logo
Men for what watch? Watch, watch and call. A tool that is used for timing on breitling replica the wrist. Men wear watches what kind, starting from the basic color and size, have their own right watches, you can follow the watch's color, shape, value, occasions to carefully match their own clothing. For the choice of rolex replica a watch, the first to look at and their identity are consistent with a rural old people wear watches, a bit unrealistic, even if there is, it would have been too ostentatious. A Multi Millionaire owner, wearing a few hundred dollars of high imitation table also lost their identity, and even make friends on their own business is not good. In the formal social occasions, watches are often regarded as jewelry, for usually only ring a jewelry can be worn by rolex replica uk men is respected. Some people even stressed that: "the watch is not only a man's jewelry, but also men's most important jewelry." In western countries, watches, pens, lighters was once known as adult men "three treasures", is every man even for a moment can not be away from the body.

Chào mừng các bạn! Mong bạn Đăng nhập. Xin lỗi bạn, tạm dừng việc đăng ký mới.►Nhấn hình ảnh nhỏ sẽ hiện ảnh lớn ‹(•¿•)›

Thông báo

Icon
Error

Tùy chọn
Xem bài viết cuối Go to first unread
song  
#1 Đã gửi : 27/04/2013 lúc 09:44:00(UTC)
song

Danh hiệu: Moderate

Nhóm: Registered
Gia nhập: 21-02-2012(UTC)
Bài viết: 24,094

Cảm ơn: 1 lần
Được cảm ơn: 2 lần trong 2 bài viết
UserPostedImage
Cây Đa Ngôi Miếu, biểu tượng của làng xóm Việt Nam trước khi chủ nghĩa cộng sản đến
Bác Chắt Kế đã về...

...là tiếng xôn xao của cả làng, tiếng reo vui của con nít:

“Thế là mình sắp được đi học, sắp được tập hát, tập múa, sắp được ăn chung ở chung với bạn bè cùng lứa tuổi trong làng. Còn gì sung sướng hơn?”.

Bác Chắt Kế là ai mà trở thành niềm tin yêu, trông đợi của cả làng vậy?

“Các cụ đồ trong làng bảo rằng Cố Kế là cụ thân sinh bác Chắt Kế, một lần đi vận động phong trào Văn Thân từ Yên Thành về qua giếng thần, thần hiện lên trao cho thanh gươm... Còn bác Chắt Kế là người của thần linh sai phái xuống để cứu nhân độ thế... Từ năm 15, 16 tuổi bác đã tham gia “hội kín”. Năm 1927, bác đứng ra thành lập chi bộ Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội của làng tôi... bác đi khắp bốn phương trời... Rồi bác bị đi đầy ở Lao Bảo, Ban Mê Thuột...”

À... thì ra bác Chắt Kế chính là cộng sản, là Đảng...

Một buổi sáng cờ bay

Thế rồi Đảng cũng đã về làng qua một ngọn cờ đỏ rất lớn treo ở ngọn cây phượng ngay trước sân nhà thờ. “Tôi bộn chộn cả người. Ngước nhìn màu cờ đỏ tung bay, đẹp, đẹp quá. Biết bao mùa nắng, lũ trẻ chúng tôi thường trèo lên cây phượng để hái hoa. Bây giờ trên cái tán cây đơm đầy kỷ niệm đó đã bay bổng ước mơ của chúng tôi. Tôi chưa biết cách mạng là gì, chỉ nghe bác Chắt Kế là cách mạng, bác Chắt Kế về là cách mạng về, là ăn no mặc ấm, được đến trường học hành...”

Dân làng tập trung quanh ngọn cờ đỏ, “bác Chắt Kế đứng chính giữa, mặc bộ đồ soóc vải nâu mới nguyên. Bác nói những gì dài, dài lắm. Nào là đồng minh thắng lợi rồi, trục phát xít bại trận rồi. Nào nước Nga xô viết vạn tuế. Nào là chủ nghĩa Mã Khắc Tư vô địch... Hai tay bác giơ lên rồi hạ xuống, trông rất oai vệ...”

Rồi bác Chắt Kế đi tới ông quan hưu ở trong làng - ông hàn Hạp, oai vệ:

“Việt Minh khoan hồng những người trước đây làm tay sai cho Pháp cho Nhật. Mọi người phải ủng hộ Việt Minh. Ai chống lại Việt Minh thì bị xử tử...”

Ông hàn Hạp chắp hai tay miệng lẩm bẩm: “Dạ... dạ...”. Từ đó, “bác Chắt Kế đi đâu vai cũng mang khẩu súng trường, hai thanh niên cầm dao sáng quắc đi hai bên để bảo vệ...”, từ đó “đoàn người đến làng nào thì làng ấy nổi trống dân kéo như ngày hội. Bác Chắt Kế lại hiểu thị lại diễn thuyết. Tiếng trống vang dội chuyền từ làng này sang làng khác”, từ đó “tuy đang trong trận đói, nhưng không khí trong làng thanh bình như thời Nghiêu Thuấn. Nhà nào nhà nấy cửa bỏ ngỏ, ríu rít mời nhau uống nước chè xanh...”

Mẹ tôi

Cách mạng về làng gây bao đổi thay, ngay cả mẹ tôi, “chẳng mấy tối mà mẹ không đi họp. Có hôm họp đến quá nửa đêm mới về. Sáng hôm sau vẫn dậy từ gà gáy để lo cơm nước cho mọi người trong nhà ăn đi làm đồng... Một hôm, mẹ bảo tôi lấy mấy tờ giấy đóng quyển vở để mẹ đi học bình dân học vụ. Chừng sau một năm mẹ đã cầm tờ báo vừa đánh vần vừa đọc lẩm nhẩm...”

Rồi mẹ tôi trở thành đảng viên cộng sản “Tôi nghe lõm bõm người lớn nói chuyện với nhau: bà Đoan - tức mẹ tôi - là người của Đoàn thể, bà ấy vừa mới được kết nạp vào Đoàn thể...”.

Mấy làng Hậu Luật, Văn Tập, Thanh Lý, Xuân Viên được gom lại để thành lập xã Đồng Tâm. Ngày tuyên bố thành lập xã, “mẹ tôi trang phục hoàn toàn khác hẳn, không ăn bận bình thường như trước nữa: mặc quần đùi, cắt tóc ngắn, đi dép cao su trắng nhãn “Con hổ”, cả xã chỉ có dăm bà ăn mặc như thế...”

Vào ngày giỗ, tôi thường theo mẹ về quê ngoại, mẹ tôi là con cả nên phải ở lại từ sáng đến tối. Nhưng năm nay cách mạng rồi, cúng xong mẹ tôi về ngay. “Vừa tới nhà, đã thấy bác Chắt Kế đang ngồi đợi. Bác nói nặng lời: Tôi phê bình đồng chí về chậm, lần đầu đồng chí phạm kỷ luật sắt của đoàn thể”... Bác Chẳt Kế nói gì với mẹ tôi nhiều lắm, có vẻ quan trọng lắm. Trước khi đứng dậy ra về, bác nhìn chúng tôi vui vẻ:

“Tụi này lớn lên được hưởng thế giới đại đồng, sướng lắm...”

Tết độc lập

“Quên làm sao được Tết độc lập đầu tiên năm 1946. Suốt từ ngày 19 tháng Tám đến ngày mồng 2 tháng Chín, mọi người nô nức mặc quần áo mới đi dự hội...”. Trong những ngày này, dân quân du kích tổ chức tập trận, các cụ bô lão “rào làng chiến đấu”, đến ngày 2 tháng Chín thì diễn kịch do bác Chắt Kế viết kịch bản đả phá mê tín dị đoan. Kịch vừa diễn xong, dân quân đã bắt trói ông Tường trong làng về tội... uống rượu.

“Bà Tường vừa chạy theo vừa khóc, chắp tay xin bác Chắt kế: “Bác tha tội cho nhà em. Người dưng nước lã bác cũng phải tha tội giữa ngày vui này, huống hồ bố nó là bậc em út họ hàng của bác.” Bác Chắt Kế giơ tay nói đĩnh đạc: “Em út họ hàng cũng phải phạt. Bây giờ cách mạng không có cái lối một người làm quan cả họ được nhờ... cách mạng phải nghiêm, không nể nang ai hết...”

Tết cách mạng đã có, tết dân tộc phải dẹp bỏ là cái chắc:

“Thêm được ngày hội “tết độc lập”, nhiều ngày hội cổ truyền khác bị phế bỏ: rằm tháng Giêng, Thanh Minh, tết Đoan Ngọ, rằm tháng Bảy... đó là phong kiến cổ hủ, là mê tín dị đoan. Thế là cả làng làm cách mạng triệt để, thay cũ đổi mới hoàn toàn...”

Cứ với giọng bình thản, rỉ rả như vậy, tác giả bóc dần, bóc dần từng lớp cái vỏ bên ngoài của cuộc cách mạng làng quê “long trời lở đất”:

“Gặp nhau ngoài đường giơ nắm tay phải lên ngang tai “chào đồng chí”. Nhất là trong các cuộc hội nghị, mẹ gọi con bằng “đồng chí”, con gọi bố bằng “đồng chí”, anh gọi em bằng “đồng chí”...”

Thật là một bức tranh vui được vẽ đơn sơ mà hóa ra là thực. Cười mà hóa ra mếu ở trong lòng.

Ngày Tết độc lập phế bỏ hết các ngày hội truyền thống chỉ trừ ra tết nguyên đán nhưng cũng bị giản lược đi nhiều thứ lắm. Trước hết là lễ “khai canh” với ngày hội “mở đường cày” có từ ngàn xưa bị dẹp bỏ. Tục “mở hòm gỗ trắc” đem ra nào câu đối, hạc đồng, lư hương... để cúng tết cũng bãi luôn.

“Chiều 29 tết, ông tôi mở hòm gỗ trắc, lau bụi đôi hạc đồng, xếp lại đôi câu đối rồi... khóa hòm. Tôi ngỡ ngàng hỏi: “Sao ông không đem ra cúng tết”. Ông trả lời ngậm ngùi: “Bây giờ là cách mạng khác rồi cháu ạ...” Vĩnh viễn các đồ tế khí linh thiêng ấy nằm trong hòm khóa kín như tấm lòng ông tôi khóa lại niềm tôn kính thờ phụng tổ tiên...”

Tổ tiên không còn thờ phụng nữa thì niềm tôn kính của người dân dành cho ai? Lẽ tất nhiên “bàn thờ tổ tiên” được thay bằng “bàn thờ tổ quốc” trên đó có ảnh ông Hồ Chí Minh và “ảnh ba ông Tây” theo cách nói dân gian tức ba ông Mác, Lênin và Stalin. Từ nay người dân Việt Nam sẽ phải thờ mấy ông đó thay vì thờ tổ tiên.

“Tết đến. Các gia đình cũng gói bánh tét, bánh chưng, cũng thắp hương đơm cỗ. Nhưng đó là việc của từng gia đình không liên quan gì tới xã hội. Sáng mồng 2 tết, xã đã phát động phong trào “động canh”, nghĩa là tất cả mọi người đều phải xuống đường, nghĩa là tết chấm dứt...”

Để chống lãng phí, loại bỏ các loại bánh truyền thống “tốn kém” như bánh mật, bánh ít, bánh nổ, bánh ong, bánh tày... bác Chắt Kế phát minh ra một loại bánh gọi là “bánh Độc Lập” làm bằng... khoai lang. “Chẳng qua đó là một loại bánh của con nhà nghèo, ăn chẳng ngon lành gì...”

Thông thường ngày tết người ta chỉ ăn cá, thịt gà, thịt lợn, vậy mà sáng mồng một tết, ông Chắt Kế chơi “món độc”, sai con bắt chó làm thịt.

“Thật là to gan. Tin này truyền đi nhanh. Các cụ trong làng ngồi uống rượu bàn tán:

“Ông Chắt Kế liều thật...”

“Không phải liều đâu, làm cách mạng phải thế chứ!”

“Sao làm cách mạng lại ăn thịt chó giữa ngày mồng một tết?”

“Để làm gương cho người khác, để phá đầu óc cổ hủ của dân...”

Như vậy đấy, để phá bỏ tập tục cũ của cha ông, người cách mạng sẵn sàng... ăn thịt chó vào sáng mồng một Tết.

Trong những ngày hội xuân, tuồng cổ bị dẹp hết, “bao nhiêu đồ trang phục của hội tuồng sắm sanh qua hàng chục hàng trăm năm bị vứt bỏ.” Tuồng bị thay thế bằng kịch nói, kịch dân ca “viết theo từng thời vụ, từng chủ trương chính sách của cấp trên đưa xuống...”. Nhưng cũng “chỉ có thanh niên kéo nhau đi xem diễn những đêm ấy, còn các cụ già thì trùm chăn ngủ khoèo giữa ngày Tết Nguyên Đán...”.

Thế rồi sau vài cái Tết, cách mạng cũng nhận ra “vắng tiếng trống tuồng, làng xóm buồn tẻ. Nhưng mà diễn lại các tích vua quan phong kiến thì chỉ có hại...”. Thế là bác Chắt Kế cho viết vở tuồng “Núi Nam Sơn” nói về các đồng chí cách mạng đánh Pháp. Đêm công diễn người ta kéo nhau đi đông nghịt, nhưng chỉ vài đêm là vắng teo, chẳng ai thèm coi, hội tuồng coi như tan rã. Tác giả bùi ngùi viết:

“Một nền nghệ thuật được xây dựng qua mấy trăm năm bị phế bỏ hoàn toàn. Trong tâm tưởng của lớp người cao tuổi vẫn lưu lại những hình ảnh đẹp đẽ: Thúy Văn Long xông vào hang quỷ để cứu nàng công chúa, vua Trần Anh Tôn cởi áo bào đắp cho người ăn mày nằm bên vệ đường...”

Sự cấm kỵ trong sáng tác văn học không cho phép Võ Văn Trực bình luận gì thêm, nhưng chỉ một câu như vậy cũng đủ sức tố cáo sự mông muội, ngu dốt của những kẻ phá hủy những giá trị tinh thần của cha ông mà vẫn vỗ ngực xây dựng thiên đàng cộng sản.

Đám cưới O Thèo - anh Mẫn

“Cách mạng về, cái gì cũng mới cũng lạ. Việc cưới xin hệ trọng đến cả đời của con người mà người ta cũng xem nhẹ bẫng như không có gì xảy ra...”

Cô Thèo anh Mẫn, cô dâu chú rể đều có chân trong đội du kích. Ngày cưới loa phát oang oang: “Mời bà con dân làng tối nay đến nhà anh Mẫn dự đám cưới đời sống mới... a lo a lo... o Thèo đã nêu một tấm gương sáng: không đòi lễ cưới linh đình mà chỉ đòi bên nhà trai mang sang... hai quả lựu đạn... a lo a lo...”.

Nhà gái nhận được hai quả lựu đạn, chuyện như đùa mà hóa thật, bà mẹ cô dâu còn chạy đi khoe khắp làng:

“Cách mạng thành công rồi... bây giờ khác rồi, ai cũng phải có ý thức tiết kiệm...”.

Suốt cả ngày hôm đó, cô dâu chú rể vẫn hăng say sản xuất ngoài đồng ruộng. Mãi đến xâm xẩm tối, nhà anh Mẫn mới chật ních người và đám cưới bắt đầu:

“Tất cả mọi người... nghiêm” - có ai đó hô lên dõng dạc, oai nghiêm.

Từ ngoài ngõ, ai đó lại hô tiếp: “Chú ý, đi đều... bước. Một hai... một hai...” Đám người rẽ ra hai bên. Anh Mẫn, o Thèo ăn vận theo kiểu quân sự, dây da thắt ngang lưng, vai đeo súng đĩnh đạc tiến vào. Bác Chắt Kế đứng dậy, giơ tay:

“Cho các con ngồi xuống...”

Mẫn và Thèo ngồi trên chõng tre đã đặt sẵn giữa nhà. Bác nói dài lắm: Phe đồng minh đã thắng lợi hoàn toàn ở châu Âu cũng như châu Á. Nước ta đã giành được độc lập. Tư tưởng canh tân vô sản phải được thực hiện... Hử... Việt Minh lãnh đạo toàn dân đứng lên vừa kháng chiến vừa cứu quốc. Hử... đám cưới cũng phải tiết kiệm... Các con đứng dậy...”

Cô dâu chú rể đứng im nghe bác “hiểu thị”:

“Hai con vui duyên mới không được quên nhiệm vụ canh tân vô sản... Hử... các con là công dân mới của nước Việt Nam độc lập. Hử... bọn thực dân Pháp đang lăm le quay lại...”

Cứ như thế bác Chắt Kế bắt cô dâu chú rể hết “các con ngồi xuống” lại “các con đứng lên...” làm con nít trong làng phải phì cười. Ngày nay, có nhà làm phim nào muốn dựng lại cảnh đám cưới tại một ăngca của dân Campuchia trong thời Pôn Pốt - Iêng Sary xin cứ tham khảo “đám cưới đời sống mới” mà Võ Văn Trực đã mô tả rất tỉ mỉ và chân thực trong cuốn “chuyện làng ngày ấy” này.

Chúng mình sắp được ở chung rồi

Chung ăn chung ở là tinh thần cốt lõi của chủ nghĩa cộng sản trong tổ chức cuộc sống mới ở làng xóm. “Ngay từ năm 1927, bác Chắt Kế vừa thành lập chi bộ Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội (tiền thân Đảng Cộng Sản) làng Hậu Luật, người ta đã phác thảo một bản đồ ăn chung ở chung. Thời kỳ Mặt Trận Dân Chủ, những người cộng sản trong làng cũng xúm nhau ngồi dưới chân núi Hai Văn vẽ bản đồ ăn chung ở chung...”

Từ những năm 1940-1941, “mô hình chủ nghĩa cộng sản đã được xây dựng ở trại cày Thọ Lộc” - đó là một trại trong đó “họ ở chung, ăn chung, tài sản chung, tạo ra một mô hình về xã hội cộng sản...”. Ngày nay, cách mạng đã thắng lợi, “ta nắm chính quyền rồi, ta lại không tổ chức được làng cộng sản giỏi hơn Thọ Lộc à?”.

Thế là “mấy ông lãnh đạo đứng trên cồn đất chỉ trỏ bốn phương và bàn với nhau những điều rất hệ trọng: “dãy nhà lão ông xây ở Đập Tràn, dãy nhà của lão bà xây ở Mo Nạng, dãy nhà của nữ thanh niên xây ở Giếng Trầu, dãy nhà của thiếu nhi xây ở Cồn Rùa...”

Không hiểu vài chục năm sau, các “đồng chí Khơ-me Đỏ” khi xây dựng các ăngca cho dân có học tập các đồng chí cán bộ của Đảng ở làng Hậu Luật huyện Diễn Châu tỉnh Nghệ An này không? Thế là từ đó, con nít trong làng đều phải ngủ tập trung ở Cồn Rùa. Ngày xưa, cách mạng chưa về, trẻ con trong làng có Hội Mục Đồng. Hội đã đắp cồn Mục Đồng có miếu thờ Thần Nông, có cây đa cổ thụ rợp bóng mát. Cách mạng về, lập tức Hội Mục Đồng bị giải tán thay vào đó lập Hội Nhi Đồng. Công việc đầu tiên của Hội Nhi Đồng là phá bỏ cồn Mục Đồng có đền thờ Thần Nông để... chống mê tín dị đoan.

“Tất cả chúng tôi như một đội quân đi làm nhiệm vụ tiêu thổ kháng chiến, xông vào, cuốc... xông vào, đào... đào, phá, cuốc, xới không tiếc tay. Chuột chạy tứ tung. Chim bay tung tóe. Có đứa vô tình cuốc phải tổ chim, trứng vỡ rơi ra, con chim non bé xíu ngọ nguậy... Thôi vĩnh biệt nhé, vĩnh biệt cồn đất thân thuộc của tuổi chăn trâu...”

Rồi đến cả cây đa cũng bị chặt hạ:

“Cây đa đổ xuống... ầm. Vòm trời trống quang. Một vầng xanh mãi mãi chết đi cùng với thời bé dại hồn nhiên...”

Quả thực rừng phá có thể trồng lại, người chết có thể vẫn còn sự sinh sôi, nhà cháy sập mai sau có thể xây dựng lại “to đẹp hơn, đàng hoàng hơn”, nhưng cái “vòm trời trống quang” kia, cho đến ngày nay vẫn chưa có gì lấp đầy, cái “vầng xanh mãi mãi chết đi kia” vẫn chưa có gì thay thế. Đó là cái giá của một mô hình mang tinh thần “ăn chung ở chung” bao năm qua đã áp đặt lên làng quê Việt Nam.

Sau khi đã thực hiện xong “chiến tích” chặt cây đa và phá cồn Mục Đồng cổ xưa, đám con nít trong làng “xông vào những ngày vui triền miên: cắm trại, hành quân, tập võ, tập hát... cờ trống tưng bừng”.

Một hôm đang họp tại nơi cắm trại, bất chợt trời đổ mưa, đứa nào đứa ấy ướt rượt, nhưng “vẫn cứ ngồi họp - họp với tinh thần cách mạng cao cả”.

Con nít họp hành thì bàn chuyện gì ghê gớm vậy?

Hóa ra nghe “báo cáo tình hình trong nước”: “Mấy chục ăn mày ở chợ Mới đã về quê hết rồi. Quê họ ngoài Bắc cũng giành chính quyền rồi. Từ nay ở chợ Mới và trong khắp nước không còn có ăn mày nữa...”, tất cả vỗ tay hoan hô. Sang phần “kiểm điểm nội bộ”, một thằng con nít đứng lên tố giác: “Lúc chiều đồng chí Trực vào nhà ông Giai, con chó lài xồ ra sủa, đồng chí Trực quát “đồng chí chó lài không được sủa”. Gọi con chó lài như thế là phạm lỗi. Nhiều bạn khác nhao nhao: “Gọi chó bằng đồng chí là phản động...”

Bác Chắt Kế quàng áo đi mưa bước vào bất ngờ (hóa ra Đảng theo dõi cả cuộc họp của con nít) lên nòng súng lách cách: “Thằng Trực gọi chó bằng đồng chí à? Đội viên đội Nhi Đồng Cứu Vong mà như thế à?”. Thế là người ta giải ngay tác giả tức thằng bé Trực tới nhà giam và cùm lại: “cái cùm này đã cùm mấy người phạm lỗi với cách mạng: hai ông say rượu nói lè nhè, một bà ăn cắp váy của hàng xóm, một ông thầy xem tướng ở chợ Mới... Bây giờ đến lượt tôi bị đưa chân vào cùm vì tội gọi chó là “đồng chí”.”

Cùm chân một thằng bé con chỉ vì một câu nói đùa đã thấy “dã man thời bán khai” rồi, tác giả lại còn cho đứa trẻ bị cùm không hề giận dỗi mà lại còn thấy... tự hào nữa kia: “Tuy có xấu hổ nhưng tôi vẫn cảm thấy tự hào rằng: “Mình không phải thằng bé bình thường, mà là đội viên đội Nhi Đồng bị cùm...” Vậy là “cháu ngoan bác Hồ” có đi ăn cắp thì vẫn cứ tự hào mình là “cháu ngoan bác Hồ ăn cắp”. Viết thế này, tội của Võ Văn Trực thật đáng xử trảm.

(còn tiếp)
song  
#2 Đã gửi : 27/04/2013 lúc 09:45:02(UTC)
song

Danh hiệu: Moderate

Nhóm: Registered
Gia nhập: 21-02-2012(UTC)
Bài viết: 24,094

Cảm ơn: 1 lần
Được cảm ơn: 2 lần trong 2 bài viết
Vĩnh biệt những cây cổ thụ

“Làng tôi” nhờ những cây cổ thụ mà trở nên sầm uất.

“Mỗi cây gắn liền với một chuyện kể, một bài vè hoặc một câu ca. Cổ thụ là tình yêu là máu thịt của quê hương. Bao nhiêu thế hệ nối tiếp nhau sinh ra, lớn lên và qua đời, gửi lại cho cây những chứng tích kỳ diệu của thời gian...”

Tưởng rằng những cây cổ thụ đó sẽ trường tồn cùng với thời gian, với làng xóm. Vậy mà không! Cách mạng thành công, người ta nghĩ ngay tới chuyện chặt bỏ những cây cổ thụ đó. Tại sao vậy? “Cây” cũng là “phản động” sao? Tác giả giải thích:

“Hầu như trong tâm tưởng của một số người nào đó, trong một phút cuồng nhiệt, họ muốn chặt phá đi tất cả những gì xưa cũ để rồi vun trồng lên những gì non tơ hơn, mới mẻ hơn, giàu sức sống hơn. Và từ một số ít người, ý nghĩ đó được lan truyền, được kích động vào số đông. Thế là chính những con người đã tự tay mình chăm bón, đã từng gắn bó máu thịt cuộc đời mình với cây, lại thản nhiên xông ra chặt cây...”

“Một số người nào đó” chính là những người cộng sản mà tác giả không dám nói thẳng ra. Ngoài lý do “cổ thụ” là thuộc thời xưa cũ phải chặt bỏ, “theo bác Chắt Kế, những thân cây to lớn này và những cồn đất làm địa thế cho cây mọc lên, địch có thể lợi dụng làm pháo đài. Vì thế, phải phá tất, chặt tất...” Triệt hạ những thứ “là tình yêu, là máu thịt của quê hương” như vậy, nếu đầu óc không bị “quỷ ám” thì chắc chắn đó cũng phải là những con người cuồng tín mà dốt nát.

Ông Mác hay ông Lênin gì đó, những ông tổ của chủ nghĩa cộng sản có nói một câu đại ý rằng “quyền lực cộng với sự ngu dốt chính là thảm họa”. Thời Nhân Văn Giai Phẩm ở miền Bắc, mấy ông nhà văn bị trừng trị cũng vì đã phát biểu một câu nổi tiếng: “l’ ignorance au pouvoir” (dốt nát nắm chính quyền). Cho tới tận ngày nay, kỷ nguyên tin học, cái thảm trạng đó xem ra vẫn đè nặng trên phận số của dân tộc Việt Nam. Đưa nhà máy lọc dầu Bà Rịa ra tuốt ngoài Dung Quất tốn cả trăm ngàn tỷ, xây dựng nhà máy đường ở những nơi không có... mía, rồi cảng cá, cảng biển, chợ búa, khu vui chơi... xây xong bỏ xó thành phế tích, rồi mưu toan xây dựng nhà máy điện hạt nhân tương lai bất chấp sự phản đối của các nhà khoa học, sự ngu dốt của những kẻ nắm quyền sẽ còn tiếp tục gây tổn hại nhiều nữa.

“Tử tội” đầu tiên trong “chiến dịch” chặt hạ cổ thụ là “cây muỗm đền thờ Bạch Y thần dễ chừng cao tới bốn, năm chục mét. Cách xa mười cây số có thể thấy ngọn cây mờ xanh như một đám mây. Dáng cây thẳng tắp. Cành tỏa đều đặn xung quanh. Càng lên cao càng bé dần. Từ xa trông tới, cây giống như tháp canh hùng vĩ...”

Cây muỗm cổ thụ và ngôi đền đã gắn bó với nhau hàng trăm năm nay như trời với đất, như âm với dương, thế mà bây giờ phải chia lìa. Tác giả tả cảnh đốn cây:

“Sáng hôm ấy, hơn mười trai làng vác rìu ra chặt thì chợt thấy chân hương cắm chi chít quanh gốc...”

Không biết ai đã cắm hương cho cây nhưng chính điều đó làm các trai làng sợ không dám chặt. Thế là đồng chí cán bộ cộng sản Chắt Kế phải tới thúc giục:

“Các đồng chí chưa bắt đầu chặt à? Các đồng chí mê tín dị đoan à? Tối hôm qua bọn phản động lại bày ra cái trò này để cản trở công cuộc kháng chiến kiến quốc...”

Người của Đảng cầm quyền đã nói vậy thì bố thằng dân nào còn dám cãi! Thế là... chặt. Còn đền thờ, từ hôm không còn được cây che bóng mát, “người ta đồn rằng có một đám mây trắng ngày đêm lởn vởn trên đó - đám mây ấy chính là áo trắng của vị thần hiện về đòi lại cây...”

“Nạn nhân” tiếp theo là “cây đa Cồn Rộng đứng sừng sững giữa đồng không mông quạnh... người ta xây miếu nhỏ dưới gốc đa và hương khói thờ phụng những ngày rằm mồng một hằng tháng... Cây đa bủa rễ phụ chằng chịt như những vòng tay hung dữ ôm chặt ngôi miếu. Rễ chẻ đôi bệ thờ. Rễ quấn chặt bát hương...”

Cây đa lớn tới mức “mấy chục dân quân to khỏe như trâu mộng vác rìu, búa, cưa, cuốc chim xông thẳng tới, trương khẩu hiệu: “Cách mạng quyết thắng thần thánh ma quỷ... Đào tận gốc trốc tận rễ đầu óc mê tín dị đoan...”. Thế là họ hùng hục đào, cuốc, chặt. Bát hương vỡ tung tóe. Bệ thờ nát thành vôi vụn gạch vụn. Bỗng một tổ rắn bung ra, rắn con rắn mẹ bò lổm ngổm. Tất cả bỏ chạy tán loạn. Mấy chục dân quân đánh tháo về nhà ngồi im thin thít...”

Tất nhiên đời nào Đảng cho dân bỏ cuộc, bác Chắt Kế lại lệnh cho dân quân trong làng: “Các đồng chí hãy gột sạch đầu óc cổ hủ thì mới xứng đáng là thanh niên của thời đại dân chủ cộng hòa... Hử... thanh niên mà sợ ma quỷ, sợ rắn rết thì tức là thanh niên của thời phong kiến đế quốc...”

Đảng đã răn dậy thế, thằng nào còn dám cãi, thế là cây đa cổ thụ Cồn Rộng bị đốn ngã.

Rồi đến cây đa Đập Trùn tỏa rộng tán giữa cánh đồng màu, nơi ngồi nghỉ mát cho cả bà con trong làng những buổi trưa nắng gắt. Cây đa xóm Bắc, các cụ gọi là “cây đa phù Lê” vì có công giúp vua Lê đánh giặc Minh, tuổi thọ chừng hai trăm năm, “chứng nhân của nhiều thời đại, pho sử của làng. Bộ rễ bủa tung ra, xoắn xuýt, hăm hở, dữ dằn, trìu mến như cuộc đời người nông dân cắm sâu vào đất đai quê hương...”. Cây đa xóm Trung gắn với câu ca dao:

“Xóm Trung mà đổ cây đa...

Cả làng Hậu Luật đàn bà chửa hoang...”.

Cây mọc trên một cồn đất dài dài trông giống hình một cái b..., đối diện với một cồn đất khác hình tam giác giống như một cái l...” Bởi vì cái b... hoang chĩa vào cái l... hoang thì con gái chửa hoang nhiều, cho nên phải trồng lên cái đầu b... một cây đa để chặn lại sự dâm dục. Nghe nói khi cây đa mới được trồng, cứ nửa đêm là cái cồn b... này quẫy đành đạch và cái cồn l... cũng rung lên chờ đợi...”...

Tất cả những cây cổ thụ “huyền sử” ở trong làng đều đã bị đốn hạ, riêng cây phượng vĩ trường làng khi dân quân vác rìu ồ ạt đứng quanh gốc cây chuẩn bị chặt hạ, thầy hiệu trưởng đứng ra van xin:

“Năm mươi năm tôi trồng cây lớn được chừng này các ông chặt nó thì tôi khổ tâm lắm...”

Mặc, những lưỡi rìu phũ phàng vẫn chém vào gốc cây như chém vào lòng thày giáo vì từ nay sẽ không còn nữa “ba cây phượng sân trường tuổi thọ nửa thế kỷ, bóng rùm ròa tỏa mát sân rộng, khi tiếng ve dóng dả thì hoa phượng cũng nở đỏ. Hoa phượng là hình ảnh thân thương của tuổi học trò. Hoa rụng xuống sân dày đặc như một tấm thảm đỏ...”

Mặc kệ thần thánh, mặc kệ kỷ niệm, những cây cổ thụ trong làng vẫn bị chặt hạ hết, bất chấp:

“Bây giờ thần hát giặm đi đâu? Những người kể vè dưới gốc cây phiêu dạt phương trời nào. Những cặp trai gái lấy nơi nào để hò hẹn? Cây đa bị triệt hạ như tổ ấm bị phá vỡ. Một khoảng trống của nỗi tiếc thương ngày ngày hiện ra đầu cổng xóm và hiện ra trong lòng người. Cho đến bao giờ, đến bao giờ mới có vòm đa khác thay thế che rợp cái khoảng trống ấy.”

Cho đến bây giờ, nhà văn Võ Văn Trực đã có câu trả lời: không bao giờ còn có cái vòm cổ thụ che rợp ấy nữa và cái khoảng trống ấy, vĩnh viễn vẫn chỉ là những khoảng trống...

Cuộc cách mạng đã làm thay đổi hẳn bộ mặt của làng xóm: những cây cổ thụ bị chặt hạ hết, con người phải ngủ tập trung, tết nhất, hội hè, tuồng chèo bị dẹp bỏ... Tuy nhiên cách mạng vô sản không bao giờ dừng lại, nó luôn luôn đi tới, luôn luôn quét cái nhìn xăm xoi của nó vào mọi ngóc ngách để triệt tiêu những cái cũ. Nạn nhân sắp tới của nó là ai đây?

Thật chẳng ai ngờ tới, các “nạn nhân” kế tiếp lại chính là những người đã khuất bóng, các ông bà ông vải và tổ tiên.

Xây dựng nhà thờ đại tôn

Thời gian như nước chảy mây trôi; những “cơn điên” của lịch sử rồi cũng qua đi - nông dân và địa chủ, quốc gia và cộng sản, dân đen và cán

Và tới một ngày đại biểu của hai trào lưu đối nghịch cách mạng và phản cách mạng cũng phải trình diện trước bàn thờ lịch sử: bác Chắt Kế, đại biểu cách mạng và ông hàn Hạp, tri huyện cũ, đại biểu phản cách mạng.

“Bác Chắt Kế đã từng giữ vị trí cao trong Đảng và Nhà nước: Ủy viên trung ương Đảng, bí thư tỉnh ủy, chủ tịch ủy ban kháng chiến tỉnh, trường ban thanh tra tỉnh ủy”, ấy thế mà “ngày nghỉ hưu, bác Chắt Kế đi xe đạp về làng báo tin cho con cháu biết từ nay bác đã được Đảng và Nhà nước cho nghỉ hưu. Thế thôi, thật đơn giản. Bác sống trong gian nhà gianh nhỏ bé như những lão nông khác. Nghĩ đến quá trình hoạt động của bác, tỉnh trích ra một số tiền giao cho xã xây lại ngôi nhà to hơn nhà cũ một ít...”

Nhưng ông hàn Hạp, tri huyện cũ về hưu lại hoàn toàn toàn khác:

“Ngày về hưu, ông hàn Hạp được bà con họ hàng ra tận đường quốc lộ khiêng giùm hàng chục hòm của cải và tiền bạc. Ông xây một tòa thành rộng chừng hơn nửa mẫu ruộng, trong vòng thành được dựng lên ba dẫy nhà ngói. Thành lởm chởm mảnh chai, cổng ngăn uy nghi. Một bầy chó giữ nhà. Chẳng mấy ai lai vãng vào đó...”

Cảnh về hưu của hai con người “đối nghịch” hoàn toàn khác nhau, người cộng sản thì tay trắng, chẳng có ma nào ra đón, nghèo cả vật chất lẫn tình cảm của người dân; ông phong kiến về hưu thì của cải đầy đường, dân tình đổ ra đường đi đón, mang vác giúp.

Hai hình ảnh quả thật có độ tương phản quá cao. Ngụ ý của tác giả về nhân quả kể đã rõ, gieo nhân nào gặt quả đó. Tuy nhiên đó là chuyện ngày xưa, cái cảnh về hưu của người cộng sản như bác Chắt Kế đã lùi quá xa vào dĩ vãng.

Những Ủy viên trung ương Đảng, Bí thư tỉnh ủy ngày nay khi “hạ cánh an toàn” chắc chắn đã sửa soạn xong cho mình một gia tài mà ngày xưa một quan đại thần dẫu có ăn của đút cả đời cũng chẳng với tới.

“Một mo cơm nắm, một quả cà và một tấm lòng cộng sản...”, bác Chắt Kế có lẽ là người sống đúng theo chuẩn mực này, không tiện nghi hưởng thụ:

“Chiều chiều, bác Chắt Kế đeo kính, chống gậy, dạo chơi trên đường làng, rẽ vào các gia đình thăm hỏi và trò chuyện. Chiều nào cũng vậy, chiều này qua chiều khác... tẻ nhạt...”

Lúc này bác Chắt Kế mới có dịp nhìn lại những gì mà những người cộng sản như bác đã mang lại cho làng xóm:

“So với thời trai trẻ, rời quê hương, dấn thân vào con đường cách mạng, làng xóm bây giờ vẫn nghèo như thế, vẫn lụt lội mất mùa, vẫn chạy vạy giữa ngày ba tháng tám, vẫn có người đi ăn xin. Phong cảnh lại tiêu điều hơn trước: đình chùa phá sạch, cây cổ thụ bị triệt hạ, các nhà thờ họ cũng bị dỡ bán. Hội tuồng hội chèo tiêu tan, các ngày hội truyền thống bị phế bỏ...”

Làm cách mạng là để dân giàu nước mạnh chứ gây cho làng thôn tiêu điều xác xơ như vậy thì làm cách mạng làm gì? Ấy vậy mà tuyệt nhiên không thấy bác Chắt Kế có đôi chút ăn năn, hối hận về tội lỗi của mình đã gây ra cho xóm làng. Lạ thay sự “cắn rứt lương tâm” dường như hoàn toàn xa lạ với những người như bác Chắt Kế. Đứng trước thảm trạng do chính mình đã gây ra cho xóm làng, bác ta chỉ thấy... thất vọng! Rồi thôi!

“Khi nằm trong xà lim tối tăm, khi sống dưới nanh vuốt giặc hung dữ, lòng bác cháy bùng lên nỗi khao khát một cuộc sống huy hoàng; mà hiện tại, được tự do đứng giữa đất rộng trời cao tràn ngập ánh sáng, nỗi khao khát ấy lại tắt ngấm trong lòng bác...”

Tại sao nằm trong ngục tù thì vẫn nóng bỏng khát vọng tới khi được tự do giữa trời đất bác lại tắt ngấm nỗi khát sống? Đó là vì mặc dầu đã hết gông xiềng, trở về với đời thường nhưng bác Chắt Kế đã về hưu, chẳng còn nạt nộ, quát tháo, chỉ đạo, lãnh đạo được ai. Những người cộng sản như bác Chắt Kế, quyền lực là máu là thịt, một khi mất nó, khác nào cây khô mất nước, thì dù có đang sống cũng như là chết rồi. Phải chăng đó là tâm trạng chung của thế hệ “lão thành cách mạng” đã về nghỉ hưu như bác, dĩ nhiên trừ một số ít, rất ít có thể đếm trên đầu ngón tay, họ đã và đang còn muốn khơi bùng dậy ngọn lửa của tự do, muốn sống một đời đáng sống.

“Nhiều hôm, bác thích đi chơi một mình vào lúc hoàng hôn. Một mình, một gậy, một tâm trạng... Chính cây phượng trước cửa nhà thờ, bác đã treo ngọn cờ khởi nghĩa rồi kéo đoàn người biểu tình đi cắm cờ khắp các làng khác trong huyện. Cũng từ ngày ấy, từ cây phượng này, từ ngôi nhà thờ đại tôn này, khởi sự cho bao nhiêu biến động trong làng: những cuộc đời tối tăm được hồ hởi nhận ánh sáng rồi lại đành phải quay về nhận một thứ bóng tối khác không kém phần ê ẩm và dai dẳng...”

Cái thứ bóng tối khác không kém phần ê ẩm và dai dẳng này chính là sự toàn trị của Đảng áp đặt lên đầu lên cổ người dân. Nhà văn Võ Văn Trực quả thật rất can đảm vạch trần và nói thẳng ra cái vòng luẩn quẩn này: “cứ tưởng cách mạng sẽ giải phóng con người ra khỏi chỗ tối tăm ngờ đâu lại đẩy họ vào nơi còn tăm tối kinh hoàng hơn” - đó cũng là cái vòng luẩn quẩn của người cộng sản như Chắt Kế:

“Hơn nửa đời vào sinh ra tử, kiên nhẫn, dũng cảm, phá phách, sáng tạo, mong đem lại cho dân làng và cho dân tộc một cuộc sống tốt đẹp hơn nhưng rồi lại quẩn quanh trở về với điểm cũ, điểm xuất phát mà cái điểm ấy cũng không còn nguyên vẹn nữa. Chua chát vô chừng...”

Đây là một lời tổng kết ngắn gọn và đúng nhất về cuộc đời người cách mạng, mọi hy sinh, nỗ lực của họ rốt cuộc đã mang lại cái gì cho dân làng, cho đất nước, cho quê hương, dân tộc?

Cái giá phải trả cho cuộc chiến tranh “giải phóng miền Nam” là 15 triệu mạng người, cái giá phải trả cho cái gọi là “độc lập” hiện nay là sự băng hoại toàn diện về đạo đức, sự đảo lộn mọi chuẩn mực, là sự phân hóa xã hội theo hai cực giàu nghèo và động lực của nó chính là sự ăn cắp, tham nhũng. “Chua chát vô chừng...”

Tiếc thay cái nỗi chua chát này mới chỉ có một mình bác Chắt Kế và một thiểu số rất ít những người đã đi làm cách mạng nhận ra. Còn tuyệt đại đa số những người khác thì cho đến nay vẫn còn giương giương tự đắc, vẫn còn ngộ nhận vai trò cứu tinh dân tộc của mình, ngày này qua ngày khác vẫn vơ vào mình mọi thành tích, mọi đức tính tốt đẹp, vẫn tự ca ngợi mình không ngưng không nghỉ, không tiếc ngôn từ, huênh hoang không còn biết đâu là giới hạn.

Cả cuộc đời đi làm cách mạng, “bác Chắt Kế là người triệt phá đến cùng mọi điều bác cho là ‘mê tín dị đoan’, bây giờ hầu như bác cũng muốn chứng nghiệm lại...”

Vừa như muốn “chứng nghiệm lại” vừa như muốn tạ lỗi với tổ tiên, bác Chắt Kế tích cực vận động bà con trong làng xây lại nhà thờ đại tôn. Ngày xưa thì phá đi, nay xây lại, nhà còn xây được chứ bao nhiêu bia đá và tượng thờ “đức tổ Triệu Cơ và những người giúp tổ dựng nghiệp đều đã bị đập phá tan tành từ mấy năm trước. Cái thì bị đem nung vôi. Cái thì đem bắc cầu. Cái thì kê làm đá tảng...”.

Nhà thờ xây xong, không bia không tượng, “các cụ tổ chức rước tổ mới buồn tẻ làm sao. Không chiêng, không trống. Không lọng, không quạt. Chỉ có bác Chắt Kế với bốn cụ già, một thanh niên cầm bài vị, một thanh niên cầm bát hương đi sau cùng là tôi...”

Đám rước tổ bây giờ làm ai cũng nuối tiếc cảnh hội hè linh đình ngày xưa, nhưng không ai nỡ nói ra mồm. “Lúc này ngán ngẩm quá. Mọi rường mối đã đứt bung. Mọi quan hệ họ hàng ruột thịt bị rạn nứt. Mọi dòng họ bị ly tán. Khó mà phục hồi lại được. Chỉ nói một điều đơn giản, mười tám nhà thờ họ trong làng đã dỡ bán sạch sành sanh, không còn nơi để con cháu sum họp, để hương khói thờ phụng...”

Những di sản của tổ tiên để lại cho con cháu là như vậy đó, phá đi thì rất dễ, xây lại mới khó và có khi mất đi rồi không bao giờ còn xây lại được nữa...

Thăm nghĩa địa

Theo tác giả, nghĩa địa đối với người Việt Nam là:

“Tất cả những gì linh thiêng nhất của quê hương bản quán, tất cả những gì thuộc về hương sử, tất cả những gì tự ngàn xưa mà ta có thể chắt lọc được để rồi ủ vào tâm hồn ta cái tinh chất nhất của bản thể, vậy mà trong cái nghĩa địa của làng quê, mộ tổ tiên không còn nữa, mộ cha thì ‘đã hòa chung vào hàng trăm bộ hài cốt khác từ mười năm trước’, còn mẹ“sau khi đoạn tang, làm lễ cải táng cho mẹ, mẹ phải chịu số kiếp nằm vào cái huyệt chôn chung; gia đình chôn xuống một cọc tre rất sâu bên mộ để làm dấu, kẻ vô lại nào đó đã nhổ mất cọc và bây giờ khó xác định vị trí ngôi mộ của mẹ”.

Là người con tha hương ra Hà Nội sinh sống, tác giả không khỏi canh cánh bên lòng về mồ mả ông cha, nhất là “ở Hà Nội, vợ tôi đi xem tử vi cho con trai, nói với tôi rằng: “Thằng con của chị mất mộ ông bà, nếu không tìm lại được e có điều không may cho gia đình chị và gia đình cháu sau này”.

Chính vì vậy, chín năm sau ngày mẹ mất, tác giả đã trở về quê thăm nghĩa địa. Trước hết ông tâm sự “tôi sợ lên nghĩa địa ban ngày, không nhìn thấy ngôi mộ cụ thể thì đau lòng lắm. Chẳng thà lên ban đêm, nhập nhòa với đất với cỏ, còn đỡ bớt tủi bớt đau phần nào chăng”.

Vậy là tác giả thăm nghĩa địa vào ban đêm và cầm một bó hương rất to để “giả sử không tìm thấy mộ mẹ, tôi sẽ thắp hương khắp cả nghĩa địa. Như vậy có nghĩa là tôi vẫn thấp thỏm hy vọng tìm ra mồ mẹ mồ cha”.

Một nguyên cớ đi nghĩa địa vào ban đêm nữa là “đi ban ngày tôi sẽ thấy lồ lộ những hình thù quỷ quái của những ngôi mộ chôn chung: mộ hình khẩu súng lục, mộ hình khẩu súng trường, mộ nhọn như mũi chông, mộ bằng như cái nong...”. Những ngôi mộ mà một nhóm trai làng vô tôn giáo, vô thần thánh đã sáng tạo ra như là lũ quỷ sứ dưới địa ngục nhồi nặn các tội nhân thành dị dạng...

Vậy là giữa ban đêm, tác giả lần mò trong nghĩa địa thầm kêu “Cha ơi, cha ở nơi nào? Mẹ ơi, mẹ ở nơi nào? Ông nội ơi, ông ở nơi nào? Bà nội ơi, bà ở nơi nào? Anh trai tôi ơi, anh ở nơi nào? Hãy xin một thoáng hiện hình, hãy xin một thoáng gió thổi, hãy xin một rung rinh ngọn cỏ để chứng nghiệm: người xưa đã trở về...”

Tuy nhiên, không một linh nghiệm nào hiển hiện cho tác giả, ông đành phải theo chân người bạn cũ trong làng tên là Bá “đi hết góc này tới góc khác” để tìm mộ người thân. “Tôi như một cái máy, bước theo Bá không định hướng. Khu nghĩa địa hẹp thôi mà lúc này sao mênh mông thế? Dưới chân tôi là hàng trăm hàng ngàn bộ hài cốt, là bao nhiêu thế hệ dồn nén lại, là hàng bao nhiêu số phận chen chúc nhau, trong đó linh hồn bố mẹ tôi phiêu dạt, hài cốt bố mẹ tôi phiêu dạt giữa cõi mênh mông...”

Chưa tìm được mộ cha mẹ và người thân, tác giả chưa chịu tuyệt vọng, cứ nhắm mắt, chắp tay khấn: “...con không tìm được mồ bố mồ mẹ. Lỗi này của con thật quá lớn, mong bố mẹ xá cho. Nếu hồn bố mẹ linh thiêng thì xin cho cháy bùng nén hương cắm nơi bố mẹ nằm để sáng mai con sửa mộ...”

Tác giả khấn xong rồi chờ đợi mà chẳng có nén hương nào cháy thành ngọn lửa. Ông lại khấn lần nữa và lại chờ đợi. “Nếu có một nén hương cháy bùng lên thật. Tôi sẽ sung sướng biết chừng nào, tôi sẽ nằm lăn ra trên cỏ để ôm lấy mảnh đất và tưởng tượng hình hài cha tôi, mẹ tôi đang nằm dưới đó...”. Nhưng rồi sau cùng, không một nén hương nào cháy lên thành lửa để chỉ cho ông nơi chôn cha, nơi chôn mẹ, ông đành phải “nhắm mắt để ảo giác sẽ đem đến cho tôi gương mặt khắc khổ và nhân hậu của cha mẹ” và rồi không biết cha mẹ nằm đâu, ông đành chắp tay vái lậy cả bốn hướng. Lúc này ông mới lên tiếng kết tội:

“Chúng nó đào mộ tổ. Chúng nó quật hài cốt ông bà, tiền nhân. Chúng nó đào huyệt chôn chung hàng ngàn số phận con người.”

“Chúng nó” là ai, nhà văn Võ Văn Trực không dám nói ra. Tội lỗi tày trời vậy phải trừng phạt “chúng nó” như thế nào, ông cũng không dám động tới.

Vậy thì người đọc đành phải hiểu ngầm “chúng nó” là những người như “bác Chắt Kế”, những người cộng sản một thời đã nã đại bác vào quá khứ. Cho dù ngày nay người ta ra sức phục hồi lại chùa chiền, lễ hội, luôn miệng kêu gào “trở về cội nguồn dân tộc” nhưng những cuộc “đào mộ tổ tiên, xóa bỏ tập tục”, “vận động đấu tố” đã góp phần tạo nên một băng hoại tinh thần, một cuộc đảo lộn các giá trị khiến cho toàn xã hội ngày càng mất đi tính nhân văn, con người ngày càng trở nên những cá nhân ích kỷ, thèm khát vật chất và thấp kém về mặt tinh thần.

Mấy lời tâm sự của tác giả

Đóng lại “Chuyện Làng Ngày Ấy”, nhà văn Võ Văn Trực có đôi lời tâm sự:

Khi mới bắt đầu tập viết văn làm thơ, tôi đã có ý định viết cuốn sách này. Ý nghĩ đó nung nấu trong người tôi dọc năm tháng học tập, công tác và sáng tác. Nhiều lúc định bắt tay vào viết, tôi cố nén lại và tự bảo: “Ðể đến lúc về hưu hãy viết, thời gian càng lùi xa, nhìn trở lại càng đánh giá chính xác hơn các hiện tượng và vấn đề”. Nhưng những năm gần đây, mỗi lần về quê hoặc mỗi lần gặp người làng trên các nẻo đường đất nước, tôi lại thấy bồn chồn, sốt ruột, một cái gì từ bề sâu thăm thẳm cứ trồi lên, dào lên và thôi thúc tôi phải viết - phải viết, không thể chậm trễ được nữa! Thế là ngay sau Tết Canh Ngọ, đúng tối mồng tám tháng Giêng (giỗ mẹ), tôi bắt đầu viết.

Ðây là chuyện làng xóm, gia tộc, gia đình xẩy ra sau những năm cách mạng tháng Tám. Tôi ghi lại một cách trung thực những điều tôi nghe, tôi thấy, tôi biết.

Những tên đất hoàn toàn là những địa chỉ có thật, tôi không bịa thêm hoặc không đổi tên một địa phương nào cả. Còn tên người, hầu hết tôi giữ nguyên, chỉ xin mạn phép thay vài ba tên. Chương V tức là chương Ðám cưới o Thèo anh Mẫn, vì có nhiều đám cưới tương tự, không thể miêu tả một đám cưới cụ thể nào, cho nên tôi phải đặt ra hai cái tên Thèo và Mẫn. Chương XIII tức là chương Ðấu tranh chính trị, tôi thay một số tên người: Khang, Ðẹt, Hinh, Biều... vì cháu con họ còn đó, sợ giữ tên thật e có điều gì bất lợi trong quan hệ tình cảm thôn xóm về lâu dài.

Viết lại chuyện cũ, tôi hoàn toàn không có ý đồ xấu xa moi móc những sai lầm chúng ta đã vấp phải, để rồi đổ lỗi cho người này hoặc người kia, mà cốt để chúng ta đừng lập lại những sai lầm ấy - “Chúng ta” không có nghĩa chỉ là thế hệ được chứng kiến sai lầm, mà tất cả mọi thế hệ mai sau.

Từ sau đại hội Ðảng lần thứ VI, nhất là từ sau nghị quyết IV về văn hóa - xã hội của ban chấp hành trung ương Ðảng khóa VII, chúng ta thẳng thắn nhìn vào những sai lầm cũ và đề xuất phương hướng đi tới. Mọi giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc được phục hồi. Ở làng tôi, đền chùa miếu mạo, nhà thờ họ, mộ cổ, rừng cổ, cây cổ thụ đã bị phá trụi, không còn gì để phục hồi nữa. Nhưng tình làng nghĩa xóm đã dần dần được hàn gắn, mọi người lại sống trong một cộng đồng đầm ấm, cùng bắt tay khôi phục những gì còn có thể khôi phục được. Các chi họ, các dòng họ đã sửa sang lại khu mộ của tiền nhân. Ðảng ủy xã, ủy ban nhân dân xã đã xây đài tưởng niệm liệt sĩ. Hài cốt bác Chắt Kế được rước vào nghĩa trang huyện. Con cháu của bác được nhận ngôi nhà tình nghĩa...

Tôi xin dâng bạn đọc cuốn sách nhỏ này bằng hai bàn tay chân tình của tôi. Xin bạn hãy xem mọi điều tôi viết trong đó như những lời tâm sự tha thiết: chúng ta cùng chung tay đẩy lùi và xóa sạch mọi sai lầm ấu trĩ, cùng vun trồng nền văn hóa Việt Nam hiện đại được bắt rễ sâu trong truyền thống bốn nghìn năm của dân tộc.

Võ Văn Trực

Vì sao cuốn sách mang nguyện vọng đẹp đẽ vậy lại bị cấm xuất hiện ở trong nước? Đó là vì nó giản dị và chân thực và chính vì “giản dị và chân thực” nên giá trị tố cáo của nó mạnh mẽ không thua gì thuốc nổ làm vỡ tung mọi bưng bít, che giấu, gây nhiễu và cả ngụy tạo về một thời kỳ lịch sử vừa mới qua đây thôi, hãy còn nóng hổi tính thời sự. Xin hãy đọc và lan truyền nó.
Mọt Sách
Ai đang xem chủ đề này?
Guest
Di chuyển  
Bạn không thể tạo chủ đề mới trong diễn đàn này.
Bạn không thể trả lời chủ đề trong diễn đàn này.
Bạn không thể xóa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể sửa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể tạo bình chọn trong diễn đàn này.
Bạn không thể bỏ phiếu bình chọn trong diễn đàn này.

Powered by YAF.NET | YAF.NET © 2003-2024, Yet Another Forum.NET
Thời gian xử lý trang này hết 0.518 giây.