Tóm Lược: Có hai ý thức hệ chính trị quan trọng tại Hoa Kỳ: conservatism (bảo thủ) và liberalism. Đảng Cộng hòa theo đuổi conservatism trong khi Đảng Dân chủ hướng về liberalism. Ảnh hưởng chính trị của hai đảng này tạo nên tình trạng phân cực chính trị trong giới truyền thông ngày càng mạnh mẽ tại Hoa Kỳ. Sự phân cực chính trị này có thể gây khó khăn cho người dân trong việc thu thập tin tức về các biến cố, dữ kiện, và hoạt động chính trị. Người dân nên hiểu rõ tình trạng này và biết cơ sở truyền thông nào nghiêng về khuynh hướng chính trị nào để có thể tự tạo cho mình một kiến thức không bị chi phối bởi các cơ sở truyền thông. Tuy nhiên, tình trạng phân cực chính trị này không áp dụng cho các quốc gia theo chế độ độc tài như Việt Nam.
Vào ngày 16 tháng 1 năm 1787, Đại sứ Hoa Kỳ tại Pháp Thomas Jefferson (1743 - 1826), người được coi là tác giả bản Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ và sau này là Tổng thống Hoa Kỳ thứ ba, viết trong lá thư gửi Edward Carrington, đại biểu Virginia, "[N]ếu để cho tôi quyết định chúng ta nên có chính quyền không báo chí, hoặc báo chí không chính quyền, tôi không ngần ngại chút nào chọn báo chí không chính quyền" (Xem, Founders).
Câu nói bất hủ của Jefferson, cách đây 230 năm, nhấn mạnh quyền lực thứ tư (the Fourth Estate, the Fourth Power), được coi là sức mạnh của báo chí, độc lập với ba ngành chính quyền (lập pháp, hành pháp, và tư pháp) (Wikipedia 2017b), và là căn bản của tự do ngôn luận, được tôn trọng qua Tu chính án thứ nhất trong Hiến Pháp Hoa Kỳ. Cho tới nay, qua hơn hai thế kỷ, báo chí tại Hoa Kỳ vẫn duy trì sức mạnh đó, nhưng có phần nào suy giảm. một phần vì tính chất của ngành "báo chí" đã thay đổi để trở thành ngành "truyền thông đại chúng" (mass media) và một phần vì tình trạng chính trị và xã hội có ảnh hưởng ngày càng lớn trên ngành này.
Sự kiện ngành báo chí truyền thông chịu ảnh hưởng chính trị đã có từ lâu, nhưng gần đây, với sự thịnh hành của Internet, phạm vi của những cơ sở truyền thông mở rộng, nhất là có những cơ sở truyền thông không chính thống như các trang mạng và bloggers. Ngoài ra, tại các nước tự do dân chủ, tự do ngôn luận càng làm tình trạng này thêm phần phức tạp. Tự do ngôn luận, nhất là tự do báo chí, là một điều kiện cần thiết cho một xã hội ổn định vì người dân có quyền phát biểu ý kiến mà không bị chính quyền ngăn cấm. Tuy nhiên, trong một thể chế dân chủ đa đảng, tự do báo chí thường dẫn đến phân cực chính trị trong ngành truyền thông.
Phân cực chính trị nghĩa là gì?
Một cách tổng quát, phân cực chính trị là sự khác biệt, gây ra bởi một tiến trình tách rời, về ý kiến hoặc thái độ đối với một ý thức hệ hoặc chủ nghĩa nào đó, thường là đối nghịch nhau trong những thực thể có cùng vị trí hoặc nhiệm vụ (thí dụ, giới truyền thông, quốc hội) (Xem, thí dụ như, Wikipedia 2017a). Phân cực chính trị có thể được định lượng qua những con số cụ thể tiêu biểu mức độ khuynh hướng chính trị.
Nhiệm vụ chính yếu của giới truyền thông là truyền bá tin tức, dữ kiện tới dân chúng và giúp mọi người hiểu biết những gì xảy ra ngoài xã hội, địa phương, toàn quốc, hay trên thế giới. Để cho tin tức có giá trị, việc đăng tải, báo cáo tin tức cần phản ảnh sự thật và tường trình mọi việc một cách chính xác và khách quan. "Ai cũng đồng ý nhà báo phải nói sự thật, nhưng người ta rối trí không hiểu 'sự thật' nghĩa là gì" (Kovac và Rosenstiel 2014, 49). Đó là vì ngoài việc loan tải tin tức, đa số các cơ sở truyền thông còn đăng tải, phát hình, phát thanh những bài diễn giải, phê bình, bình luận, trình bày ý kiến, hoặc lý luận về các sự kiện tin tức. Tin tức do đó nhiều khi được loan tải với mục tiêu phù hợp với khuynh hướng chính trị trong các bài bình luận này. Người dân, nếu không cẩn thận hiểu được những dụng ý hoặc mục tiêu ngầm của các bài bình luận này, sẽ có thể có cái nhìn thiếu chính xác vào vấn đề.
Tại Hoa Kỳ, mức độ phân cực trong ngành truyền thông trở nên ngày càng sâu đậm. Để hiểu rõ tình trạng phân cực này, chúng ta nên hiểu về các ý thức hệ chính trị, đảng phái chính trị, và ảnh hưởng chính trị trên các cơ quan tổ chức truyền thông đại chúng.
A. Các ý thức hệ và đảng phái chính trị quan trọng tại Hoa Kỳ:Để có thể hiểu sự phân cực chính trị trong ngành truyền thông tại Hoa Kỳ, ta nên có kiến thức căn bản về các ý thức hệ và đảng phái chính yếu tại Hoa Kỳ, và mối liên hệ giữa các đảng phái và ý thức hệ.
1. Ý thức hệ:
Ý thức hệ nghĩa là gì? Đã có nhiều định nghĩa cho ý thức hệ nhưng không có một định nghĩa nào thỏa đáng hoàn toàn. Có nhiều ý nghĩa gán ghép với ý thức hệ như sau: một hệ thống niềm tin chính trị, một loạt những ý tưởng chính trị hướng động, ý tưởng của giới cai trị, v.v... (Heywood 2012, 5). Theo Heywood, mọi ý thức hệ có ba sắc thái sau: trình bày hiện trạng, thúc đẩy kiểu mẫu của một tương lai mong muốn cho một xã hội tốt đẹp, và giải thích cách nào mà việc thay đổi chính trị có thể đi từ hiện trạng tới tương lai mong muốn (tlđd., 11).
Có hàng chục ý thức hệ khác nhau, mỗi cái chú trọng một số khía cạnh nào đó của cuộc sống con người. Sau đây là một số ý thức hệ thường được nhắc đến: chủ nghĩa liberal (như sẽ được trình bày sau, tôi không dịch "liberal" sang tiếng Việt), chủ nghĩa bảo thủ (conservatism), chủ nghĩa xã hội (socialism), chủ nghĩa quốc gia (nationalism), chủ nghĩa đa văn hóa (multiculturalism) (Xem, thí dụ như, Heywood 2012; Wikipedia 2017c, 2017e). Mỗ́i ý thức hệ còn có thể được chia ra nhiều ý thức hệ khác nhau.
Mỗi quốc gia thường đi theo một hay nhiều ý thức hệ. Tại các quốc gia dân chủ tự do, hệ thống đa đảng tạo ra môi trường thích hợp cho sự phát triển các ý thức hệ cho mỗi đảng, và người dân có quyền lựa chọn, qua thể thức bầu cử, ý thức hệ hoặc đảng nào để điều hành đất nước. Tại các quốc gia không có dân chủ tự do và chỉ có độc đảng, giới nắm quyền tự chọn ý thức hệ để theo đuổi.
Tuy nhiên, tại các quốc gia dưới chế độ độc tài, không phải giới nắm quyền nào cũng có khả năng hiểu biết hoặc thực tâm theo đuổi ý thức hệ mình lựa chọn. Có giới nắm quyền tự xưng theo đuổi một ý thức hệ nào đó, nhưng thực ra điều hành đất nước theo một đường hướng không phù hợp với các nguyên tắc căn bản của ý thức hệ mà họ lựa chọn, và chỉ theo đuổi mục tiêu đem lại lợi lộc cho giới nắm quyền. Tại các quốc gia này, giới nắm quyền dùng ý thức hệ để mị dân và để che đậy những thủ đoạn đàn áp, cướp bóc tài nguyên thiên nhiên và tài sản của cải của người dân. Điển hình là Việt Nam và nhóm cầm quyền cộng sản (NCQCS) Việt Nam.
NCQCS Việt Nam thường tung ra những lời tuyên bố hoặc cho đăng tải những bài viết về các lý thuyết về xã hội chủ nghĩa, Marx-Lenin, và cái gọi là tư tưởng Hồ chí Minh, với mục đích ru ngủ hoặc lừa đảo người dân và che giấu những tội ác xâm lăng, giết người, khủng bố, và chiếm đoạt miền Nam Việt Nam dưới chiêu bài chống Mỹ cứu nước và thống nhất xứ sở. Thực tế cho thấy NCQCS không hiểu biết gì về các lý thuyết ý thức hệ và chỉ dùng những danh từ này để bào chữa cho những tội ác trong thời chiến và trong thời hòa bình, tham nhũng, cướp bóc, và đàn áp nhân quyền. Bài này chú trọng vào cuộc chiến ý thức hệ trong giới truyền thông tại Hoa Kỳ. Cuộc chiến ý thức hệ này khác hẳn với cuộc chiến tại Việt Nam giữa người dân, trong nước và hải ngoại, và NCQCS.
Tại các quốc gia có tự do dân chủ thực sự, người dân có nhiều vấn đề theo nhiều phương diện. Do đó, việc phân loại họ vào các nhóm khác nhau rất khó. Có quá nhiều phương diện người dân chú trọng và mỗi phương diện thường có nhiều giải pháp khác nhau, khiến cho tổng số mọi vấn đề cho từng giải pháp sẽ rất lớn. Việc nghiên cứu tỉ mỉ các phương diện và các giải pháp để dẫn đến việc phân loại các ý thức hệ chính trị là một công trình nghiên cứu phức tạp. Đặt tên cho các khuynh hướng này lại càng khó khăn vì tính chất đa chiều của ý thức hệ chính trị. Khó có một danh xưng nào tiêu biểu cho một nhóm với cả chục phương diện. Trong bài này, tôi sẽ chỉ chú trọng vào các khuynh hướng chính yếu trong các ý thức hệ chính trị, và tôi dùng "ý thức hệ" và "chủ nghĩa" gần như đồng nghĩa.
Một cách đơn giản, ý thức hệ chính trị tại Hoa Kỳ có thể được chia ra thành hai khối chính yếu khác nhau: bảo thủ (conservatism) và liberalism. Ý nghĩa của hai từ ngữ conservative và liberal dẫn đến "lẫn lộn và mơ hồ" (Ellis và Stimson 2012, 2). Ngoài ra, hai ý thức hệ này còn được chia ra thành nhiều ý thức hệ khác nhau (thí dụ, liberalism cổ điển và tân thời). Một điểm quan trọng nữa là ý nghĩa của hai từ ngữ này tại các quốc gia Âu châu có thể khác với ý nghĩa tại Hoa Kỳ.
Conservatism có định nghĩa khá rõ rệt và có từ ngữ tương đương trong tiếng Việt. Conservative thường được định nghĩa là giữ những thái độ và giá trị truyền thống và cẩn thận trong việc, hoặc cưỡng lại, thay đổi hoặc đổi mới. Định nghĩa này phù hợp với từ ngữ "bảo thủ" trong tiếng Việt. Thực ra, như trình bày ở trên, "bảo thủ" không hoàn toàn mô tả chính xác và đầy đủ ý thức hệ này, nhưng ít nhất từ ngữ đó phản ảnh khá trung thực.
Liberalism dường như không có từ ngữ ngắn gọn tương đương trong tiếng Việt. Liberal thường được định nghĩa là đón nhận những quan điểm mới và sẵn sàng bỏ các giá trị truyền thống. Một số từ ngữ dịch cùa liberal là tự do, phóng khoáng, phóng túng, canh tân, cấp tiến, hoặc đổi mới. Các từ ngữ này, tuy phản ảnh một số khía cạnh của liberalism, có thể dễ gây hiểu lầm và lẫn lộn vì ý nghĩa của chúng có hàm ý khác trong tiếng Việt. Vì không có tiếng Việt ngắn gọn tương đương, tôi quyết định không dịch liberalism/liberal sang tiếng Việt mà dùng nguyên bản tiếng Anh.
Điểm quan trọng là hai khuynh hướng này không hiện hữu với ranh giới rõ rệt như đen và trắng. Đó là vì có những mức độ khác nhau trong mỗi khuynh hướng, thí dụ cực đoan, vừa phải, trung dung, v.v... Một người theo bảo thủ vừa phải có thể có nhiều quan điểm giống như quan điểm của một người theo liberal vừa phải. Ngoài ra, còn có một số người tự coi mình là bảo thủ nhưng lại có những quan điểm liberal. Những người này được gọi là "bảo thủ mâu thuẫn" (conflicted conservatives) (Ellis và Stimson 2012, 149).
Những vấn đề hai ý thức hệ liberal và bảo thủ khác nhau gồm có: kinh tế, giáo dục, năng lực, nhập cư, ngân phí quân sự, tôn giáo, hôn nhân cùng phái, an sinh xã hội, thuế má, gia tăng nhiệt độ toàn cầu, kiểm soát súng, y tế, an ninh nội địa, tài sản riêng tư, chiến tranh chống khủng bố, phá thai, hình phạt tử hình, trợ cấp xã hội, v.v. (Xem, thí dụ như, Student 2010).
Liberalism nhắm vào những thay đổi mới lạ. "Người Mỹ liberal coi họ là người tiếp nhận thay đổi và các ý tưởng mới lạ. Thí dụ, họ thường chấp nhận các ý tưởng khoa học mà một số người bảo thủ chống đối, như thuyết tiến hóa và nhiệt độ thay đổi toàn cầu (global warming)" (Wikipedia 2017d, 2017c). Ngoài ra, "
ình đẳng về cơ hội là thành phần cốt lõi của liberalism" (Ellis và Stimson 2012, 3). Một cách tổng quát, liberalism ủng hộ chính quyền điều hành kinh tế thị trường, môi trường kinh tế để tránh lạm dụng, thiết lập tiêu chuẩn; tăng thuế trên nhà giàu; tăng quyền lực hiệp hội; tăng lương tối thiểu. Về đối ngoại, liberalism cổ xúy tăng giới hạn ngoại thương, giảm chi tiêu quân sự. Về xã hội, liberalism ủng hộ thoát khỏi các xâm phạm cuộc sống riêng tư của dân; nới lỏng giới hạn di trú, nới lỏng các luật chống phá thai; bảo vệ quyền lợi nhóm dân thiểu số được coi là bị thiệt thòi như người Mỹ gốc Phi châu, đàn bà, và những người đồng tình luyến ái (Ellis và Stimson 2012, 4; Groseclose 2011, 39; Wikipedia 2017d).
Ngược lại, chủ nghĩa bảo thủ tin rằng "người dân, gia đình, và cộng đồng, không phải chính quyền liên bang, là những lực dẫn đến xã hội thành công, tiến bộ" (Ellis và Stimson 2012, 5). Chủ nghĩa bảo thủ cũng tin vào bình đẳng cơ hội, nhưng ủng hộ phương thức mở rộng tự do thị trường cho mỗi người lựa chọn con đường kinh tế của mình thay vì để chính phủ làm giảm thiểu khác biệt thu nhập. Chủ nghĩa bảo thủ muốn chính phủ khuyến khích, thay vì kiểm soát, tư nhân cung cấp lợi lộc xã hội; và các vấn đề của giới thiếu điều kiện nên được giải quyết hay nhất qua từ thiện hoặc trách nhiệm xã hội tư nhân (Ellis và Stimson 2012, 5; Wikipedia 2017c, 2017e).
Với các mục tiêu khác nhau với nhiều vấn đề ở trên, ta thấy các ý thức hệ chính trị thường phức tạp và có nhiều biến thể. Tuy nhiên, đôi khi ta cũng có thể có một cái nhìn đơn giản dựa vào nét đặc thù của các ý thức hệ này. Lấy thí dụ Việt Nam và Hoa Kỳ. Việt Nam, dưới sự chiếm đóng của phe nhóm cộng sản, theo chế độ cộng sản và NCQCS hô hào chủ nghĩa xã hội trong khi Hoa Kỳ được luân phiên điều hành bởi ý thức hệ liberal và bảo thủ. Bốn ý thức hệ này khác nhau thế nào? Có cách đơn giản nào tóm tắt đặc tính cốt lõi của bốn ý thức hệ này không?
Cách đây 88 năm, nữ văn hào người Anh Richmal Crompton nổi tiếng qua những truyện cho trẻ em, viết một câu nói bất hủ của một nhân vật trong truyện, gói ghém đặc tính cốt lõi của bốn ý thức hệ Bảo thủ, Liberal, Xã hội, và Cộng sản.trong tác phẩm "William, Prime Minsister" (William, Vị Thủ tướng) vào năm 1929. Câu này, tuy viết cho một truyện trẻ em giả tưởng, có giá trị sâu sắc và được nhiều nhà chính trị học tán thưởng (Xem, thí dụ như, Bogdanor 2013; Whyte 2011, 146). Câu đó như sau (Xem, Hình 1). (Tôi giữ y nguyên cách viết dùng điệp ngữ và chấm câu của tác giả Richmal Crompton.)
"Có bốn loại người muốn được là kẻ cai trị. Họ đều muốn làm mọi việc tốt hơn, nhưng họ muốn làm những việc đó tốt hơn theo các đường lối khác nhau. Có những người Bảo thủ và họ muốn làm mọi việc tốt hơn bằng cách duy trì những việc đó như hiện trạng. Có những người Liberal và họ muốn làm mọi việc tốt hơn bằng cách thay đổi những việc đó một chút, nhưng không để cho ai nhận ra cách họ làm, và có những người theo Xã hội chủ nghĩa, và họ muốn làm mọi việc tốt hơn bằng cách lấy hết tiền mọi người, và có những người Cộng sản và họ muốn làm mọi việc tốt hơn bằng cách giết hết mọi người trừ họ ra." (Richmal Crompton, nữ văn hào người Anh, 1929).
Câu nói của Richmal Crompton về Xã hội chủ nghĩa và Cộng sản vào năm 1929 quả thật chính xác một cách tiên tri về NCQCS tại Việt Nam trong thế kỷ thứ 21: cướp của giết người.
2. Đảng phái chính trị:
Đảng phái chính trị là một thực thể hiện hữu cụ thể có mục đích nắm giữ quyền hành trong việc điều hành guồng máy chính quyền của một quốc gia. Theo Antony Downs, một học giả Mỹ về kinh tế và khoa học chính trị, "[m]ột đảng chính trị là một nhóm người muốn kiểm soát khí cụ cai trị bằng cách nắm giữ chức vụ trong một cuộc bầu cử hợp hiến" (Hofmeister và Grabow 2011, 11). Một khái niệm liên hệ mật thiết với đảng phái chính trị là bầu cử. "Phương tiện bầu cử hàm ý rằng có sự cạnh tranh của ít nhất hai đảng" (tlđd., 12). "Một hệ thống 'độc đảng' là một hệ thống tự mâu thuẫn vì một 'đảng' chỉ nên là phần của một nhóm lớn hơn. Hệ thống độc đảng do đó được mô tả qua sự đàn áp cạnh tranh chính trị và tự do dân chủ" (tlđd., 18). Do đó, những quốc gia theo hệ thống độc đảng như Việt Nam là một hệ thống tự mâu thuẫn, và không thể nào có nền dân chủ.
Tại các quốc gia có tự do dân chủ thực thụ, hệ thống chính trị luôn luôn có đa đảng. Thông thường các đảng phái chính trị cạnh tranh nhau trong chính trường để giành quyền lực điều hành quốc gia. Tại Hoa Kỳ, có bốn đảng lớn và hơn 30 đảng nhỏ (Wikipedia 2017h). Trong bốn đảng lớn, chỉ có hai đảng thực sự đóng vai trò quan trọng trong việc điều hành quốc gia. Đó là đảng Dân chủ và đảng Cộng hòa.
Một cách tổng quát, Đảng Dân chủ hướng về liberal (hơn bảo thủ) và Đảng Cộng hòa hướng về bảo thủ (hơn liberal) (Grossmann và Hopkins 2016, 31). Các thành viên của hai đảng này, kể cả các lãnh tụ trong ba ngành tư pháp, lập pháp, và hành pháp tại tiểu bang và liên bang, thường theo đường hướng quy định trong hai ý thức hệ tương ứng, với nhiều mức độ khác nhau, như được trình bày ở trên.
Bảng 1 so sánh hai đảng Dân chủ và Cộng hòa một cách tổng quát (Diffen; Student 2010). Vì hai đảng Dân chủ và Cộng hòa đi theo hai ý thức hệ liberal và bảo thủ, theo thứ tự, sự khác nhau giữa hai đảng tương tự như sự khác nhau giữa hai ý thức hệ liberal và bảo thủ tuy có vài ngoại lệ nhỏ nhặt. Nên ghi nhận rằng sự khác biệt của hai đảng theo các vấn đề trong Bảng 1 không nhất thiết tuyệt đối và có nhiều mức độ khác nhau. Thí dụ, đa số thành viên đảng Dân chủ hỗ trợ hôn nhân đồng tính nhưng cũng có một số người chống đối. Tương tự, đa số thành viên đảng Cộng hòa chống đối hôn nhân đồng tính nhưng cũng có một số người hỗ trợ.
Vì hai ý thức hệ bảo thủ và liberal có khá nhiều điểm khác nhau, và nhiều khi đối nghịch nhau, hai Đảng Dân chủ và Cộng hòa thường đối chọi nhau kịch liệt trong những cuộc tranh cãi, dẫn đến tình trạng phân cực không thể tránh được. "Phân cực được định nghĩa là khoảng cách ý thức hệ trung bình giữa điểm cân bằng của đảng Cộng hòa và Dân chủ" (Shor 2014).
[b]B. Liên hệ giữa truyền thông đại chúng và mức độ phân cực chính trị tại Hoa Kỳ:Các cơ quan truyền thông như báo chí, truyền hình, truyền thanh, mở rộng phạm vi, nhất là với sự tiến bộ về viễn thông, điện toán và mạng. Danh từ truyền thông đại chúng (mass media) bây giờ áp dụng cho mọi phương tiện truyền bá thông tin tới người dân, gồm có các cơ quan truyền thông căn bản (báo chí, truyền hình, và truyền thanh) và các phương tiện truyền thông mới phát triển trong vòng mười năm qua như blogs, trang mạng, truyền thông xã hội (social media như Facebook, Twitter, Instagram), và phim ảnh (thí dụ, YouTube).
Ngành báo chí (journalism) bây giờ không còn hạn hẹp trong các tờ báo hoặc tạp chí in trên giấy hoặc qua làn sóng phát hình hay phát thanh, mà mở rộng tới mọi hình thức truyền bá trên mạng, kể cả hình ảnh và đoạn phim. Blogs và trang mạng đang có ảnh hưởng ngày càng gia tăng trên khán giả (Atkins 2016, 110). "Nhiều trang mạng đăng tin tức chính trị, như Salon, Slate, Daily Beast, Politico, và Huffington Post, đã nổi lên là những trang mạng tin tức nghiêm trọng và đáng nể" (tlđd.).
Ngoài số lượng và hình thức, hiện nay đa số các cơ sở truyền thông không những chỉ loan tải tin tức mà còn dùng những tin tức để cổ xúy một mục tiêu chính trị, xã hội, hay văn hóa nào đó. Truyền thông hay báo chí cổ xúy (advocacy journalism) là một hiện tượng đang thịnh hành tại Hoa Kỳ. "Ký giả hay phóng viên cổ xúy không chỉ thông báo; họ còn có ý định thúc đẩy một chiến dịch nào đó, bảo thủ hay liberal" (Atkins 2016, 14).
Cho dù dưới hình thức nào, truyền thông cổ xúy thường nhắm vào mục tiêu vạch ra bởi các ý thức hệ chính trị mà người thực hành truyền thông cổ xúy đang theo đuổi. Tuy nhiên, truyền thông cổ xúy không theo đuổi các ý thức hệ bằng nhau. Phần nhiều dân Mỹ tin rằng giới truyền thông thiên về liberal nhiều hơn là bảo thủ (Wikipedia 2017g). "Giới đại học và truyền thông tin tức, hai định chế xã hội thường có trách nhiệm tạo và truyền bá thông tin, đều có đầy rẫy nhóm liberal và người theo Đảng Dân chủ" (Grossmann và Hopkins 2016, 133). "Giới bảo thủ trội hơn nhiều giới liberal trong công chúng Mỹ, nhưng giới nhà báo liberal có nhiều hơn giới nhà báo bảo thủ ở cả mức độ toàn quốc và địa phương và khắp phương tiện truyền thông báo in giấy, truyền hình, truyền thanh, và trên mạng" (tlđd., 135).
Nhiều người tin rằng truyền thông cổ xúy đóng góp đáng kể vào khí hậu văn hoá và chính trị ̣đối nghịch (Atkins 2016, 201) và là yếu tố quan trọng trong tình trạng phân cực hiện nay tại Hoa Kỳ (Atkins 2016, 204). Tình trạng này dường như khó cải tiến được vì "giới truyền thông và giới cử tri chính trị hóa bị cùng mắc bẫy trong một chu kỳ ác hiểm: truyền thông đảng phái cung cấp phân cực vào dân đi bầu vả dân đi bầu muốn có thêm truyền thông đảng phái, và cứ thế" (Anderson, Downie, và Schudson 2016, 162). Tình trạng phân cực của giới truyền thông Hoa Kỳ phản ảnh cuộc chiến ý thức hệ trong một thể̀ chế tự do dân chủ. Cuộc chiến này, tuy rất khốc liệt trên phương diện tranh cãi và thảo luận, thường có những hậu quả tốt đẹp vì người dân có dịp tìm hiểu thêm về các lý thuyết và thực hành về cuộc sống con người trong xã hội.
Câu hỏi quan trọng là: "Có mối liên hệ nào giữa các khuynh hướng chính trị, đảng phái chính trị, và tổ chức truyền thông?" Có nhiều bằng chứng cụ thể cho thấy quả thật có mối liên hệ giữa các cơ quan truyền thông và hai đảng (Wikipedia 2017f). Có nhiều nghiên cứu, tìm tòi, hoặc báo cáo về mối liên hệ này. Nhiều trang mạng đưa ra danh sách những cơ sở tổ chức truyền thông và khuynh hướng chính trị (Xem, thí dụ như, Brown 2016, Haskins 2017, Wikipedia 2017i).
Trong số các nghiên cứu và báo cáo về khuynh hướng chính trị của giới truyền thông, có hai nghiên cứu có giá trị: Nghiên cứu do trung tâm nghiên cứu Pew (Pew Research Center, Wikipedia 2017g) và nghiên cứu do giáo sư Tim Groseclose thực hiện.
1. Nghiên cứu của trung tâm nghiên cứu Pew:
Trung tâm nghiên cứu Pew tổ chức một cuộc thăm dò lớn trong năm 2014, thăm dò 10.000 người lớn về ý thức hệ chính trị. Kết quả cho thấy đảng Cộng hòa và Dân chủ hiện nay tách xa ra hơn hết thẩy trong lịch sử cận đại (Atkins 2016, 199). Việc này dẫn đến một Quốc hội rất phân cực, ảnh hưởng đến giới truyền thông.
Hình 2 cho thấy khuynh hướng chính trị của khán giả của các cơ quan truyền thông thịnh hành tại Hoa Kỳ do trung tâm nghiên cứu Pew trình bày (Pew 2014; Pew 2016). Pew vẽ vị trí các tổ chức truyền thông trên trục có trị số từ +10 (cực hữu) đến -10 (cực tả) với zero là trị số thăng bằng. Tôi sửa khoảng [+10, -10] thành [0, 100] để dễ so sánh với kết quả nghiên cứu của giáo sư Groseclose trong Hình 2 có trị số nằm trong khoảng [0, 100].
Điểm trung bình của tất cả khuynh hướng chính trị là khoảng -1 (55 trong khoảng [0, 100]). Điểm nằm bên trái của điểm trung bình này coi là thiên tả, và nằm bên phải coi là thiên hữu. Mức độ thiên tả hay thiên hữu tùy vào chỉ số. Thí dụ, New Yorker và Slate được coi như thiên tả khá mạnh. Ta có thể cho trị số khuynh hướng chính trị của các tổ chức truyền thông này như sau:
Thiên hữu (bảo thủ): Breitbart, Rush Limbaugh Show, The Blaze, Sean Hannity Show, Glenn Beck nằm khoảng vị trí từ +5.25 tới +6 (20 tới 23 trong khoảng [0, 100]); Drudge Report khoảng +4.7 (27); Fox News khoảng +2 (40).
Thiên tả (liberal): Yahoo News, Wall Street Journal khoảng -0.8 (53); CBS News, Google News, Bloomberg, ABC News, USA Today, NBC News khoảng từ -1.2 tới -2 (55 tới 58); CNN, MSNBC khoảng từ -2.0 tới -2.2 (60 tới 62); BuzzFeed, PBS, BBC, Huffington Post, Washington Post, The Economist, Politico khoảng từ -3 tới -3.9 (65 tới 69); Daily Show, The Guardian, NPR, Colbert Report, New York Times khoảng từ -4 tới -4.1 (71 tới 76); New Yorker, Slate khoảng từ -5 tới -5.8 (78 tới 80). Nên để ý Google News không phải là một cơ sở truyền thông chính thức mà chỉ là trang mạng thu thập tin tức bài vở từ các nguồn khác.
2. Nghiên cứu của Groseclose:
Groseclose và đồng nghiệp đặt ra thương số chính trị (political quotient, PQ) và từ đó chỉ số lệch (slant quotient, SQ). Trị số PQ trải từ khoảng 0 tới 100 và đo lường mức độ liberal của một người dựa vào tiêu chuẩn của nhóm Americans for Democratic Action (ADA) (Groseclose 2011, 38-40). PQ càng lớn mức độ liberal càng cao. Groseclose thiết lập một phương thức định lượng để đánh giá khuynh hướng hướng chính trị của các Thượng nghị sĩ và Dân biểu Hoa Kỳ và các tổ chức hoặc cơ sở truyền thông.
Thiên vị (bias) có nghĩa theo khuynh hướng nào đó dựa vào một định kiến có sẵn hoặc theo một mục tiêu được đặt ra trước đó. Groseclose, trong công trình nghiên cứu về thiên vị truyền thông, định nghĩa thiên vị truyền thông là "mức độ chiều hướng một cơ sở truyền thông khác với trung điểm của các quan điểm chính trị Mỹ" (Groseclose 2011, 48). Nhưng thế nào là "trung điểm "? Theo Groseclose, trung điểm là "thương số chính trị trung bình, cho một năm nào đó, của tất cả các nhà lập pháp phục vụ trong năm đó tại Quốc hội" (tlđd.).
Tôi sẽ không đi sâu vào chi tiết về những phương thức Groseclose tính toán để có một định nghĩa và trị số hợp lý cho trung điểm. Nhưng những phương thức này có vẻ hợp lý trong việc đơn giản hóa vấn đề.
Hình 3 cho thấy khuynh hướng chính trị thể hiện qua thương số chính trị của các tổ chức cơ sở truyền thông dựa vào nội dung bài viết hoặc chương trình phát hình, theo Groseclose (Groseclose 2011, 17). Đặc biệt, Hình 3 cho biết khuynh hướng hướng chính trị của hai đảng chính trị và cử tri Hoa Kỳ. Đảng Cộng hòa có thương số trung bình khoảng 15 trong khi đảng Dân chủ có thương số trung bình khoảng 84. Cử tri Hoa Kỳ có thương số trung bình từ khoảng 54 (trong năm 75-94) cho tới khoảng 50 (trong năm 95-99). Ta có thể giả sử rằng các con số đó không thay đổi nhiều vào giai đoạn hiện nay. Ta nên nhớ khối ở giữa, gọi là trung dung hoặc ôn hòa (moderate), là trung bình của tất cả khuynh hướng chính trị. Vì là trung bình (average) thay vì điểm cân bằng (median), số thành phần nằm hai bên điểm trung bình không nhất thiết bằng nhau.
Hình 3 cho thấy hầu hết các cơ quan tổ chức truyền thông có khuynh hướng gần gũi với đảng Dân chủ nhiều hơn đảng Cộng hòa. Ngoài ra, tuy Fox News thường được coi là thiên hữu, mức độ thiên hữu này không nhiều lắm. Hình 3 cho thấy hầu hết các cơ quan tổ chức truyền thông, kể cả Fox News đều nằm phía bên trái của điểm trung bình của đảng Cộng hòa.
3. So sánh nghiên cứu của Pew Research Center và Groseclose:
Một cách đáng kể, hai cuộc nghiên cứu Pew (Hình 2) và Groseclose (Hình 3) được thực hiện độc lập, dùng các phương pháp khác nhau, và cách nhau gần mười năm, nhưng kết quả rất phù hợp.
Vài điểm cần chú ý khi so sánh Hình 2 và Hình 3.
Trước hết, Hình 2 và Hình 3 khác nhau về thời gian. Hình 2 phản ảnh thời gian vào khoảng năm 2014, gần với hiện tại khi bài này được viết (tháng 5 năm 2017). Hình 3 phản ảnh thời gian vào khoảng năm 2009 khi Groseclose và đồng nghiệp, Milyo, thực hiện cuộc nghiên cứu. Sự khác biệt 5 năm có thể có tác dụng quan trọng cho vài cơ sở truyền thông, và ngay cả người dân, vì tình trạng xã hội thay đổi và có nhiều tiến bộ về kỹ thuật và sự thịnh hành của Facebook, YouTube, Twitter, v.v. Tuy đa số duy trì khuynh hướng chính trị, có vài cơ sở truyền thông di chuyển khuynh hướng. Drudge Report di chuyển từ thiên tả trong Hình 3 sang thiên hữu trong Hình 2. Wall Street Journal có khuynh hướng chính trị khác nhau giữa hai hình, vì Wall Street Journal có hai phần: tin tức và xã luận và mỗi phần có thể có khuynh hướng chính trị khác nhau.
Thứ nhì, Hình 2 và Hình 3 khác nhau về đối tượng của khuynh hướng chính trị trên trục ngang. Hình 2 cho thấy khuynh hướng chính trị của khán giả xem hoặc đọc bài của các tổ chức và cơ sở truyền thông, trong khi Hình 3 cho thấy khuynh hướng chính trị của tổ chức hoặc cơ sở truyền thông dựa vào slant quotient (SQ) do Groseclose và Milyo đặt ra. Khuynh hướng chính trị của khán giả không nhất thiết giống như khuynh hướng chính trị của tổ chức hoặc cơ sở truyền thông, nhưng thông thường khán giả xem hoặc đọc những gì thích hợp với thị hiếu hoặc sở thích của mình. Do đó, hai khuynh hướng này thường có liên hệ mật thiết với nhau.
Thứ ba, Hình 3 không có thương số cho các cơ sở truyền thông như Huffington Post, Breitbart, The Blaze, Glenn Beck. Việc này dễ hiểu vì đa số cơ sở này chưa thành lập hoặc chưa tạo dựng ảnh hưởng sâu đậm vào thời gian Groseclose và Milyo thực hiện cuộc nghiên cứu của họ. Thực ra, cả hai Hình đều thiếu sót khá nhiều cơ sở truyền thông, nhất là các trang mạng chính trị. Sự thiếu sót này không nghiêm trọng lắm, vì cả hai nghiên cứu liệt kê các cơ sở truyền thông chính yếu, cả về truyền hình và báo chí. Độc giả có thể tham khảo thêm tài liệu về danh sách những trang mạng liberal hoặc bảo thủ (Xem, thí dụ như, Brown 2016, Haskins 2017).
Tuy có những điểm khác nhau, cả hai nghiên cứu đưa đến kết quả khá tương đồng. Trước hết, quả thực có phân cực chính trị trong giới truyền thông đại chúng. Mức độ phân cực này ngang ngửa với mức độ phân cực giữa hai đảng Dân chủ và Cộng hòa. Thứ nhì, phần lớn giới truyền thông hướng về liberal, và thân thiện với đảng Dân chủ. Hầu hết các cơ sở truyền hình (trừ Fox News) và báo chí chính yếu (thí dụ, The New York Times, Washington Post) đều thiên tả. Nhận xét này phù hợp với các báo cáo và thăm dò dân chúng (Xem, thí dụ như, Carney 2015; Matthews 2015; Mendes 2013; Wikipedia 2017f). Lý do cho khuynh hướng thiên tả trong giới truyền thông đại chúng khá phức tạp và đi ngoài phạm vi bài viết này.