi Bích Hà