c) Tác hại của việc giữ im lặng hoặc chối bỏ sự thật (khả dĩ thứ ba):
Việc biết sự thật nhưng giữ im lặng hoặc chối bỏ sự thật trong khả dĩ thứ ba, có lý do tồi tệ khi việc đó chỉ để che giấu sai lầm của mình trong quá khứ, hoặc phản ảnh bản chất hèn nhát hoặc sợ sệt cho hậu quả nếu mình phá tan sự im lặng và công bố sự thật, hoặc việc giữ im lặng dẫn đến hậu quả tác hại hơn việc phá tan sự im lặng, hoặc khi việc đó ảnh hưởng không tốt đến người khác.
Thí dụ, trước đây bạn ca ngợi và tôn thờ Võ Nguyên Giáp, nhưng qua tìm tòi và nghiên cứu, bạn biết được Võ Nguyên Giáp là viên tướng hèn nhát và ác độc, Tuy nhiên, vì lý do nào đó, bạn giữ im lặng và không chia sẻ kiến thức đó với ai, kể cả họ hàng, bạn bè, và con cháu bạn, và bạn để họ tiếp tục tôn thờ hình ảnh Giáp. Bề ngoài, việc bạn giữ im lặng khi biết sự thật hoặc chối bỏ sự thật, giống như việc bạn không biết sự thật. Trong cả ba trường hợp, không ai nghe bạn nói xấu gì về Giáp. Do đó, những gì bạn ca ngợi và tôn thờ Giáp trước đó, vẫn còn y nguyên. Con cháu bạn hoặc bạn bè, người quen bạn, vẫn nghĩ rằng bạn vẫn tôn thờ Giáp, và nếu họ không có dịp biết sự thật hoặc nếu họ có niềm tin tưởng vào trí phán đoán của bạn, họ sẽ tiếp tục tôn thờ Giáp. Hậu quả tác hại này thật hiển nhiên. Nếu bạn là người hành nghề có lý tưởng là tôn trọng sự thật (thí dụ nghề giáo, phóng viên, ký giả), việc bạn im lặng hoặc chối bỏ sự thật còn là một hành động xúc phạm luân lý và đạo đức. Đó là vì bạn không đủ can đảm tự nhận sai lầm của mình trong quá khứ để đạt mục tiêu cao cả trong nghề nghiệp của bạn là truyền bá sự thật cho những người không có cơ hội hoặc phương tiện tìm tòi sự thật như bạn.
Có người viện lý do rằng họ giữ im lặng vì việc nói ra sự thật không cần thiết và còn có thể tạo hậu quả bất lợi cho mục tiêu quan trọng hơn. Tuy nhiên, lý do này không đứng vững và có thể gây tác hại cho cuộc đấu tranh cho tự do dân chủ.
Thí dụ, có những người hiện đang đấu tranh cho nhân quyền, tự do dân chủ cho Việt Nam, tích cực bày tỏ ý tưởng đả kích chế độ cộng sản và xã hội chủ nghĩa. Họ vạch ra những điểm tệ hại của chế độ cộng sản hiện nay, gồm có bất tài, tham nhũng, nô lệ Tàu cộng, ích kỷ, thiển cận, tàn ác, v.v. Tuy nhiên, họ không bao giờ vạch ra những điểm tệ hại của đảng cộng sản Việt Nam trong quá khứ, từ lúc mới thành lập, trải qua cuộc chiến tranh chiếm đoạt miền Nam năm 1975. Đặc biệt, họ không dám chỉ trích Hồ Chí Minh hoặc những lãnh tụ cộng sản khác như Võ Nguyên Giáp. Họ thường giữ im lặng, hoặc chỉ viết một cách mơ hồ với ngụ ý hoặc ám chỉ thay vì nói thẳng ra, nhiều khi còn bày tỏ sự ngưỡng mộ hoặc kiêng dè về đảng cộng sản Việt Nam và các lãnh tụ đảng trong quá khứ.
Bảo rằng họ không biết những tội ác, lừa đảo, và sai lầm của Hồ Chí Minh và đảng cộng sản Việt Nam trong quá khứ thì không đúng, vì có biết bao nhiêu chứng cớ cho việc này. Họ thường là những người có học và dư sức tiếp cận được tài liệu, tin tức, báo chí, sách vở khắp nơi, nhất là dưới sự thịnh hành của Internet. Họ biết và tin vào các tài liệu phơi bày tộc ác, lừa đảo, và sai lầm của Hồ Chí Minh và đảng cộng sản Việt Nam trong quá khứ và hiện tại, nhưng họ không đả động gì đến Hồ Chí Minh và đảng cộng sản Việt Nam trong quá khứ. Đương nhiên, với những người vẫn còn tin Hồ Chí Minh và đảng cộng sản đời đầu tốt, họ thuộc loại "cố tình không biết" hoặc "quyết tâm ngu" như trình bày ở trên. Ngoài ra, có những người làm việc với NCQCS để đóng vai trò "dân chủ cuội" hô hào tự do dân chủ nhân quyền, nhưng vẫn giữ im lặng hoặc lộ ý đảng cộng sản "trước tốt, nay xấu" để gây chia rẽ hoặc tạo hoang mang, làm suy yếu tinh thần đấu tranh. Tôi sẽ không coi những người này là những người im lặng hoặc chối bỏ thực thụ.
Những người giữ "im lặng" hoặc "chối bỏ sự thật" (trong khả dĩ thứ ba) là những người đề xướng, với hàm ý, ý tưởng cộng sản đầu đời tốt, chỉ bây giờ mới thoái hóa, suy đồi, và trở nên xấu xa. Mức độ "im lặng" của những người này thường không giống nhau. Có người giữ tuyệt đối im lặng và không bao giờ nhắc đến Hồ Chí Minh hay các lãnh tụ cộng sản khác. Có người không nhắc đến rõ rệt, nhưng đề cập đến một cách kín đáo hoặc chỉ đề cập đến vì lỡ lời. Có người không nhắc đến trực tiếp, nhưng một cách gián tiếp, như thể vẫn còn tiếc nuối một quá khứ mà họ cho rằng huy hoàng. Ta không rõ chính xác nguyên nhân sâu xa cho ý nghĩ "trước tốt, nay xấu" này của họ, nhưng ta có thể có vài suy đoán như trình bày dưới đây.
Có nhiều lý do khiến họ rêu rao "cộng sản đời trước tốt": (1) Họ không muốn tự nhận mình dại dột, khờ khạo, tin vào lời dụ dỗ của cộng sản khi họ còn trẻ; (2) Họ không muốn làm nhục danh tiếng mình hoặc cha ông mình, thường được coi là "lão thành cách mạng" hoặc "công thần" của đảng; (3) Họ không muốn bị nhận diện là những kẻ gian tham, tàn ác, sát nhân, hoặc khủng bố dưới danh nghĩa giành độc lập hoặc chống Mỹ diệt Ngụy, trong khoảng thời gian chiến tranh.
Có nhiều lý do khiến họ khẳng định "cộng sản đời nay xấu": (a) Sự thật rành rành trước mặt, như "con voi trong phòng," và họ không thể làm ngơ được; (b) Họ đã bị "thất sủng," hoặc về hưu, và không còn hưởng lợi lộc gì nữa; (c) Họ cảm thấy hối hận, nhưng không có đủ can đảm thú nhận "cộng sản đời trước xấu," và hy vọng bằng cách chỉ trích "cộng sản đời nay xấu," họ đóng góp phần nào trong việc lật đổ chế độ cộng sản để chuộc lại lỗi lầm trong quá khứ; (d) Họ biết đảng cộng sản sắp bị sụp đổ, và tính mạng hoặc cuộc sống của họ sau cộng sản sẽ khó khăn hoặc nguy hiểm. Do đó, họ muốn "kiếm điểm" trước để phòng hờ những trừng phạt sau này; và (e) Họ không mất mát gì khi tố cáo "cộng sản đời nay xấu" vì nhóm cầm quyền coi thường tiếng nói họ cho rằng họ đã già cả và chẳng ai thèm tin họ. Nhóm cầm quyền cũng chẳng hơi đâu phí nhân lực tiền tài truy tố hoặc bắt bớ họ.
Lý do những người rêu rao đảng cộng sản Việt Nam "trước tốt, nay xấu" là kết hợp của các lý do (1), (2), (3), (a), (b), (c), (d), và (e) trên, có thể kết hợp nhiều lý do cùng lúc. Thí dụ, (1)(a); (3)(d)(e); (2)(a)(b); v.v... Vì họ giữ im lặng một phần sự thật về đảng cộng sản trong quá khứ dưới nhiều mức độ khác nhau, việc họ chỉ trích đảng cộng sản hiện nay là hành động nói lên chỉ một nửa sự thật.
Một nửa sự thật thường có tác dụng nguy hiểm. Người Mỹ có câu, "Nửa sự thật thường là câu nói láo to lớn." ("Half the truth is often a great lie." - Benjamin Franklin), và "Một nửa sự thật còn tệ hơn câu nói láo hoàn toàn vì nó khiến cho ta khó biết được sự khác biệt giữa hai việc đó." ("A half truth is much worse than a whole lie because it makes it even harder to tell the difference between the two." - Gene Ruyle). Khi một người chỉ nói nửa sự thật, câu đó nhiều khi còn tệ hơn câu nói láo trắng trợn. Khi người ta nghe một câu nói láo, người ta có thể tin hoặc không tin. Nhưng câu nửa sự thật để mở nửa kia. Do đó, người nghe có thể lắp bất cứ gì vào nửa mở đó, và diễn giải theo sự sắp đặt của họ.
Thí dụ, trong trường hợp những người hô hào tự do dân chủ nhưng viện dẫn cộng sản "trước tốt, nay xấu," họ chú trọng nhiều vào nửa sự thật "cộng sản hiện nay xấu," nhưng không tiết lộ rõ nửa sự thật kia ("cộng sản đời trước cũng xấu"), và nhiều khi còn ám chỉ ngược lại ("cộng sản đời trước tốt"). Họ cho rằng nửa sự thật về quá khứ không cần thiết, vì để lật đổ thể chế cộng sản hiện tại, người dân chỉ cần biết cộng sản hiện tại xấu xa.
Cái sai lầm trầm trọng của lối suy nghĩ này là không phải ai cũng dùng cùng "phương trình" như họ. Trong phương trình đấu tranh của họ, chỉ có bản chất hiện nay của cộng sản là ẩn số. Do đó khi ẩn số này được tìm ra thì phương trình được giải. Tuy nhiên, có một số người (thực ra số này có thể là đa số) có phương trình tranh đấu khác. Trong phương trình này, bản chất quá khứ của cộng sản là ẩn số chính và bản chất hiện nay của cộng sản là ẩn số phụ. Với những người này (nhất là thế hệ trẻ), họ đã bị nhồi sọ quá nhiều về "cộng sản đời đầu tốt." Do đó, tuy họ ý thức được tình trạng xấu xa hiện tại, họ vẫn ngần ngại đứng lên mạnh mẽ, vì họ vẫn còn luyến tiếc những hình ảnh oai hùng (lừa bịp) của cộng sản đời đầu. Ngoài ra, khi những người này tin một cách sai lầm rằng cộng sản đời đầu tốt, họ sẽ giảm thiểu mức độ trầm trọng của tình trạng cộng sản đời nay xấu. Họ sẽ cho rằng không cần phải lật đổ hay thay đổi hoàn toàn cộng sản hiện tại, mà chỉ cần sửa đổi chế độ và tiếp tục đi theo con đường vạch ra từ cộng sản đời đầu.
Tìm hiểu sự thật về lịch sử và đảng cộng sản Việt Nam trong quá khứ là việc quan trọng trong việc giải ẩn số về "cộng sản đời đầu." Đã có rất nhiều tài liệu, bài vở, sách báo về đề tài này. Do đó, tôi sẽ chú trọng nhiều hơn về "cộng sản hiện tại." Thực ra, những điểm xấu xa về cộng sản hiện nay cũng được trình bày rộng rãi qua các tài liệu, sách vở, báo chí, và bài vở trên mạng. Tuy nhiên, có một khía cạnh ít có chú ý là xác định tiêu chuẩn để đánh giá tình trạng nhân quyền và tự do dân chủ tại Việt Nam. Vấn đề này sẽ được thảo luận trong phần kế tiếp.
B. Tình trạng và mức độ "không biết" tại Việt Nam:Tình trạng "không biết" tại Việt Nam có thể được chia ra cho hai khối: người dân và nhóm cầm quyền cộng sản (NCQCS). Sự phân biệt này rất quan trọng vì nó nhấn mạnh một đặc điểm của việc thu thập tin tức hoặc tài liệu: NCQCS kiểm soát việc truyền bá tin tức và tài liệu trong nước. Ngoài ra, NCQCS đặt ra hệ thống giáo dục và kiểm soát các phương tiện truyền thông, và do đó hầu như có toàn quyền quyết định đề tài hoặc nội dung nào được giảng dạy hoặc truyền bá.
Phần lớn dân Việt Nam sống tại Việt Nam thờ ơ với chính trị; một phần vì cuộc sống quá bận rộn; một phần vì họ cho rằng họ đã có đầy đủ, hoặc nếu có thiếu sót chút ít cũng không sao; một phần vì họ không biết đòi hỏi ai hoặc đòi hỏi gì khi họ sống trong cảnh nghèo túng. Đảng cộng sản Việt Nam càng làm tăng lối suy nghĩ này qua chính sách mị dân, tuyên truyền ca ngợi chế độ cộng sản, càng làm cản trở ý thức về tiến bộ và văn minh của dân.
Ngoài ra, có thể còn tệ hơn thế nữa, nhiều người, không phải kém hiểu biết mà còn hiểu biết rất rõ những cái tốt đẹp, hay ho, hoặc tiến bộ ở các nơi khác, nhưng họ vẫn cắn răng chịu sống dưới chế độ cộng sản. Đương nhiên, không phải ai cũng thế. Nhờ sự truyền bá thông tin trên Internet và các mạng xã hội, nhiều người dân Việt đã hiểu rõ sự thật về đảng cộng sản Việt Nam. Họ tích cực tham gia cuộc đấu tranh cho tự do dân chủ và nhân quyền. Tuy nhiên, số này vẫn còn là thiểu số.
Một trong những chuyện kỳ lạ nhất của NCQCS tại Việt Nam là họ thích so sánh Việt Nam dưới chế độ cộng sản với các quốc gia Tây phương, nhất là Hoa Kỳ, và thường tự hào Việt Nam dưới chế độ cộng sản có nhiều ưu điểm hơn Hoa Kỳ. Không có gì sai trái về việc so sánh với một siêu cường quốc tế, nếu không muốn nói việc đó nên được khuyến khích, vì việc đó, khi được thực hiện thích đáng, nâng cao tinh thần dân tộc, và giúp mọi người thấy được vị trí của đất nước so với thế giới. Tuy nhiên, NCQCS tại Việt Nam có những so sánh quái đản và đưa ra những kết luận ngu xuẩn và chỉ làm trò cười cho thiên hạ.
Thay vì so sánh để nhận ra sự yếu kém và học hỏi, NCQCS so sánh để chỉ trích Hoa Kỳ và tự nâng cao thành quả của mình với ý đồ mị dân và lừa gạt những người không biết. Thông thường, khi muốn làm nổi bật giá trị của mình so với đối phương, ta nên chọn lựa những phương diện mình có nhiều điểm tốt đẹp trong khi đối phương có nhiều điểm yếu kém. Ngược lại, đảng cộng sản Việt Nam, như thể điếc không sợ súng, hoặc quá ngu xuẩn, hoặc dùng chiêu độc đáo cho rằng càng nói những chuyện nghe có vẻ điên khùng càng làm tăng niềm tin người khác, lại lôi những điểm yếu kém nhất của mình và so sánh với những điểm mạnh mẽ nhất của các thể chế dân chủ. Các điểm này gồm có tinh thần dân chủ, sự tự do, chế độ pháp lý, và nhân quyền.
Chúng ta đã quá quen nghe những câu phát biểu kỳ quặc và lố bịch đến độ khôi hài của cấp lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam. Tổ̀ng bí thư Nguyễn Phú Trọng ca ngợi thể thức bầu cử trá hình của đảng là "Dân chủ thế này là cùng" (VOA 2016). Phó chủ tịch nước Việt Nam Nguyễn Thị Doan từng nói, "Dân chủ của Việt Nam 'cao hơn gấp vạn lần so với dân chủ tư sản'" (Wikipedia 2016a). Nguyễn Thanh Sơn, cựu Thứ trưởng Bộ Ngoai Giao Việt Nam, tuyên bố, "So sánh dân chủ ở Mỹ với dân chủ ở Việt Nam thì chưa biết ở đâu hơn ở đâu" (BBC Tiếng Việt 2013).
Đương nhiên hầu hết người dân chẳng tin, thường bỏ qua, và chế giễu chửi rủa các câu nói đó. Tuy nhiên, không tin, chế giễu, hoặc chửi rủa là một chuyện; tìm ra sự thật, hiểu rõ vấn đề và xác định chính xác mức độ dối trá và lừa đảo là một chuyện khác. Việc tìm ra sự thật còn quan trọng hơn khi những kẻ nói láo lừa đảo đó nắm giữ quyền hành trong nước, vì chúng lạm dụng quyền hành và lừa đảo những người ngây thơ khác. Do đó, không những bạn không tin, chế giễu, hoặc chửi rủa những gì nhóm cầm quyền cộng sản phát biểu (hoặc báo chí, dư luận viên phát biểu dưới lệnh nhóm cầm quyền), bạn cần phải tìm ra sự thật và truyền bá sự thật cho mọi người.
Người dân Việt có thể chưa hoàn toàn thấu đáo các khái niệm trừu tượng về dân chủ và nhân quyền, nhưng họ thường có những va chạm cụ thể với nhóm cầm quyền cộng sản qua những luật lệ và cách thức thi hành pháp luật của đảng cộng sản Việt Nam. Chính những luật lệ và cách thức thi hành pháp luật này liên hệ đến dân chủ và nhân quyền. Do đó, rất quan trọng cho người dân hiểu biết rõ giá trị của hệ thống pháp luật tại Việt Nam khi so sánh với các quốc gia văn minh khác, nhất là Hoa Kỳ.
Tìm hiểu về hệ thống pháp lý và các khái niệm về nhân quyền tại Hoa Kỳ giúp người dân Việt Nam đánh giá rõ rệt và cụ thể giá trị pháp lý và nhân quyền tại Việt Nam, và do đó có một nhận thức chính xác về mức độ tôn trọng nhân quyền và các lý thuyết căn bản về pháp luật tại Việt Nam. Tuy nhiên, ta nên nhận rõ một điều rằng trên giấy tờ, NCQCS vẽ vời những điều khoản hoặc luật lệ nghe có vẻ tôn trọng nhân quyền và tự do dân chủ, nhưng trên thực tế, NCQCS đi ngược lại những gì họ vẽ vời và áp dụng bạo lực hoặc "luật rừng" để bảo vệ thể chế độc tài.
Dầu sao chăng nữa, với kiến thức rõ rệt về hệ thống pháp lý và cách thức thi hành luật tại Hoa Kỳ, người dân Việt sẽ có thể đánh giá những huênh hoang lừa bịp của NCQCS. Thí dụ, có những án lệ trong hệ thống pháp luật tại Hoa Kỳ khiến thế giới kinh ngạc về mức độ tôn trọng tự do ngôn luận của người dân. Điển hình là phán quyết Communist Party of Indiana v. Whitcomb (1974) (Wikipedia 2016b). Trong phán quyết này, Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ (TCPVHK) bênh vực Đảng Cộng Sản Hoa Kỳ, một đảng tí hon hoạt động công khai trên Hoa Kỳ, phán, "một nhóm ủng hộ việc lật đổ bằng bạo lực như là một học thuyết trừu tượng thì không nhất thiết coi là ủng hộ hành động phạm pháp" ("a group advocating violent overthrow as abstract doctrine need not be regarded as necessarily advocating unlawful action.") Có bao nhiêu người dân Việt biết đến phán quyết này khi TCPVHK bênh vực kẻ thù của Hoa Kỳ để bảo vệ quyền tự do ngôn luận của người dân?
C. Kết luận:Không biết, cố tình không biết, ngu dốt, im lặng, và chối bỏ là những khái niệm căn bản trong cuộc sống xã hội, và chúng có nhiều khía cạnh liên hệ nhau. Thảo luận chi tiết về các định nghĩa, phân loại, và so sánh những khái niệm này giúp chúng ta hiểu rõ víệc xác định hoặc phân loại những lý luận, lập trường, hoặc chủ trương trong công cuộc đấu tranh cho tự do dân chủ.
Xã hội Việt Nam dưới chế độ cộng sản thể hiện nhiều khía cạnh của "không biết." Người dân đa số không biết nhiều việc liên can đến cuộc sống của họ vì nhóm cầm quyền áp dụng chính sách khủng bố tinh thần qua các kỹ thuật mị dân, tuyên truyền, nhồi sọ, và tẩy não. Các kỹ thuật này thường được hỗ trợ bởi bạo lực, đàn áp, mua chuộc, và lừa đảo. "Cố tình không biết" thường xảy ra với những người mù quáng hoặc bị mua chuộc tin tưởng vào đảng cộng sản Việt Nam. "Quyết tâm ngu" hoặc "ngu quyết liệt" là hiện tượng gán cho những viên chức hoặc dư luận viên cộng sản với thái độ cực đoan của "cố tình không biết." Ngoài ra, nhóm cầm quyền vượt quá mức độ cố tình không biết qua sự "dốt hay nói chữ với ác ý," một dạng xấu xa của ngu dốt. Ngoài những hiện tượng trên, "im lặng" vả "chối bỏ" là hai hiện tượng đóng phần quan trọng không kém trong việc truyền bá kiến thức và thông tin trong dân chúng. Hai hiện tượng này thường được phản ảnh qua những lý luận hoặc lập trường về "nửa sự thật," thường được coi tệ hại hơn cả nói láo.
Một trong những hành động "dốt hay nói chữ với ác ý" của NCQCS tại Việt Nam là họ thường so sánh thể chế chính trị, tinh thần dân chủ, và nhân quyền giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Để hiểu rõ sự ngu dốt này và xác định mức độ vi phạm nhân quyền tại Việt Nam, ta nên tìm hiểu rõ về hiến pháp và hệ thống pháp lý Hoa Kỳ. Tôi hy vọng sẽ có dịp viết một loạt bài về hệ thống pháp luật và hiến pháp Hoa Kỳ, kể cả các tu chính án chính về nhân quyền. Mục đích các bài này là truyền bá kiến thức về một khía cạnh quan trọng trong cuộc sống người dân trong một xã hội văn minh để giảm bớt phần nào tình trạng "không biết" trong dân Việt do chính sách ngăn cấm thông tin của NCQCS.
© 2016 Cao-Đắc Tuấn
_______________
Tài Liệu Tham Khảo:tlđd.: tài liệu đã dẫn, thay cho "sđd." (sách đã dẫn) để chỉ tài liệu (sách, trang mạng, liên lạc riêng, v.v.) đã trích dẫn xuất hiện ngay trước trích dẫn này.
BBC Tiếng Việt. 2013. Thứ trưởng Sơn phản hồi về bài trên BBC. 1-8-2013.
bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2013/08/130801_thu_truong_nguyen_thanh_son_phan_hoi.shtml
(truy cập 14-5-2016).
Cao-Đắc Tuấn. 2014. Dốt hay nói chữ. 1-12-2014.
http://danlambaovn.blogs.../12/dot-hay-noi-chu.html (truy cập 9-5-2016).
Cohen, Stanley. 2001. States of Denial – Knowing about atrocities and suffering. Polity Press. Malden, Masssachusetts, U.S.A.
Heffernan, Margaret. 2011. Willful Blindness. Why We Ignore the Obvious at Our Peril. Bloomsbury. New York, NY, U.S.A.
Rescher, Nicholas. 2009. Ignorance (On the Wider Implications of Deficient Knowledge). University of Pittsburgh Press. Pittsburgh, Pennsylvania, U.S.A.
Rose, Lauren. 2011. Ignorance vs. Stupidity: the Political Correctness of Accurate Labels. 2011.
http://jdstone.org/cr/fi...-of-accurate-labels.html (truy cập 8-5-2016).
Smithson, Michael J. Không rõ ngày. Social Theories of Ignorance. Không rõ ngày.
http://psychology3.anu.e...bs/Smithson_agno_ch9.pdf (truy cập 8-5-2016).
VOA. 2016. Ông Nguyễn Phú Trọng: Việt Nam 'dân chủ thế này là cùng.' 29-1-2016.
http://www.voatiengviet....nay-la-cung/3168099.html (truy cập 20-5-2016).
Wikipedia. 2016a. Dân chủ tại Việt Nam. Thay đổi chót: 13-4-2016.
https://vi.wikipedia.org...%BA%A1i_Vi%E1%BB%87t_Nam (truy cập 14-5-2016).
_________.2016b. Communist Party of Indiana v. Whitcomb. Thay đổi chót: 1-3-2016.
https://en.wikipedia.org...y_of_Indiana_v._Whitcomb (truy cập 5-9-2016).
Zerubavel, Eviatar. 2006. The Elephant in the Room - Silence and Denial in Everyday Life. Oxford University Press. New York, NY., U.S.A.