Trong thực tế đối với bất kỳ một đất nước hay một quốc gia nào trên hành tinh này, thì sự hòa bình và tương ái đối với toàn dân, là nền tảng duy nhất được kết tinh từ sự hòa ái của tình người mà có. Sở dĩ người dân sống theo tinh thần đó, là bắt nguồn từ một nền văn hóa của quốc gia hay đất nước đó từ lúc khai sinh và trưởng thành. Là một bộ luật vô hình của một nước có nền văn hóa cao, và từ đó chính quyền có một trách nhiệm tinh thần để sáng tạo và một chiều sâu để khai sáng theo chế độ dân cử, sẽ tạo nên một trình độ dân trí cao, và nền trật tự xã hội sẽ cao hơn.
Chúng tôi có thể nói rằng, không có một học thuyết xã hội nào có một khả năng hay một kiến giải thỏa đáng đối với tinh thần nhân bản của dân trí đó từ đâu mà có! Và một điều thật đáng tiếc từ những nạn tranh quyền đã xảy ra, để đẩy dân đến chỗ chết từ đó. Khiến văn minh tiến bộ của dân tộc không có đủ thời gian và hoàn cảnh để tiếp thu sự tiến hóa là điều bất hạnh đối với dân tộc đó vô cùng, chính là dân tộc Việt Nam. Điều ấy, chúng tôi muốn nói một cuộc nội chiến Nam Bắc triều từ năm 1533-1592. Và tiếp tục cuộc chiến Trịnh Nguyễn Phân Tranh, khởi đầu mầm mống từ năm (1600-1786). Nhưng thưa quý bạn trẻ, chúng tôi cũng xin nhấn mạnh và khẳng định điều này để qúy bạn trẻ trong nước không nhầm lẫn là cuộc chiến sau khi cắt đôi Nam Bắc vào hai 20.07.1954 của ông Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản, rõ ràng là cuôc xâm lăng chiếm thị trường giữa hai khối, là Cộng sản Quốc tế do CS Nga lãnh đạo, và một bên là Tư bản do Mỹ lãnh đạo. Chính vì thế, chúng ta không thể gọi là cuộc chiến xâm lăng đó là: ”nội chiến”, mà đó là cuộc xâm lăng qua trung gian của đảng CS QT, do ông Hồ Chí Minh thi hành dưới lãnh đạo trực tiếp CSQT trong cà hai mặt trận: Quân sự và Chính trị.
Chúng tôi xin gợi lại sự trầm luân nhưng bất khuất và trường kỳ của dân tộc Việt Nam (Lạc Việt sống trên đất phương Nam) trong suốt hơn một ngàn năm đô hộ của người Hán (111-939), mà từng lớp Tiền-nhân đã tranh đấu để thoát ra khỏi ách thống trị phương Bắc, bằng cả một ngàn năm xương máu và hy sinh. Từ thời hai Bà Trưng đến Vương Ngô Quyền, mới hoàn toàn độc lập. Sau đó, năm triều đại có công với quốc gia dân tộc, là chống phương Bắc xâm lăng để giữ nước, gồm các triều đại là Tiền Lê, Hậu Lý, Trần, Hậu Lê, và Nguyễn Tây Sơn. Viết đến đây, chúng tôi liên tưởng đến từ nhiều pho sử viết về thời Đại-đế Quang Trung Nguyễn Huệ xuất hiện và khuất núi. Rồi đến thời chúa Nguyễn Ánh lại tiếp tục cuộc tranh dành quyền lực, có được Pháp (tức Giám mục Bá-đa-lộc vận động cầu viện… và 3 nước láng giếng là Lào, Mên. Xiêm La sang giúp để đánh thắng đời sau của Đại-đế Quang Trung Nguyễn Huệ, là vua Cảnh Thịnh, con của Ngài. Và chúa Nguyễn Ánh thắng vào nắm 1801, lên ngôi 1802, ngài ở ngôi được 18 năm qua đời, đến vua Minh Mạng, và cuối đời vua Thiểu Trị, tức vào năm 1847, Pháp bắt đầu ra mặt đe dọa để xâm lăng; chưa đầy 28 năm khi vua Gia Long qua đời. Vậy, đất nước bắt đẩu bước vào cuộc đô hộ khác thật là một dân tộc trầm luân nhưng bất khuất, mà trên hành tinh này chưa có dân tộc nào tốn kém xương máu để giữ nền độc lập như dân tộc Lạc Việt trên đất phương Nam, phải đối đấu với hai cuộc chiến chống thực dân như phương Bắc (Hán, Mông và Mãn), và thực dân phương Tầy (Pháp).
Cuộc chiến chống thực dân phương Tây, sau gần một trăm năm, khi vừng hồng độc lập vửa ló dạng, thì lại bị tiếp tục chịu đựng một cuộc xâm lăng của thực dân Cộng -sản (Nga Tàu). Và hiện tại trên đất nước đang phải chịu cảnh trầm luân còn đau khổ và ác độc hơn hai cuộc xâm lăng và đô hộ của thực dân Hán: Phương Bắc và thực dân Pháp:Phương Tây, là vì cùng giống người mang tên Việt Nam. Đó là cuộc đô hộ của thực dân Cộng sản từ tay sai Tàu cộng, chính là kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Việt Nam trong mấy ngàn năm cho đến hiện tại và không bao giờ ngưng một khi có điều kiện và cơ hội.
Qúy bạn trẻ thân mến, khi chúng tôi đọc đoạn văn bất hủ này của Sử gia Phạm Văn Sơn, mà Ông đã tạ thế trong cảnh biệt giam tại nhà tù ”cải tạo” vào những năm sau Quốc Nạn 30.04.1975. Nhưng tư tưởng của một Sử-gia thì bất từ. Chúng tôi xin chia sẻ với hết thảy, nhất là bạn trẻ tại trong và ngoài nước, đã và đang cưu mang một hoài bảo chung cho một cuộc đấu tranh, là giải thế đảng Việt gian cộng sản để giành lại một nước Việt Nam độc lập, tự do và dân chủ trong tinh thần hướng thượng.
Phần kết, chúng tôi xin kính mạn phép cố Sử-gia Phạm Văn Sơn xin ghi lại lời sâu sắc và thực tiển của một Sử gia đối với toàn dân như sau:
”Dân tuy ngu nhưng sự hiểu biết của dân rất là mau lẹ. Nếu họ bị xé lẻ thì quả thật họ không biết gì nhưng cái thiên năng chung (instinet collectif) của họ thì thần tốc và kỳ diệu lạ lùng. Họ có thể hiểu một cách trực giác tất cả những cái gì bí hiểm nhất, gian nhất của những nhà lãnh đạo.
Vậy ai làm chính trị mà coi thường nhân dân thì chính người đó mới là kẻ u mê và sớm muộn phải đi đến chỗ thất bại”
(Sử-gia PHẠM VĂN SƠN)
Vĩnh Nhất Tâm 02.04.2013
Tái bút: Xin thưa tất cả là sự thực của Lịch sử xin được lược lại để cùng nhau chiêm nghiệm công khó của Tiền-nhân và dân tộc đã trầm luân và đau khổ không phải là đứng núi này trông núi nọ để giống nòi không có lối thoát.