![UserPostedImage](http://gdb.voanews.com/8BACD8B2-C149-4FF9-B4F5-B87AE5BC5EAA_w640_r1_s.jpg)
Máy bỏ phiếu điện tử tại Columbus, bang Ohio, Hoa Kỳ.
Nhân nói về phong trào tự ứng cử vào Quốc hội Việt Nam (trong bài trước), chúng ta thử bàn về mối
quan hệ giữa bầu cử và dân chủ.
Trước hết, cần khẳng định ngay, không có quốc gia dân chủ nào lại không có bầu cử. Có thể xem
bầu cử là biểu hiện đầu tiên và rõ rệt nhất của dân chủ. Lý do là dân chủ, tự bản chất, là thiết chế
tạo điều kiện cho người dân có quyền và có cơ hội thực thi quyền lựa chọn giới lãnh đạo cũng như
tác động đến các chính sách quan trọng trong việc đối nội cũng như đối ngoại của quốc gia. Các
cuộc bầu cử được tổ chức thường kỳ nhằm bảo đảm những nhà lãnh đạo phải là những người
được sự tín nhiệm của đa số (trên 50%) dân chúng, hơn nữa, đó cũng là cách giới hạn thời gian
cầm quyền của họ (trong ba, bốn hoặc năm năm, tuỳ quốc gia).
Tuy nhiên, từ kinh nghiệm cũng như từ lịch sử, chúng ta cũng có thể khẳng định một sự thật khác:
Không phải cứ hễ có bầu cử là có dân chủ. Trong một cuộc phỏng vấn trước lúc chính thức nhậm
chức vào đầu năm 2009, Tổng thống Barrack Obama nhận định: “Tôi nghĩ thật là lầm lẫn khi đánh
đồng dân chủ và các cuộc bầu cử. Bầu cử không phải là dân chủ như cái điều mà chúng ta hiểu.”
Mà không cần phải chờ đến câu tuyên bố của Obama, chỉ cần nhìn lại lịch sử cũng như tình hình
chính trị thế giới hiện nay, chúng ta cũng có thể thấy vô số các nhà độc tài được lên cầm quyền từ
các cuộc bầu cử. Hitler ở Đức, Ferdinand Marcos ở Philippines là những ví dụ gần gũi nhất. Hiện
nay, tại nhiều quốc gia, từ Nga đến Iran, Syria, Zimbabwe, Venezuela cũng như nhiều nước khác ở
châu Phi và Nam Mỹ, tuy cũng có bầu cử nhưng, tự bản chất, các nhà lãnh đạo vẫn là những tên
độc tài.
Vậy khi nào thì bầu cử là biểu hiện của dân chủ?
Điều kiện đầu tiên để một cuộc bầu cử được xem là dân chủ là nó phải được tiến hành một cách tự
do và minh bạch. Khái niệm tự do bao gồm ba khía cạnh: tự do ứng cử; tự do vận động tranh cử; và
tự do có những quan điểm và chính sách riêng, khác với nhà cầm quyền. Sự minh bạch cần được
thể hiện trong toàn bộ tiến trình bầu cử, đặc biệt trong giai đoạn kiểm phiếu. Để tạo sự tin cậy, hầu
hết những quốc gia khởi sự dân chủ hoá đều mời các phái đoàn quốc tế đến chứng kiến và kiểm tra
việc bầu cử.
Ở Việt Nam, cho đến nay, việc bầu cử vừa không có tự do vừa không hề minh bạch. Dân chúng
khái quát hoá việc bầu cử trong một công thức rất hay: “Đảng cử, dân bầu”. Tất cả các ứng cử viên
đều do đảng, thông qua Mặt trận Tổ quốc, một tổ chức ngoại vi của đảng, lựa chọn. Qua các cuộc
sàng lọc được gọi là “hiệp thương”, các ứng cử viên độc lập đều bị loại bỏ. Hơn nữa, việc kiểm
phiếu hoàn toàn nằm trong tay nhà nước. Những người thắng cử, đặc biệt, những cán bộ cao cấp,
bao giờ cũng đạt đến trên 90%, thậm chí, có khi 99% phiếu bầu (1). Cuối cùng, Quốc hội, với trên
90% là đảng viên, chỉ là một chi bộ được mở rộng, ở đó, người ta phải chấp hành nguyên tắc “tập
trung dân chủ”, nghĩa là nhất nhất đều theo chỉ thị của cấp trên (được hiểu là Ban Chấp hành Trung
ương). Chính vì thế, ở Việt Nam, hầu như không bao giờ Quốc hội có một tiếng nói ngược lại các
chỉ thị của Bộ Chính trị. Đó không phải là dân chủ.
Cũng cần lưu ý là, ở Việt Nam, người dân chỉ được phép bầu cử Quốc hội, nhưng cơ quan có thực
quyền cao nhất trong sinh hoạt chính trị cả nước là Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị thì
lại chỉ được các đại biểu đảng viên bầu lên. Dân chúng hoàn toàn là những người ngoại cuộc. Đó
càng không phải là dân chủ.
Điều kiện thứ hai để có một cuộc bầu cử dân chủ là nó phải có một nền tảng pháp quyền vững
chắc. Trong chính trị học Tây phương, người ta phân biệt hai khái niệm pháp quyền (rule of law) và
pháp trị (rule by law) (2). Một nhà nước pháp quyền là nhà nước đặt mọi người, từ giới cai trị đến
giới bị trị, dưới pháp luật. Mọi chính sách và mọi hành xử đều phải đúng theo tinh thần thượng tôn
pháp luật. Ở nhà nước pháp trị, ngược lại, giới cầm quyền sử dụng pháp luật để cai trị dân chúng,
trong khi chính họ thì lại nằm ngoài hoặc ở trên luật pháp. Ở Việt Nam, người ta thường tự xưng là
nhà nước pháp quyền nhưng thực chất họ chỉ là nhà nước pháp trị. Chỉ có dân chúng là bị buộc
phải tuân thủ theo pháp luật, còn những người lãnh đạo (hoặc do dân bầu hoặc đảng viên bầu) thì
lại chỉ tuân thủ theo luật lệ của đảng. Hậu quả, người ta thường thấy nhất là: Một nhân viên kế toán
quèn làm thất thoát vài triệu đồng thì bị mang ra toà xét xử, nhưng một cán bộ gộc làm thất thoát cả
hàng ngàn tỉ đồng thì chỉ bị xét xử trong nội bộ đảng với một án phạt thường thấy nhất là cảnh cáo.
Điều kiện thứ ba để có bầu cử thực sự dân chủ là quyền lực phải được phân tán và được kiểm
soát. Có nhiều biện pháp để phân tán và kiểm soát quyền lực. Một là cơ chế tam quyền phân lập, ở
đó, lập pháp và tư pháp có quyền kiểm soát hành pháp. Hai là sự hiện diện của các đảng phái đối
lập với chức năng theo dõi và phản biện lại các chính sách của đảng cầm quyền. Ba là quyền tự do
ngôn luận để giới truyền thông cũng như dân chúng nói chung có thể phát hiện và phê phán các
chính sách cũng như hành động sai trái của các chính trị gia, kể cả những người thuộc giới lãnh
đạo cao nhất trong cả nước. Ở Việt Nam, ngược lại, mọi quyền lực đều tập trung vào đảng Cộng
sản. Đảng làm luật và đảng kiểm soát luật. Đảng thực thi quyền cai trị và cũng đảng kiểm soát việc
thực thi quyền lực ấy. Trong bối cảnh như thế, mọi đại biểu do dân chúng bầu lên đều chỉ là những
con rối trong guồng máy lãnh đạo của đảng.
Nói một cách tóm tắt, ở Việt Nam, việc bầu cử Quốc hội, tự bản thân nó, không dân chủ. Nhưng
ngay cả khi nó được tiến hành một cách dân chủ, nghĩa là ở đó dân chúng được tự do chọn lựa
những người đại diện cho mình thì trong cơ chế pháp trị và độc quyền hiện nay việc bầu cử ấy cũng
không dẫn đến dân chủ.
Nói cách khác, để dân chủ hoá Việt Nam, vấn đề không phải chỉ là thay đổi cách bầu cử mà là ở
việc thay đổi cơ chế chính trị.
Theo Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc (VOA)
___________________
Chú thích:
1. Giới nghiên cứu chính trị Tây phương thường cho hầu hết các cuộc bầu cử trong đó giới lãnh
đạo đạt được trên 75% số phiếu đều là gian lận. (Xem cuốn Democracy của Charles Tilly do
Cambridge University Press xuất bản năm 2007, tr. 3).
2. Một số người khác dịch hai thuật ngữ này theo hướng ngược lại: Rule of law = pháp trị; và rule
by law = pháp quyền.