Nền dân chủ của nước Mỹ
Giới thiệu sách: Alexis de Tocqueville,
De la démocratie en Amérique
Vấn đề
Từ năm 1975, nếu Cộng Sản thức thời biết tận dụng các tiềm lực của miền Nam đúng mức và chuyển hướng đúng lúc, thì nước Việt Nam thống nhất đã có một vận hội mới để xây dựng một quốc gia dân chủ, phú cường và văn minh. Nhưng đến năm 2017, thì các hy vọng chỉ còn là ảo vọng, khi chủ quyền dân tộc tự quyết, tự do và bình đẳng cho người dân chỉ là lý thuyết; ngược lại, đại hoạ ngoại thuộc, khó khăn kinh tế, nợ công tràn ngập, cạn kiệt môi sinh, suy đồi đạo đức, khủng hoảng giáo dục, vi phạm nhân quyền và bất ổn xã hội là thực tế.
Trước thực trạng này, chính quyền chỉ còn biết dùng bạo lực trấn áp để bảo vệ chế độ, nên không đủ nỗ lực để giải quyết các đề sinh tử và phát huy dân chủ cho đất nước. Nghĩ gì và làm gì để chấm dứt mọi tụt hậu hiện tại và xây dựng dân chủ tương lai, đó là vấn đề khởi đầu của chúng ta.
Thực ra, nhìn lại lịch sử Cách mạng Pháp sau ngày thành công, các khủng hoảng xã hội cũng đã xảy ra tương tự. 46 năm sau, Alexis de Tocqueville, môt trí thức quý tộc người Pháp, đã dựa trên kinh nghiệm phát triển của Mỹ để đề nghị Pháp cải cách về định chế và đào tạo con người dân chủ trong tác phẩm De la démocratie en Amérique (1835) mà bài viết này sẽ giới thiệu các luận điểm chính.
Tác giả
Alexis-Charles-Henri de Tocqueville sinh năm 1805 tại Verneuil-sur Seine và thuộc dòng dõi quý tộc tại Normandie, Pháp. Sau khi tốt nghiệp Đại học Luật vào năm 1824, ông làm Chánh án tại Versailles và lần lượt đảm nhiệm nhiều trọng trách trong chính quyền.
Ông là Ủy viên Công cán của Bộ Tư pháp chuyên trách nghiên cứu về hệ thống cải huấn tù nhân của Mỹ (1830), Báo cáo viên về dự luật hủy bỏ chế độ nô lệ (1839), dự luật cải cách về chính sách cải huấn (1840), biện pháp trợ cấp tín dụng cho Algérie (1847). Ông làm Dân biểu Quốc hội Lập hiến (1948) và Bộ trưởng Ngoại giao trong nội các của Falloux Barrot (1849).
Ông được phong danh hiệu Hiệp sĩ, Chevalier de la Légion d'Honneur (1837). Với nhiều danh tác ông đạt nhiều giải thưởng cao qúy và được công nhận là Viện Sĩ của hai Viện Hàn Lâm Académie des Sciences Morales et Politiques (1838) và Académie francaise (1841).
Sau đảo chính Loius Napoleon Bonaparte vào ngày 2. 12. 1851, ông bị bắt giam. Khi được trả tự do, ông từ giã chính trường và để dành hết thì giờ cho du khảo và sáng tác. Ông từ trần vào 1859 tại Cannes.
Tác phẩm
Nhân chuyến du khảo tại Mỹ để tìm hiểu về các biện pháp cải huấn tù nhân mà De la démocratie en Amérique của Tocqueville ra đời. Tác phẩm này là kết quả của một công trình nghiên cứu về những điều kiện xã hội và các định chế của nhà nước nhằm tạo ra một nền dân chủ mà hai nguyên tắc chính là chủ quyền cho toàn dân và tự do và bình đẳng cho cá nhân. Bằng cách phân tích các điểm yếu của nền dân chủ Pháp và các điểm mạnh của nền dân chủ Mỹ, ông muốn đề nghị chính quyền về các biện pháp cải thiện nền dân chủ.
Tocqueville nhìn thấy sau ngày Cách mạng Pháp thành công, các chính phủ kế nhiệm đã không đem lại một nền dân chủ ổn định mà còn dùng các biện pháp khủng bố dân chúng để trị an. Nhưng Pháp không thể tránh khỏi khuynh hướng dân chủ hoá; đó là một nhịp tiến lịch sử mà Mỹ đã đi khá xa và Pháp cần noi theo.
Ông lập luận là Mỹ có một nền văn minh tuần tự tiến hoá trong thầm lặng, qua thời gian, đem đến một tình trạng ổn định xã hội. Thái độ tích cực tham gia các hoạt động của người dân cũng như sự vận hành hài hoà của các định chế công quyền làm dung hoà được các phân hoá, thí dụ như bảo vệ dân thiểu số (dân da đỏ và dân nô lệ), tiến tới sự bình đẳng xã hội. Cuối cùng, nền dân chủ Mỹ thành hình.
Đại ý
Cuốn I nghiên cứu về các điều kiện địa lý và lịch sử, cấu trúc chính quyền trung ương, điạ phương và bộ máy Tư pháp. Ông thảo luận về các ảnh hưởng của các thế lực xã hội đối với hệ thống chính trị, so chiếu các thế yếu và mạnh của nền dân chủ. Ông phê bình là sinh hoạt dân chủ tạo ra nhiều cơ hội tham nhũng, thành phần theo đa số có khuynh hướng tự mãn và làm phát sinh tình trạng chuyên quyền. Cuốn I được ấn hành vào năm 1835 giúp cho Tocqueville đoạt giải Prix Montyon vào năm 1836.
Cuốn II bàn về ảnh hưởng của các sinh hoạt tinh thần, phong tục và tập quán đến sự hình thành của nền dân chủ. Người Mỹ chạy theo tư lợi nhưng gây ảnh hưởng tốt để gia tăng phục lợi xã hội. Tinh thần trách nhiệm cá nhân làm cho họ trở nên năng động và độc lập trong việc tham gia đảng phái, báo chí, hiệp hội và tôn giáo, họ gây ảnh hưởng trực tiếp đến các sinh hoạt chính trị. Sự tách biệt giữa nhà nước và tôn giáo làm cho cả hai hoạt động hữu hiệu hơn. Việc xây dựng các định chế công quyền bắt đầu từ hạ tầng cơ sở. Giải quyết vấn đề của người dân được luật pháp tản quyền cho địa phương. Chính quyền liên bang chuyên giải quyết các vấn đề đối ngoại và cơ cấu tổ chức chung cho trung ương. Giai cấp trung lưu ở Mỹ có tiếng nói mạnh hơn giới qúy tộc châu Âu. Ở Mỹ khuynh hướng theo ý kiến của đa số là phổ biến và có tác động tạo ra tầng lớp cơ hội trong muà tranh cử và tranh giành các chức vụ công quyền sau khi đắc cử. Vì chạy theo tâm lý nhất thời nên dân chúng không cùng nhau hướng về một viễn tượng chung để lo xây dựng tương lai đất nước. Cuốn II ra mắt vào năm 1840 và đưa ông trở thành Viện Sĩ của Académie francaise (1841).
Ông kết luận là Pháp không thể phát huy dân chủ vì các trở lực chính: phân quyền không cân xứng, dân chúng thiếu lòng yêu chuộng tự do hoặc lạm dụng, theo chủ nghĩa cá nhân và duy vật, muốn có nhiều quyền bình đẳng trong các điều kiện xã hội (égalité des conditions), trong khi chính quyền Pháp không xây dựng các định chế một cách hữu hiệu hơn để bảo tồn tự do.
Kinh nghiệm của Mỹ cho thấy là Pháp phải tuân thủ nguyên tắc tam quyền phân lập; một cơ quan Tư pháp độc lập và Hành pháp mạnh mẽ; việc tản quyền hành chính cho địa phương phải triệt để hầu nâng cao quyền tự trị của người dân. Muốn đạt được thành quả này, Pháp cần phải cải cách vai trò của tôn giáo và giáo dục, tôn trọng nữ quyền và quyền tự do lập hội và báo chí.
Áng văn kinh điển này đã gây chấn động sâu xa tại Pháp và Mỹ và trở thành lý thuyết cơ bản về dân chủ trong khoa học chính trị đối chiếu và được giảng dạy tại hầu hết các đại học trên thế giới. Mỗi khi có các khủng hoảng về dân chủ, tác phẩm này luôn được đem ra thảo luận.
Nội dung
Khủng hoảng dân chủ tại Pháp
Cách mạng thành công mở ra cho Pháp một vận hội mới để lập một quốc gia theo nền cộng hoà và dân chủ. Nhưng 40 năm sau, Pháp rơi vào một cuộc khủng hoảng mà Tocqueville mô tả các chi tiết trong hai danh phẩm: L´État social et politique de la France avant et de puis 1789 (1836) và L´Ancien Régime et la Revolution (1853).
Cách mạng làm cho mọi giá trị truyền thống tâm linh, chính trị, văn hoá và xã hội sụp đổ, nhưng cũng không đem lại một giá trị phổ quát cho bối cảnh mới. Các khái niệm chính yếu trong quá khứ cần phát huy, thí dụ như danh dự, trách nhiệm, luật pháp, ái quốc, tự do và công bình, không còn giá trị. Trong khi các giai cấp hoàng gia, quý tộc và giáo hội Công giáo không còn, thì một xã hội thế tục thành hình với một số tầng lớp mới ra đời: các giới chức cao cấp trong quân đội và hành chánh, các doanh gia và nhà khoa học bắt đầu lên tiếng trong sinh hoạt công quyền. Chính quyền kém hiệu năng và mất phương hướng nên hiến pháp phải thay đổi liên tục. Càng thay đổi chính quyền, đất nước càng hỗn loạn với hàng loạt các cuộc mưu sát hoàng gia, khủng bố chính quyền và nội chiến chống khủng bố; nỗ lực của chính quyền chỉ còn là duy trì trật tự công cộng và không thể giải quyết được toàn bộ các vấn đề xã hội, tạo cho dân chúng có ý thức về dân chủ và đất nước ổn định. Xã hội Pháp tiếp tục chuyển mình trong hướng đi vô định.
Chủ đích của Tocqueville không phải chỉ mô tả thực trạng xã hội mà còn mưu tìm cho nước Pháp một mô hình dân chủ. Theo ông cần phải tìm hiểu tình trạng nguyên thuỷ của dân chủ. Một trật tự xã hội thành hình là do những suy nghĩ và hành động chung của mọi người; tất cả ràng buộc nhau thành một thói quen, phong tục chung và trở nên gắn bó nhau trong sinh hoạt xã hội.
Thông thường, quyền lợi vật chất dễ làm cho con người tìm cách đoàn kết nhau. Nhưng qua thời gian, có thể quyền lợi kinh tế sẽ không còn là một mục tiêu chung và ý thức về tự do là một lý tưỏng để duy trì. Ông dè dặt hơn khi đề cao vai trò của các định chế, dù là có tầm quan trọng trong lý thuyết, nhưng tìm cách áp dụng định chế trong thực trạng xã hội là khó, và đạt được hiệu năng vận hành lại càng khó hơn. Do đó, theo ông, nhận thức về ý nghĩa cao đẹp của tự do là khởi điểm cho người dân phát huy dân chủ. Khi có các quan tâm, thì việc xây dựng một trật tự nền tảng cho dân chủ khởi đầu.
Ý nghĩa của tự do
Tự do có nghĩa là chúng ta sẽ hoàn toàn có thể giải quyết các vấn đề như chuyện riêng tư và không bị lệ thuộc vào bất cứ ai, chính quyền hay luật pháp. Hình thức của tự do là ngôn luận, đi lại, lập hội và báo chí. Thực ra, đó chỉ là một số điều kiện cơ bản nhất của tình trạng tự do toàn diện.
Tocqueville đặt ý nghiã của tự do trong một nội dung toàn diện và khuôn khổ hiến định. Quyền tự do hiến định là cao cả nhất vì bảo đảm điều kiện cho mọi sinh hoạt của người dân, nhất là sự toàn vẹn nhân phẩm. Ông phân biệt tự do của cá nhân và tự do trong xã hội, vì đó là hai vấn đề không giống nhau.
Cá nhân sống trong tự do là một hình thức và các cá nhân sống chung nhau trong xã hội là một hình thức khác. Cá nhân phải có tự do riêng trong suy nghĩ và hành động, nhưng xã hội cần phải có một khuôn khổ để tạo điều kiện cho việc người dân suy nghĩ và hành động chung. Cả hai loại tự do này phải được đảm bảo bởi hiến pháp và hệ thống luật pháp. Việc thực hiện quyền bình đẳng trong mọi sinh hoạt tự do làm cho nền tảng của dân chủ thành hình.
Nhưng thực tế khác hẳn. Bất ổn xã hội triền miên làm cho người dân càng ngày càng muốn xa rời các sinh hoạt chính trị. Khi phải chứng kiến bạo lực của chính quyền, thì họ cũng không còn biết cách sử dụng quyền tự do do cách mạng mang lại, mà quyền này không còn nguyên vẹn từ lâu khi bị chế độ chuyên quyền tước đoạt; không phải là các giá trị trừu tượng của tự do bị tổn thương mà là vì người dân thực sự không còn tự do. Do đó, họ cũng không còn xem tự do là như một vấn đề nhận thức thuần lý về một khái niệm trừu tượng, mà chỉ mơ màng đến một lối sống tự do.
Yêu lối sống tự do
Người dân ở một trạng thái tâm lý mà Tocqueville gọi là lòng yêu chuộng tự do hay là một sở thích (Goût de liberté), mơ ước có một cơ hội để biểu hiện tự do trong mọi sinh hoạt.
Có hai nguồn gốc chính về lòng yêu chuộng tự do, một là lòng ích kỷ để theo đuổi các mục tiêu riêng, hai là nhu cầu cần có tự do trong hành động. Hai đòi hỏi này có sức thu hút đặc biệt và tạo cho người dân có thói quen để thực hành quyền tự do.
Thực ra, thông thường thì đa số người dân không luôn đề cao tự do chính trị. Hiểu biết hạn hẹp là vấn đề. Thậm chí có trường hợp làm ngưởi dân còn có lập luận ngược lại, họ đặt quyền lợi riêng tư lên trên mà không nhất thiết phải ca ngợi tự do chính trị. Họ cho rằng tự do còn làm trở ngại để họ theo đuổi các mục tiêu của mình. Chỉ có một thiểu số hiểu biết về ý nghĩa cao cả của tự do và xem là một loại giá trị phổ quát.
Vai trò của Hiến pháp
Nhưng toàn bộ vấn đề tự do cần được hiến pháp và luật pháp quy định. Nhờ thế mà mọi người có cơ sở để suy nghĩ và hành động nhằm thể hiện một lối sống tự do. Lý do là vì tự do toàn diện và hiến định bao giờ cũng tốt đẹp hơn một vài tự do riêng lẻ được luật pháp thông thường kết hợp lại.
Đề cao tự do khi người dân có nhận thức, yêu chuộng tự do khi họ có cảm xúc, nhưng duy trì tự do là vai trò của Hiến pháp. Hiến pháp phải quy định các định chế, các phong tục tập quán để có cách hướng dẫn người dân nhận ra tầm quan trọng của tự do. Nhờ thế, lòng yêu chuộng tự do, vồn tiềm tàng trong lòng mọi người, có cơ hội được phát huy.
Hoàn cảnh cá nhân và thực tế địa phương
Tocqueville không đề cao giá trị lý thuyết của tự do mà là khía cạnh áp dụng trong hoàn cảnh cá nhân và thực tế địa phương. Để quyết định cho định mệnh của mình, cá nhân phải nhận ra tự do là điều kiện đầu tiên mà để từ đó họ tạo một khởi đầu mới.
Dù tự do có vai trò định đoạt, nhưng cá nhân vẫn không thể thoát ra khỏi hoàn cảnh xã hội, đó là một sự nối kết bất khả phân. Ông đặt tự do cá nhân trong mối tương quan với hoàn cảnh xã hội và ngược lại. Tự do không chỉ giải phóng con người ra khỏi mọi ràng buộc xã hội vì không còn cần đến luật lệ và phong tục tập quán. Con người không phải là thần thánh hay thú vật, mà là có ý thức về giá trị của tự do và thực hiện tự do trong khung cảnh xã hội.
Đa số nghệ sĩ và trí thức thường có thói quen phê bình các vấn đề bất công xã hội, nhưng lại muốn xa lià thực tế và hướng về tự do tuyệt đối; lý tưởng này là mơ mộng và sai lầm. Cần tìm hiểu mối tương quan này là một khởi đầu cho các nỗ lực nối tiếp. Mục tiêu này chỉ đạt được khi mỗi người có cơ hội đồng đều để có thể tham gia, đó là một điều kiện quan trọng nhất.
Thực tế ngược lại. Ý thức chính trị chỉ là ưu tư của thiểu số, tìm cách huy động cho đa số tham gia chính sự là cà một vấn đề khó khăn; chuyện nước non thường được chính quyền tập trung để dễ quyết định, nên cơ hội tham gia của người dân là chuyện xa vời. Theo Tocqueville, tản quyền cho người dân để thực thi quyền tự do trên căn bản địa phương và cá nhân, đó là mục tiêu của hiến pháp trong gia đoạn mới.
Trung ương tập quyền
Suốt một thời kỳ dài, trung ương tập quyền là một chiều hướng chung của Luật Hiến pháp không phải cho Pháp mà cả châu Âu. Hình ảnh một nước Pháp không gì khác hơn là một quốc gia đơn nhất và tập trung cai trị bằng các biện pháp của Luật Hành chánh. Khẩu hiệu "một nhà nước thống nhất và bất khả phân" (La nation une et indivisble) gây tác hại gây không những đến các sinh hoạt đảng phái, hiệp hội và giai cấp, mà còn đến các cơ cấu hành chánh địa phương. Dù có các lý thuyết về chủ quyền quốc gia tối thượng của Bodin và Hobbes mở lối, nhưng các vấn đề quyền cai trị địa phương và tinh thần tự trị cuả dân chúng đều không được phát huy.
Cách mạng đã thay thế chủ quyền tối thượng của hoàng gia bằng chủ quyền toàn dân và mục tiêu của các cuộc phổ thông đầu phiếu là để tìm ra giới lãnh đạo tài năng cho đất nước. Do đó, cách cai trị đất nước, một vấn đề hiến định, trở thành một mô hình mà Pháp làm cho các nước khác noi theo. Cách mạng không phải chỉ làm cho quyền lực của hoàng gia và quý tộc không còn, mà ảnh huởng của các nghiệp đoàn và hiệp hội tư nhân cũng biến mất. Dân chúng manh nha ý tưởng về một quyền dân chủ tự quản và đòi hỏi có tự do nhiều hơn.
Theo quan điểm của chính quyền, đổi mới đất nước có nghĩa là tăng cường quyền lực cho chính quyền trung ương, làm mất ảnh hưởng của các cơ quan quyền lực trung gian (les pouvoirs intermediaires), và các cơ quan hành chánh địa phương (administration des comtés). Để đạt được mục tiêu này dân chúng cần có một bộ máy hành chánh để kiểm soát việc thi hành quyền tự do. Do đó, giải quyết các vấn đề công quyền lệ thuộc vào bộ máy hành chánh hiệu năng.
Những biến cố dồn dập đủ loại khiến cho người dân có ý thức là các vấn đề nội chính trở nên quan trọng và cần ưu tiên giải quyết bằng cách cải tổ Luật Hành chánh. Nhưng đi vào cụ thể trong các hình thức và nội dung về quyền tự quản của người dân, một vấn đề cấu trúc chuyên môn mà hầu như người dân không biết đến các chi tiết nên họ không thể tự giải quyết. Tập trung hay phân tán quyền lực trong hệ thống hành chánh công quyền là một vấn đề hiến định, nhưng có quan hệ trực tiếp đến việc áp dụng Luật Hành chánh địa phương trong thực tế.
Theo ông, càng tập trung quyền lực thì càng dễ tìm các biện pháp táo bạo để giải quyết các vấn đề sôi bỏng của thời cuộc, nhưng khi tản quyền thì càng khó kiểm soát hơn và khả năng chống đối luôn có thể xảy ra ở khắp mọi nơi. Chính quyền địa phương suy yếu và cấu trúc hành chánh mới chưa thành hình để thoả mãn nhu cầu dân chúng cho phù hợp, nên động loạn xã hội càng nhiều. Đa số quan tâm đến tự do kinh tế hơn là chính trị. Họ thường cân nhắc các loại tự do theo cách dung hoà quyền lợi. Chính quyền chú ý đến nguyện vọng của đa số, vì đúng theo luật thủ tục và muốn trấn áp thiểu số, mà ông gọi là sự chuyên quyền của đa số. Đối với dân chúng thì chính quyền vừa vô trách nhiệm vừa không khả năng, từ đó họ bắt đầu có ý tưởng thù nghịch. Đó là căn bệnh của Pháp, một tình trạng xấu xa tất yếu, rất tự nhiên và cũng vô phương chữa trị.
Dù theo chủ trương tản quyền, nhưng kiền thức theo sách vở giáo khoa chỉ là phương tiện và ý thức và hành sử quyền tự do trong thực tế là trọng tâm cần theo đuổi. Khi cá nhân có kinh nghiệm trong các vấn đề đời sống hằng ngày và ý thức được trách nhiệm trước các vấn đề địa phương, đó là khởi điểm. Hai ý thức này đến từ lòng yêu chuộng tự do và công bình trong môi trường sống thực tế, đó là các đức tính cần phát huy.
Theo Tocqueville, có hai giải pháp để giải quyết khủng hoảng dân chủ. Một là phải giới hạn quyền tự do trong phạm vi thuần túy cá nhân; giải quyết chính sự là vấn đề của chính quyền trung ương mạnh và tầng lớp trí thức nhiệt tình. Ông phản đối giải pháp này vì không hữu hiệu, mà kinh nghiệm của Pháp đã chứng minh. Khi một khi chính quyền đã tướt đoạt tự do của dân chúng, thì họ không còn quan tâm đến việc dung hoà quyền lợi của người dân trong các định chế chính trị.
Hai là tạo ý thức về tự do và dân chủ cho người dân trong việc quyết định vận mệnh của cá nhân và đất nước, họ biết sử dụng lý trí và kiềm chế mọi đam mê. Muốn có ý thức trách nhiệm, khôn ngoan trong nhận định và dung hoà mọi quyền lợi là một thói quen mà người dân cần có, thì giáo dục công dân có vai trò chủ yếu.
Làm sao có thói quen và áp dụng thói quen? Tự do là một quyền tự nhiên. Biến quyền này để sử dụng người dân cần có một đức tính và một thói quen áp dụng; Thói quen này sẽ có kết qủa của giáo dục qua thời gian dài; từ đó, nó biến thành một định chế xã hội.
Thực tế cho thấy là dân chúng chỉ trông chờ chính quyền ban phát ân huệ, nên họ không có cơ hội và thói quen hành sử tự do. Để thay đổi, không cần phải có một bộ máy hành chánh khổng lồ mà là một chính quyền địa phương hữu hiệu và dân chúng năng động có ý thức và trách nhiệm. Những đặc điểm này ông tìm thấy nơi các định chế và con người của nước Mỹ.
Các đặc điểm về định chế dân chủ của nước Mỹ
Tocqueville không ca ngợi đất nước và con người trong một cảm nghĩ thoáng qua như là một du khách; vì công việc chính của ông tại Mỹ là nghiên cứu về chính sách cải huấn phạm nhân. Từ tháng Năm 1831 đến tháng Hai năm 1832, ông và người bạn đồng sự là Gustave de Baumont du hành qua các vùng New England, New York, New Orleans và Michigan. Nhân dịp này, ông nhận ra nhiều giá trị ưu việt trong hệ thống công quyền mà Pháp cần bổ sung.
Dân chủ địa phương
Ông thấy có sự dị biệt trong sinh hoạt địa phương ở Mỹ với Pháp. Lợi điểm duy nhất của trung ương tập quyền của Pháp là chính quyền sẽ dễ huy động nguồn lực của dân chúng trong một số thời điểm nhất định, nhưng về lâu dài thì khó mà đổi mới các sức mạnh này. Trong việc giải quyết các vấn đề địa phương, lối suy nghĩ và hành động của dân châu Âu vốn dĩ là suy yếu. Ông không đề cập đến các vấn đề hiệu năng của Luật Hành chánh như chúng ta thường đòi hỏi ngày nay, mà đề cao kinh nghiệm của người dân trong việc tham gia các sinh hoạt cộng đồng.
Ông lập luận, dù khi đất nước có một chính quyền trung ương do dân cử, nhưng không có cơ sở địa phương tự trị thì cũng không thể có tinh thần tự do. Tại Mỹ, cơ sở quyền lực địa phương là dựa trên sự tham gia của dân chúng. Họ có một thói quen trong suy nghĩ và hành động nhằm thể hiện tinh thần tự do.
Ông tự hỏi tại sao các người di dân định cư tại các tiểu bang New England lại có sự gắn bó với địa phương, dù không phải là nơi họ sinh trưởng. Ông giải thích là vì họ cảm thấy có một tinh thần độc lập mạnh mẽ và tự tin về khả năng giải quyết các vấn đề địa phương. Ý thức này không đến từ tinh thần cách mạng truyền thống mà đến từ ý thức tự do của cá nhân, họ biến việc tham gia sinh hoạt cộng đồng là một thói quen, một nhu cầu trong thực tế. Họ có một khả năng chuyển hoá một cái gì thật nhỏ bé và cụ thể ở nơi nào mà họ có sức (où il y a de la force). Họ tạo thay đổi và tận hưởng thành quả của mình và không có tâm trạng chờ đợi được ban phát ân huệ. Người dân Mỹ hiểu nhau và giúp bảo vệ quyền lợi nhau khá chặt chẻ. Dù trong tinh thần thủ lợi cá nhân, nhưng các tính toán kinh tế này của họ đều có giá trị áp dụng trong sinh hoạt chính trị.
Theo ông, sở thích tự do (Goût de liberté) của người Pháp sẽ thành một hạnh phúc chung (public happiness) kiểu Mỹ, khi họ ý thức được việc tham gia các sinh hoạt tại địa phương, một niềm vui và kinh nghiệm mới mà dân Pháp cần có. Các đặc điểm này sẽ dễ thành hình khi có một hệ thống tản quyền địa phương hỗ trợ.