Một chiều đầu mùa hè 1989, bên bờ hồ đập thủy điện Trị-An, gió nhẹ và mây quang, mặt hồ gợn sóng, tôi ngồi hàn huyên cùng một ông bạn già cựu hạ sĩ quan QLVNCH. Chúng tôi ngồi nhâm nhi đôi ba chung. Rượu vào lời ra, ông ta biết tôi đã từng đơn thương độc mã vào rừng đào vàng, đào thiếc kiếm cơm trên mỏ vàng Suối-Nho, Gia-Kiệm, mỏ vàng K3, Đơn-Dương và mỏ thiếc Nắp-Bắc (Lap Bé Nord) Đà-Lạt. Thế là tối hôm ấy thằng Hai Thanh, con trai lớn của ông bạn tôi, bái tôi làm thầy, nó đề nghị tôi qui tụ và chỉ huy một “mũi” (tổ làm việc) đi kiếm “xái” (quặng mỏ) trong rừng Hiếu-Liêm. Tôi đang lúc thất nghiệp, nên nhận lời làm đầu lãnh một mũi gồm hai anh thanh niên trốn nghĩa vụ quân sự là Thanh và Hòa (bạn Thanh) và một cậu bé mười lăm tuổi, thằng Út, em của Thanh. Vì tình trạng trộm cắp nơi mỏ vàng, với sự hiện diện của hàng trăm tay chơi anh chị tứ chiếng đủ loại, tôi phải gởi cái bóp giấy tờ tùy thân tại nhà ông bạn già. Lý lịch của tôi được dấu. Trong chuyến đi này bọn bộ hạ gọi tôi là Bác Hai, đôi khi chúng gọi tôi là Bác Hai Bắc-Kỳ. Thằng Ba Chiến, em của thằng Hai Thanh, đang chạy xe thồ và bạn thồ của nó sẽ lo việc chuyển vận chúng tôi vào vùng mỏ.
Chúng tôi trang bị hai chỉ vàng rồi lên đường vào Hiếu- Liêm một sớm mai rực rỡ nắng hè. Trong những lần “ra quân” trước đây ở Suối-Nho, Đơn-Dương, Nắp-Bắc, tôi thấy những khu vực khai mỏ đều được xem như “vùng oanh kích tự do” của dân kiếm xái. Chúng tôi đến, đi, chặt rừng, đào núi, lọc quặng, khai mương, ngăn suối, chẳng ai đòi hỏi giấy tờ khai báo phép tắc rườm rà. Lần này chúng tôi cũng được tự do đi về không ai cấm cản, duy có việc chặt rừng, phá núi phải cần một cái giấy phép khai thác rừng của Ủy Ban Nhân Dân xã Hiếu-Liêm (Đồng Nai). Lệ phí chính thức cho một tờ giấy phép chỉ có năm ngàn. Nhưng phải chờ hai, ba tháng sau đơn xin mới được chấp thuận. Trong khi đó giấy phép tuôn ra bên cửa hông thì chỉ một buổi hay một ngày là có kết quả, giá “chui” hơi đắt một chút, hai phân vàng! Tờ giấy phép của UBND xã chỉ có mấy dòng: Cấp cho đương sự quyền khai thác diện tích 10 mét x 10 mét trong rừng Hiếu-Liêm trong thời hạn 30 ngày.
Mỏ vàng Hiếu-Liêm cách đập Trị-An (Biên-Hoà) khoảng hai giờ xe thồ, nằm trong một khu rừng nhiệt đới đất đỏ, cây cao, tàn rộng. Nơi này ngày xưa là phần địa đầu chiến khu D của Việt Cộng. Đường lên dốc, xuống đồi quanh co. Ngày chúng tôi lên đường trời trong, gió nhẹ. Trên không có những cánh diều hâu bay lượn vòng vòng. Những con ve sầu đã bắt đầu rả rích bài ca mùa Hạ. Tiếng ve rên rỉ được giữ nhịp bằng tiếng lốc cốc của chim gõ mõ từ trên thân cây bằng lăng mốc thếch. Đàn sẻ rừng ríu rít trong đám cỏ non. Bọn chích choè, chèo bẻo đang xòe đuôi, chí choé chuyền cành đuổi nhau. Trong rừng sâu âm u, vẳng lại tiếng róc rách suối rừng ngọt ngào. Tiết tháng Năm, hai bên đường hoa khoe sắc. Bướm đủ màu bay lượn chập chờn trên hoa. Đường càng lên dốc càng hẹp dần, hương rừng càng ngất ngây. Chỉ cần đưa tay, tôi đã vớt được một cành hoa rực rỡ bên vách núi. Tôi cảm thấy mình đang lạc vào nơi thiên đường bừng bừng sức sống. Ngồi sau lưng thằng Chiến trên yên xe thồ, lòng tôi phơi phới. Miền Nam đang trong mùa hoa nở. Quê hương yêu kiều rực rỡ. Quê hương ta đẹp quá! Lâu lắm rồi tôi mới có cảm giác về vẻ đẹp của quê hương. Tôi hát nho nhỏ một mình nghe, câu ca cũ, “Hoa vẫn nở trên đường quê hương. Ôi! quê hương ta đó!…”
Trước khi tới khu khai thác, chúng tôi phải xuống xe vượt bộ qua một cái dốc khá cao. Trời chợt đổ mưa, đường dốc, trơn trượt, phải mất cả nửa giờ chúng tôi mới lên tới đỉnh dốc. Nơi đỉnh dốc, thằng Thanh chỉ cho tôi thấy một nấm đất to như cái lô cốt và gọi đó là mả cậu Linh. Có vài người đang thì thụp khấn vái trước mả ra chiều thành khẩn lắm. Hoa quả, vàng mã, chất đầy mặt đất, mà đèn nhang thì nghi ngút mịt mù. Thanh giải thích rằng hiện tượng này mới có cách đây chừng một tháng thôi. Số là một hôm có cậu bé 16 tuổi trúng mạch được cả chục cây. Bạn cùng mũi với cậu ra về ngay sau khi chia chác. Cậu còn nấn ná đãi đằng bạn bè vài ngày sau mới dứt áo ra đi. Giầu rồi, cậu không hẹn trở lại. Cậu ôm vàng trước bụng và thuê riêng một chuyến thồ về Biên-Hòa vào buổi chiều mưa to gió lớn. Mấy ngày sau, đội xe thồ không thấy anh bạn thồ trở lại. Trên đỉnh dốc có mùi thối bay xa. Người ta tìm thấy xác cậu bé chết rữa trong rừng, ruột gan bị heo rừng moi ra ăn lê lết trên mặt đất, mùi thịt thối nồng nặc cả một khu. Cậu bé bị trấn lột, hạ sát, thủ phạm là anh bạn thồ. Dân kiếm xái thương tình đồng nghiệp nên đã lấp lớp đất mỏng che tấm thân lạnh lẽo của cậu bé đào vàng vắn số. Vài ngày sau mối đất ùn lên khiến cho mộ cậu bé thành một núi đất khổng lồ trong rừng. Khách qua đường ghé thắp nén nhang cầu cho hương hồn cậu sớm phiêu diêu…
Người ta đồn với nhau rằng cậu linh thiêng lắm! Ai có thắp nhang, cúng quảy, khấn vái cậu, đều được cậu phù hộ mau trúng mạch, khấm khá ra về. Rồi người ta gọi cậu là cậu Linh. Vì thế cái mả ấy có cái tên là Mả Cậu Linh. Từ dạo ấy, con đường qua dốc đổi hướng, tạt sang bên trái đỉnh dốc vài chục mét để người qua đường tiện ghé thắp nhang vái cậu Linh xin phù hộ độ trì. Một chị bán quán ngoài xã, đã bỏ xã, bỏ quán, vào đây bán nhang đèn, hương hoa, ngay dưới dốc. Chẳng mấy chốc chị phất to, cổ có kiềng vàng, chuyền vàng, tay có nhẫn vàng, vòng vàng.
Ở cái mỏ vàng Hiếu-Liêm này mỗi ngày tôi khám phá thêm một điều mới lạ. Mới dẫn “quân” vào vùng được một vài giờ, ăn xong bữa cơm, uống xong bát nước chè tươi, tôi đã thấy ruột mình sôi lên rột rột… rồi thì bụng quặn đau, đi cầu. Đi cầu xong vừa về tới lều, bụng lại lâm râm, lâm râm đau. Thằng cu Hòa dẫn tôi đi gặp ông bác sĩ An để xin thuốc. Ông bác sĩ đóng đô bên bờ suối. Cái chòi của ông chia làm hai ngăn, ngăn ngoài là nơi hành nghề y khoa vỏn vẹn chỉ có một cái chõng tre trên để một cái rương gỗ chứa thuốc men, bông, băng, alcohol, thuốc tím thuốc đỏ. Ngăn trong là tư thất với một cái giường tre, một cái bàn tre đặt cạnh cái bếp làm bằng ba cục đá suối xếp châu đầu thành ông táo. Bếp nhà bác sĩ An lúc nào cũng khói lửa nghi ngút, nồi nước nấu kim chích sôi o…o… suốt ngày. Trước chòi treo một cái biển gỗ cỡ 20 x 40 cm, nền xanh, chữ trắng, “Phòng Mạch Bác Sĩ An”. Tụi nhỏ truyền khẩu với nhau, nào là bác sĩ rất giỏi, bệnh gì ổng cũng rành, cũng trị được dứt nọc. Thêm vào đó, nếu bệnh nhân là dân đào xái bị ngã bịnh trước khi chạm xái, bác sĩ cho nợ tiền công và tiền thuốc cho đến khi xái đã lọc xong thành vàng. Bịnh nhân con nợ có thể trả công bác sĩ An bằng vàng hay tiền cũng đựơc. Nếu anh nào “mo” thì ông chữa thuốc thí công (mort, tiếng Pháp có nghĩa là chết, ý nói thất bại). Ông bác sĩ An là người sinh ra ở quê hương của Bác nên giọng ông nói nặng lắm. Năm tôi có cơ duyên gặp ông nơi rừng thiêng nước độc này thì ông đã ở tuổi trên năm mươi. Bà vợ của bác sĩ lại là người miền Nam, còn rất trẻ và trông thật hiền hậu.
Sau vài câu xã giao, bác sĩ An nhận ra tôi là người Bắc, ông liền vồn vã hỏi han huyên thuyên: “Này đằng ý ơi! Nhìn cái phong thái của đằng ý, tớ đoán chắc rằng đằng ý không phải tay xoàng. Bộ “bảng đỏ” hả? (bảng đỏ nói lái thành bỏ Đảng) – Vô Nam lâu chưa? Gia đình vợ con ra răng? Bởi lý do chi mà đằng ý phải đày đọa như ri? Tớ cũng là dân “bảng đỏ” (bỏ Đảng) đây! Anh hùng mấy khi gặp gỡ. Ngồi đây tâm sự với nhau chơi, đừng ngại!” Ông bác sĩ bỏ Đảng đâu có biết rằng người đứng trước mặt ông lại là một cựu sĩ quan Tiểu đoàn trưởng Biệt Động Quân của QLVNCH, vừa mới được tha ra từ trại tù cải tạo. Phần thì đang bị đau bụng tháo dạ, phần thì e ngại buổi sơ giao, tôi chỉ ậm ừ cho qua câu chuyện. Sau khi cặp nhiệt, bác sĩ An hỏi tôi rất kỹ về dạng phân, triệu chứng lâm sàng. Anh nói rằng tôi là một trong số ít người có cơ thể nhạy cảm với đồ ăn thức uống có hàm lượng kiềm cao. Tại các mỏ vàng, nước giếng, nước suối có chứa hàm lượng kiềm rất cao (?) Nước suối ở đây uống hơi chát. Nếu pha trà thì nước trà cũng có màu xám xịt. Nước uống chính là nguyên nhân gây ra cái bệnh đường ruột của tôi. Muốn tránh, tôi chỉ cần ngưng uống nước trong khu này thôi, không phải dùng thuốc thang gì cả bệnh sẽ tự nó chấm dứt. Nghe theo lời chỉ dẫn của ông bác sĩ, đêm đó tôi uống nước ngọt loại chứa trong bình hai lít thay cho nước trà. Sáng hôm sau tôi hết bị Tào Tháo rượt. Thế là, cứ vài ngày thằng Chiến lại thồ vào cho Bác Hai một bình nhựa 20 lít nước suối lấy từ ngoài xã.
Tuy xa thành phố, nhưng trong khu mỏ vàng Hiếu-Liêm này không thiếu thứ gì, từ nước ngọt, bia, rượu, thuốc lá, bánh kẹo, tới rau cỏ, thịt cá, kể cả dụng cụ đào vàng như xẻng, khiên, xà beng, cuốc chim, thuốc nổ C4 dùng phá đá, và thủy ngân (để tách vàng khỏi các kim loại khác). Có cả chục cái quán cóc cung ứng đủ mọi mặt hàng nhu yếu cho dân đào vàng. Thậm chí khi bạn trúng lớn, cần có vũ khí để áp tải số vàng kiếm được về nơi an toàn, bạn cần thuê vài khẩu K54, AK 47, bạn cứ hỏi quán cô Nghĩa là có ngay.
Bất cứ “mũi” nào có “bãi” đều có thể mở một trang trong sổ nợ của cô Nghĩa. “Mũi” là một tổ thi công (tổ làm việc), quân số tùy nghi. Có mũi quân số đông cả chục người, khai thác hai ba giếng. Có mũi chỉ có hai cha con của một gia đình. “Bãi” là một khoảnh đất vuông mỗi chiều mười mét không hơn không kém. Muốn có bãi thì dân lùng xái phải đăng ký với xã. Thủ tục đăng ký thì như tôi đã tả ở phần trên: hai phân vàng. Thời buổi này cái gì cũng chi bằng phân, bằng chỉ. Vào tới vùng hành sự, tôi mới phát giác ra rằng chẳng cần ghé văn phòng xã xin giấy đăng ký cho phí thời giờ, mua trao tay tại hiện trường một cái giấy phép với con mộc đỏ chói cũng chỉ ba, bốn phân là cao. Ngay khi chúng tôi vừa hoàn tất công việc phát quang cái bãi mà tôi đã chọn thì một người đàn bà trung niên, giọng nói rặt Bắc-Kỳ 75 tới tìm tôi để ký giao kèo tiếp tế. Từ gạo, thịt, mắm, muối, kem đánh răng, khăn mặt, xà bông cho tới cái lều vải tiểu đội cho bốn thày trò tôi đều được thím Xuân cung cấp. Phí khoản đều ghi vào sổ nợ tên Bác Hai có đóng ngoặc (Bác Hai Bắc- Kỳ). Thím Xuân đồng ý cho chúng tôi thanh toán sau khi cạn giếng, nghĩa là sau khi đã bán xong số vàng dưới lòng đất của cái diện tích mà tôi đang căng lều hạ trại. Mười bốn năm sau chiến tranh, tôi đã sống như một tay săn vàng chuyên nghiệp trong những phim Cao- Bồi Viễn-Tây của Mỹ. Đây là chuyến trở về chiến trường xưa lần thứ tư của tôi. Oái oăm là chuyến đi nào cũng có chuyện buồn, chuyện vui để nhớ.
* * *
Quả thực, chuyện đào vàng chẳng có gì nên thơ, mơ mộng. Ngoài nỗi khổ vì muỗi mòng, lo sợ sập hầm, lo “xái rỗng” (quặng chứa ít vàng quá) không thu hoạch được chút bụi vàng nào, phí công. Ngoài ra còn cái nguy cơ bị sang đoạt bởi những tay hảo hán thương phế binh VC có vũ khí. Khác với đất Đà-Lạt và Đơn-Dương, những nơi tôi đã kinh qua trong các lần đi khai mỏ trước đây. Cấu trúc các tầng đất ở Hiếu-Liêm làm cho dân đào vàng đổ mồ hôi, sôi nước mắt, vất vả hơn nhiều so với đất vùng cao. Sau bốn, năm thước đất mùn đen thì tới đất đỏ pha đá cuội, đá tổ ong. Hết đá cuội và đá tổ ong lại tới đất pha đá giăm. Xuống sâu gần hai chục thước mới thấy đất chuyển sang màu trắng nhờ nhờ. Lúc này cũng là lúc “hi vọng vươn lên. “Đất sét mầu xám pha lẫn từng cục quặng sắt rỉ là dấu hiệu phần vỏ của lớp đất trộn quặng vàng. Đoạn đường từ miệng giếng tới lớp đất xám là đoạn đường đứt ruột, rã rời hai tay. Tôi là trưởng mũi nên không phải thay phiên “mõi” đất (đào sâu xuống lòng đất, chuyền đất lên miệng giếng). Tôi chỉ phải tản số đất đã moi lên cho gọn ghẽ. Công việc này cũng không nhẹ nhàng mà rất tốn sức, tốn công. Lớp đất đào lên trong những ngày đầu phải gánh ra đổ nơi bờ suối, cách lều cả trăm mét dưới dốc. Những ngày cận xái thì tôi chỉ việc đổ đất mới moi lên ngay nơi chúng tôi ăn ngủ. Chúng tôi làm việc gần như suốt đêm ngày. Chỉ nghỉ, ngủ vài giờ rồi lại tiếp tục công việc. Tôi phải bấm giờ để ba đứa nhỏ thay nhau mõi cho công bằng. Hai thằng đào dưới giếng, một thằng ngồi trên miệng giếng kéo gầu đất xái. Cứ hai tiếng đồng hồ chúng lại nghỉ giải lao. Thằng Thanh làm một điếu 555 thì hai đứa kia cũng gắng rít mỗi đứa một điếu. Thằng Hòa chơi một chai bia Chương Dương thì hai đứa kia cũng chơi theo ngay, mỗi đứa một chai. Chẳng đứa nào chịu phần thua lỗ cả. Tóm lại tinh thần đồng đội của dân đào vàng rất cao. Tinh thần tranh đấu cũng rất cao. Bắt tay vào việc là ăn hút cái đã! Ăn hút đồng đều, không ai ganh tị. Chỉ có cô Nghĩa và thím Xuân là lời thôi! Tôi nghĩ thầm không biết tới ngày cân lọc xong xuôi, số vàng thu được có đủ để thanh toán tiền ăn hút cho bốn người chúng tôi hay không?
Công việc đãi xái cũng rất là vất vả. Người đãi phải cúi khom lưng cả buổi trên dòng suối, tay lắc cái khiên chao qua chao lại, giữ làm sao cho nước mới vào khiên thay nước cũ, nhả đất xuống dòng mà đừng để bột quặng trôi đi. Tụi nhỏ gọi công việc này là “múa nước”. Tôi thì tuyệt đối không có đủ cái khéo tay để làm công việc này. Tôi đành làm nghề chuyển vận và bốc xái trong bao đổ vào khiên để đồng bạn làm công việc còn lại. Khi công tác múa nước hoàn tất, thì bọn nhỏ vác bao bột quặng đi tới chòi ông Lâm Thầu người Tàu Chợ-Lớn nơi cuối dốc để mua thủy ngân và làm công tác lọc tinh vàng. Tôi lo thu dẹp rửa ráy đồ nghề, khiên, chảo, bao bì, cuốc xẻng rồi chuyển vận chúng về lều. May thay, sau khi thanh toán sòng phẳng sổ nợ cho cô Nghĩa và thím Xuân, giếng vàng đầu tiên cũng đem lại cho chúng tôi đủ số vốn hai chỉ lúc đầu tới bãi.
Hôm sau tôi cho quân nghỉ mệt ba ngày trước khi khởi công một giếng mới. Trong ba ngày nghỉ dưỡng quân này, thằng Hòa và thằng Út thay nhau nấu cơm. Ăn sáng xong, đứa thì đi phụ đãi ngoài suối lấy công, đứa thì đi nhập sòng. Cờ bạc ở đây chỉ có món xóc dĩa. Những con bạc đặt cược bằng tiền, vàng, đồng hồ, dụng cụ khai thác mỏ. Thẻ chứng minh nhân dân đôi khi cũng có thể dùng làm vật cầm cố. Có vài ổ bán dâm dọc bên bờ suối. Trong những cái lều che bằng vải nhựa, những người con gái trẻ bán dâm trên những cái chiếu trải dưới đất. Những cô gái hành nghề ở đây không phấn son lòe loẹt. Họ cũng là những người đào xái một thời, đã “mo” nên không thèm đào nữa, đành đem thân xác cho đàn ông “đào” để kiếm cơm sống qua ngày. Họ đi la cà các bãi. Móc ngoặc được khách thì dẫn về lều. Tiền trả trước, trôn trao sau. Ra khỏi lều, người bán dâm và kẻ mua dâm lại trở thành đôi người không quen.
Buổi trưa, tôi thả bộ lang thang dọc bờ con suối đục ngầu đất đãi xái. Dân đãi vàng làm việc cần cù, bất kể đêm, ngày. Ban ngày chúng tôi đãi xái dưới đèn mặt trời. Ban đêm, dọc hai bên bờ suối có hàng chục ngọn măng sông và đèn khí đá. Đôi khi, đêm vui hơn ngày. Nhạc từ những cái máy thu băng oang oang, bốn hướng tám phương. Nhạc vàng, nhạc kháng chiến, nhạc disco, bi kịch, hài kịch, vọng cổ xen lẫn nhau. Cùng lúc người nghe có thể thưởng thức cả giọng ca nữ đang lên Cẩm Vân, cùng giọng ca nam đang xuống Quốc Hương, xen lẫn điệu ngân xàng xê bất hủ của Thành Được và Bạch Tuyết. Lúc này khúc Lambada Nam-Mỹ đang thịnh hành. Khúc ca này đã lần mò vào tới tận rừng xanh. Mỏ Hiếu-Liêm đang ở vào thời kỳ đông đảo nhất. Lều trại đó đây, ước lượng dân số đào vàng nơi này cũng cỡ bốn, năm nghìn người là ít. Họ đến từ Phát-Diệm, họ gọi con trâu trắng là “con tâu tắng”. Họ đến từ Móng-Cái, từ Tuyên-Quang, họ nói tiếng Nùng, tiếng Tày. Họ đến từ miền Trung, giọng Quảng, giọng Huế. Họ đến từ Cà-Mau, họ chuyện trò với nhau bằng tiếng Miên…
Mặt trời hừng hực tháng Năm. Dòng nước đầu nguồn trôi xuôi, càng về cuối nguồn càng đục. Dòng nước thành mầu cà phê sữa đặc. Người ta lội tới mắt cá, bắp chân, đầu gối. Tay khiên chao nhanh, mắt không rời những hạt vàng óng ánh trong đáy khiên. Lượng cát óng ánh nhiều hay ít là niềm vui, là nỗi thất vọng. Đủ loại người tìm sống nơi chiến trường xưa, trên con suối đục ngầu đất đỏ. Những tiếng hát cất cao, ngây ngô, giọng Bắc, Trung, Nam chen lẫn nhau. Những giọt mồ hôi đọng trên trán, trên má những khuôn mặt cháy nắng xạm khô. Những tiếng cười vô tư bên những tiếng thở dài chán chường…
Tới cuối đồi, tôi ngừng bên những giếng vàng cũ. Dăm em bé gái trai, tuổi cỡ lên chín, lên mười, thân mình gầy guộc đang chuyền từng gàu đất xái chúng mót được lên mặt đất. Tôi tò mò hỏi, “Có khá không các em?” Một bé gái trả lời, “Tụi con mót cả ngày không đủ ăn chú ơi! Họ ‘cạo’ láng quá! ‘bợn’ còn ít lắm chú à!” Tôi xoa đầu bé cảm thông. Thương cho bé, mới tí tuổi đầu đã vất vả vì đời.
Tôi theo cái thang dây xuống thám hiểm vùng đất thế giới của Diêm-Vương. Sâu hai, ba chục thước dưới lòng đất, ở tầng quặng mỏ, vách ngăn giữa các giếng được đánh thông để lấy xái. Lớp đất sét có quặng chỉ dày chừng ba, bốn thước. Tôi đứng giữa một căn hầm rộng mênh mông. Mặt đất dưới chân tôi bị cạo sạch sành sanh. Trên trần là lớp đất sét trộn đá giăm, dưới nền cũng là đất sét pha đá giăm. Không khí dưới đáy giếng lạnh lẽo vô cùng. Ánh sáng mặt trời từ trên cao theo những lỗ giếng chiếu xuống đáy như những ngọn đèn pin trắng. Ngửa mặt nhìn lên, chỉ thấy một khoanh trời xanh xa tít, lâu lâu bay qua vài sợi mây trắng.
Những em bé đang mót xái cách tôi không xa, vậy mà tôi không nghe được tiếng chúng nói chuyện. Xái dưới chân không còn. Chúng dùng xẻng đâm ngược lên tầng vách đất trên đầu, hi vọng tìm được những cục quặng vàng lẫn trong đất đá trên trần hầm. Những bé con đang tìm miếng cơm dưới chân Thần Chết! Có lúc đất đá sụp từng khối trên đầu chúng khiến bọn nhỏ hoảng sợ chạy dang vội ra xa. Chờ vài giây, chúng trở lại bới vét đống đá tìm những cục xái còn sót, gom thành từng cụm rồi chuyển vận lên mặt đất. Khi bọn nhỏ đi khỏi, căn hầm im lặng như tờ, không cả tiếng côn trùng. Tôi chợt nghĩ, chỉ cần một chấn động nhỏ trên mặt đất là cả khu rừng nặng hàng triệu tấn trên kia sẽ đổ xụp xuống lấp kín căn phòng khổng lồ này trong giây phút. Tôi đảo người quan sát một vòng, tôi có cảm tưởng như đang đứng dưới một bầu trời đầy mây đen kịt mênh mông. Đất dưới chân tôi bốc hơi lành lạnh. Tôi thấy hai ống chân mình có vẻ như muốn mềm nhũn từ từ. Quanh tôi không có ai. Quanh tôi im lặng quá. Tôi chợt rùng mình. Tôi tìm sợi dây thang, vội vàng leo nhanh lên miệng giếng.
Mặt trời xế bóng, có ba người đàn ông đeo mỗi người một cái túi đựng đầy hàng hóa bên hông. Họ đang đứng trước lều của ông bác sĩ An hỏi han điều gì đó. Tôi thấy bác sĩ An và họ nói chuyện với nhau bằng tay, miệng bốn người xí xô om xòm. Khi tới gần tôi nhận ra ba người lạ là người Thái-Lan. Họ nói chuyện bằng Anh Ngữ, họ hỏi xem có ai biết tiếng Anh thì giúp việc họ bán những cái poncho line hoa hòe. Họ sẽ trả công mười lăm nghìn một ngày. Thấy không có ai lãnh việc này, tôi tình nguyện làm việc với họ. Giao kèo chỉ có một ngày thôi vì ngày kia tôi đã bắt đầu một giếng mới không thể đi theo họ được. Sáng hôm sau tôi nhận tiền thù lao trước, làm việc thông ngôn sau. Ngày hôm ấy chúng tôi đã đi qua hết cái diện tích của mỏ vàng Hiếu-Liêm, từ đầu dốc Cậu Linh cho tới triền đồi hướng tây, nơi những cây nọc phân khu mới đóng ranh. Giấy phép khai thác khu đất này chưa được phổ biến. Chúng tôi la cà từ giếng này sang giếng khác. Tôi thông dịch chuyện mua bán thì ít, mà thông dịch những câu hỏi về thời thế, gia cảnh của dân mõi xái thì nhiều. Những người Thái có vẻ thích nghe chuyện lạ bốn phương hơn là việc mời chào khách hàng. Người Thái-Lan lớn tuổi nhất cẩn thận ghi chép những điều ông ta nghe được vào quyển sổ tay dày. Lâu lâu ông lại dở ba lô lấy cái máy ảnh nhỏ chụp hình hoạt cảnh đang diễn ra trên khu khai thác mỏ. Đi từ sáng tới chiều chúng tôi chỉ bán được vài cái mền. Ban đêm ở đây cũng lạnh lắm, nhưng những kẻ đào vàng khốn khổ như chúng tôi thì đâu có thời giờ để ngủ mà cần tới mền? Trước khi chia tay chiều hôm ấy, tôi chỉ dẫn cho những người Thái thương buôn con đường lên cao nguyên để bán chăn nylon. Họ có vẻ không thiết tha lắm với việc lên Đà-Lạt rao hàng.
Hỏi ra, tôi được biết người cao niên nhất trong bọn họ là một cựu chiến binh thuộc Sư đoàn Mãng-Xà-Vương của Quân đội Hoàng- gia Thái-Lan, một đơn vị đồng minh đã có lần hiện diện ở Long- Thành thời chiến tranh. Chuyến đi này của ông không có chủ đích buôn bán, mà chỉ mượn cớ về thăm nơi chiến trường xưa thời tuổi trẻ. Ông ta đang trên đường tìm hứng để viết lại hồi ký đời ông. Ông ta hi vọng thiên hồi ký này có thể đem về một số tiền nhuận bút lớn lao, đủ cho ông sống dưỡng già. Tôi không thiết tha lắm với đám người này, vì tôi vào lại chiến trường xưa chỉ với mục đích tìm gạo sống qua ngày, tôi không có gì hứng thú với việc trở về rừng tìm ý viết văn như họ. Chiều ấy chúng tôi chia tay.
Tôi về tới lều thì thằng Út kể cho tôi nghe chuyện chị bán nhang đèn bị cướp. Chiều qua trên đường về nhà chị bị phục kích giữa rừng. Lúc chiếc Honda hai bánh của chị đổ dốc thì kẻ gian đã giựt một sợi dây dù căng ngang con đường xe be vừa hẹp vừa rậm rạp. Chiếc xe bổ nhào. Từ bìa rừng, hai người đàn ông bịt mặt bằng áo thun đen ào ra lôi chị và chiếc xe vào sâu trong bụi lau. Chúng trói chị lại, nhét giẻ vào miệng chị, lột hết nhẫn, vòng, kiềng, cà rá và cả đôi bông tai vàng của chị. Chúng vứt chị nằm trên đám cỏ lác cho kiến tha, rồi leo lên xe Honda của chị nổ máy chạy đi mất tiêu. Chị hì hục suốt đêm mới tự cởi trói được. Chị lết ra tới giữa đường nằm chờ người đến cứu. Gần sáng, có mấy tay bảo tiêu có súng, sau khi chuyển xái về nhà thân chủ, trên đường trở lại rừng, họ thấy chị nằm giữa đường bèn cứu chị về bãi. Chuyện chị nhang đèn bị cướp chắc cũng được truyền khẩu trong dân gian vùng mỏ này được vài ngày. Ngày sau, tuần sau người ta lại quên chuyện ấy thôi. Ở đây, mỗi ngày xảy ra cả trăm vụ lộn xộn. Đủ thứ chuyện tào lao. Tôi nghe tụi nhỏ kể lại, tôi cũng chỉ ậm ừ cho qua! Chẳng hứng thú tìm hiểu thêm làm gì. Đụng độ trong cái chợ trời này là chuyện thường ngày. Qua đường, vô ý chạm vai một yêng hùng, nếu không có lời xin lỗi kịp thời có thể gây nên cảnh sứt đầu lỗ trán. Vô tình ném cái tàn thuốc lá trước mặt một tay chơi cũng là hành động châm ngòi cho một cuộc chiến tranh. Ngoài ra, còn cả ngàn nguyên nhân gây ra ẩu đả. Đánh nhau vì gái, vì cờ bạc, vì chia chác phần hùn, vì mõi xái lấn lằn ranh, và vì vân vân… Cái khó bó cái khôn, cái khổ làm con người dễ dàng nổi khùng, rồi trút cái khùng ấy lên đầu đồng loại.
Một hôm, tôi vừa đổ gầu đất xuống bờ suối, quay lưng định trở về giếng làm chuyến kế tiếp thì nghe có tiếng đàn ông quát tháo, “Mày không nộp hết túi vàng cục đó cho tao thì tao vặn họng mày!” Tò mò tôi dừng lại quan sát. Bên bờ suối, một hảo hán to lớn đang kẹp cổ một cô gái cỡ mười bốn mười lăm tuổi. Tay anh ta lần mò trước ngực cô giành giựt cái gì đó. Cô gái vừa cố ôm chặt cái túi áo vừa khóc lóc, “Em lạy anh, vốn liếng đào đãi cả tháng nay, em chỉ có ba chỉ. Mẹ em đang bịnh nặng chờ ở nhà. Anh mà lấy hết thì em không còn tiền thuốc thang cho mẹ em. Mẹ em chết mất! Em lạy anh ngàn lạy. Em làm đứt dây lều của anh, em đã thay bằng dây dù loại xịn đền cho anh rồi. Anh tha cho em, anh ơi! hu..hu…hu…” Người đàn ông nắm tóc cô gái mà quay, hắn nghiến răng,”Tổ mẹ mày! Dây lều của tao, mày phải đền bằng thứ dây ‘gin’. Tao không chịu cái thứ dây dù đó. Ở đây cái gì cũng tính bằng vàng. Không đền tao giết!” Vừa nói hắn vừa đấm đá túi bụi vào ngực, vào mình cô gái đáng thương.
Cuối cùng, hắn chộp được cái túi nylon dấu trong áo ngực của cô gái. Người thanh niên bỏ bao vàng vào túi rồi buông cô bé ra. Cô bé mặt mũi đầy máu, ôm lấy chân anh thanh niên, nắm chặt vạt áo hắn, cô cố gắng giựt lại cái túi nylon. Người đàn ông liên tiếp đấm đá cô gái. Hắn tìm đủ mọi cách thoát khỏi bàn tay cô gái. Cuối cùng hắn quật cô bé lăn quay ra đất rồi nhổm mình định chạy đi. Cô gái vội nhào vào ôm chặt chân chàng hảo hán, miệng cô la bải hoải, ” Bà con cô bác ơi! Cứu con! Người ta ăn cướp vàng của con. Ăn cướp! bà con ơi!” Thấy tôi đứng nhìn, cô bé cầu cứu, “Chú ơi! cứu con với! anh này cướp vàng của con chú ơi!” Tôi chưa biết tính sao, thì tay hảo hán đã hăm he, “Này! Đừng có dính vào nghe cha! Coi chừng lỗ mũi ăn trầu đó!” Tôi xua tay, nhẹ giọng,”Chuyện đâu còn đó. Anh cứ thủng thẳng mà giải quyết. Sao lại nặng tay với phụ nữ như thế, ngó sao được.” Nghe vậy, người thanh niên nộ khí xung thiên,”Đ.M! Mày có phải ông nội tao không mà lên mặt dạy khôn tao? Tao uýnh chết mẹ mày bây giờ!” Đúng là cái ách giữa đàng! Tôi phân bua với những người đồng cảnh đang đãi xái dưới suối,”Bà con nghe có được không? Tôi thấy đàn ông ăn hiếp đàn bà thì tôi có ý kiến. Anh này hàm hồ, hỗn hào như vậy thì bà con tính sao?” Bà con chưa nói gì thì anh hảo hán đã dấn cho tôi một bạt tai khiến mắt tôi nổ đom đóm. Anh co cẳng bồi thêm một cái đạp ngay hông tôi; tôi té bò càng bên bờ suối. Tôi vừa lồm cồm bò dậy lại bị thêm một cái tát ngay má phải. Thế là, tôi chẳng còn nghĩ hơn thiệt, phải trái gì nữa. Tai tôi đã ù, mắt tôi đã đổ lửa. Tôi không kìm được tiếng rú man rợ thoát ra từ miệng mình, “A! …A!…A!…!!!”.
Tôi hất đôi quang gióng xuống đất. Cái đòn gánh trở thành cây côn. Cái đầu côn thốc lên một đòn rất nhuyễn và thuần thục. Bài côn Bình-Định do một võ sư xuất thân từ quê quán của vua Quang- Trung truyền dạy cho tôi ở Pleiku thời 1966-67 đã bị bỏ quên nhiều năm, nay được đem ra thi thố giữa rừng xanh. Mũi côn vừa thọc trúng hàm đối phương thì tôi tự động tạ người xuống thấp, tay tôi xoay cây côn một vòng trên đầu lấy đà. “Vèo!” cây côn chúc xuống quét sát mặt đất, cắt ngang ống quyển tên thảo khấu. Bị liên tiếp hai đòn chí tử, chàng hảo hán qụy gối xuống. Phát côn thứ ba, bổ xuống từ trên cao trúng vai anh ta, kết thúc bài học vỡ lòng “Tam Côn Khai Môn”- Đó là bài đầu trong ba mươi sáu bài “Đoạt Mệnh Côn” Bình-Định, bài nào cũng kết thúc bằng một thế sát thủ. Theo đúng bài bản, thì phát bổ xuống phải nhắm ngay đỉnh đầu địch thủ, nhưng tôi chợt hồi tâm, nhích tay cho nó chệch sang bên, dù sao thì anh ta cũng không phải là một tên lính Mãn-Thanh! Lúc này vị hung tinh rũ người xuống như cọng bún. Tôi bước lên một bước, tay phải vặn ngược tay trái anh ta ra đàng sau. Anh đang cố gượng đứng lên, nhưng đành tự động quỳ xuống, khi tôi xoay tay anh một vòng chín chục độ theo chiều kim đồng hồ. Mặt anh nhăn nhúm vì đau. Mồ hôi anh chảy ròng xuống má. Tôi nghe anh ta rên, “ư! ư! ư!…” trong họng. Bà con tụ tập kín xung quanh la ó như cái chợ, “Đánh chết mẹ nó đi! Đồ ăn cướp!” Tôi móc túi anh lấy cái túi nylon đựng mấy cục vàng ròng đưa cho cô bé. Cô bé vội vã bỏ vàng vào túi, miệng lúng búng “Cám ơn chú!” rồi cô ta cắm đầu vụt chạy về hướng dốc cậu Linh khuất bóng. Đợi cho cô bé chạy đã xa, tôi mới buông tay anh thanh niên ra. Tôi đẩy nhẹ, anh ta ngã chúi về phía trước. Tôi chống một đầu đòn gánh sát mũi chân phải. Bàn chân phải sẵn sàng hất cái đòn gánh lên cao phòng hờ một đòn phản ứng cấp thời. Nhưng anh thanh niên không còn hung hăng nữa. Anh lết mình trên cát như con chó đánh hơi thấy mùi cọp. Anh ta gắng lết cho xa đầu ngọn côn. Anh nhìn tôi với đôi mắt lạc thần. Anh lượm vội đôi dép râu Trường-Sơn rồi ù té chạy về phía con dốc hướng tây, nơi đầu nguồn con suối. Tôi đứng nhìn theo bóng anh ta, lòng chùng xuống, man mác buồn. Tôi tự cảm thương cho cái thân tôi! Cạn ao, bèo xuống đất, tôi đang tranh sống trong một thế giới không luật pháp, không cả tình người. Đâu có ngờ, cuộc đời tôi lại có ngày bị đẩy đưa đến cái khúc quanh thê thảm này!