Từ mấy chục năm qua, hồi ký gần như là thể loại độc quyền của các nhà lãnh đạo Cộng sản Việt Nam. Các tướng lĩnh cao cấp, nhà văn hóa, nhà khoa học tên tuổi, đôi khi cũng được chiếu cố dự phần, nhưng phải chịu sự biên tập chặt chẽ, để cuốn sách, sau khi xuất bản không xảy ra sự cố ngoài tầm kiểm soát của Ban Tuyên giáo. Tuy vậy, ngay cả hồi ký của của những nhân vật thuộc hàng “lãnh tụ”, xưa nay, theo thông lệ, cũng vẫn là công trình mang dấu ấn tập thể. Nó được uốn nắn, gọt giũa theo sự chỉ đạo thống nhất mà tư tưởng chủ đạo là chỉ nói cái tốt, cái thắng lợi, còn cái xấu và sự thất bại lại ém nhẹm đi. Vì thế, đọc hàng trăm cuốn hồi ký cách mạng, hết thảy đều rực rỡ màu hồng. Vạn nhất, khi buộc phải viết về sự thất bại, người ta lập tức đổ lỗi cho khách quan và nhất là kẻ thù. Loại hồi ký ấy, dù là tác giả tự viết hay thuê các nhà văn, nhà báo viết, tất cả đều cùng một bố cục, một giọng điệu, sử dụng triệt để phương pháp thổi phồng sự thật, tuyệt đối hóa vai trò lãnh đạo của Đảng, sùng bái cá nhân và khinh miệt kẻ thù.
Khác với loại hàng “quốc doanh” trên, Lời ai điếu trước hết là một tác phẩm văn học nghiêm túc, được viết bởi một nhà báo chuyên nghiệp, không phải đảng viên cộng sản, chỉ với mục đích cung cấp cho bạn đọc sự thật về những điều mắt thấy tai nghe sau 38 năm làm báo dưới thể chế độc tài toàn trị.
Không phải là hồi ký chính trị, nhưng các sự kiện chính trị trong Lời ai điếu luôn xuất hiện với tần suất cao bởi nó gắn liền với vận mệnh đất nước cùng những biến động xã hội ở cả cấp độ vĩ mô đến cấp độ vi mô. Nói cách khác, không một ai có thể đứng ngoài chính trị cho dù anh ta là người thông minh tuyệt đỉnh hay kẻ ngu đần ở nấc thang cuối cùng của xã hội.
Lời ai điếu gồm 10 chương được viết theo trình tự thời gian, giống như một cuốn tự truyện về cuộc đời tác giả dưới dạng những hồi ức. Các chương lại được bố cục dài ngắn khác nhau tùy thuộc vào tầm vóc của mỗi sự kiện. Điều đáng chú ý ở đây là, các sự kiện chủ đạo của mỗi chương lại có xu hướng rẽ nhánh thành những trường đoạn có cấu trúc như một câu chuyện hoàn chỉnh với những nhân vật có thực, trong một không gian, thời gian cụ thể theo phong cách tiểu thuyết hiện đại.
Bố cục tác phẩm, nhìn chung là khá tương thích với quá trình diễn biến tư tưởng, trạng thái tâm lý của người viết theo trình tự thời gian, sự chuyển dịch không gian và hoàn cảnh cá nhân được lồng trong bối cảnh xã hội. Chính vì vậy, ta cũng có thể xem Lời ai điếu là cuốn “biên niên sử” của dân tộc Việt trong vòng già nửa thế kỷ thông qua cuộc đời của một nhà báo đã vượt qua nỗi sợ hãi, tìm lại được chính mình sau nửa đời người buộc phải làm “bồi bút”.
Như chính tác giả từng nói, “dưới sự cai trị của những người Cộng sản, mọi thứ đều rơi vào tình trạng tù mù bởi hệ thống tuyền thông chỉ giới hạn trong việc cung cấp thông tin một chiều, trong đó không ít thông tin dối trá, lừa bịp”. Những thông tin người dân được tiếp cận, phần lớn mới chỉ phản ánh một nửa sự thật. Phần còn lại bị giấu kín dưới chiêu bài “bí mật quốc gia”, kể cả những chuyện rất tầm phào như Tổng Bí thư có hai phu nhân, khi Em Hai ở miền Nam ra thì Ban Bảo vệ sức khỏe Trung ương tìm cách lừa Chị Cả lên Tam Đảo chữa bệnh để khỏi “đụng hàng”.
Người Phương Tây có câu ngạn ngữ “một nửa cái bánh mỳ là bánh mỳ, nhưng một nửa sự thật không phải là sự thật”. Với tư cách một nhà báo chân chính, Lê Phú Khải muốn bổ sung “một nửa sự thật”, nhằm cung cấp cho nhân dân một cái nhìn toàn cảnh về quá trình vận hành không bình thường của đất nước từ khi những người Cộng sản du nhập chủ nghĩa Marx - Lenin và áp đặt nền chuyên chính vô sản vào Việt Nam. Nói một cách dễ hiểu, cấu trúc của Lời ai điếu giống như bộ xương cá, trong đó phần chủ đạo là xương sống, trong khi hệ thống xương sườn phát triển về cả hai bên chính là những đoạn rẽ nhánh mỗi khi tác giả cần kể chi tiết về một sự kiện hay nhân vật nào đó có liên quan đến mình.
Cũng có thể hình dung, chủ thể xuyên suốt cuốn sách là một cái “tôi” chủ quan dẫn dắt hệ thống “cốt truyện” và nhân vật thông qua thời gian và không gian nhưng lại theo quy luật khách quan. Mỗi câu chuyện đều được gắn với mảnh đất và con người cụ thể như là những nhân chứng sống, tạo nên bức tranh toàn cảnh về diện mạo xã hội Việt Nam dưới sự quản trị của những người Cộng sản cuồng tín.
Dưới ngòi bút Lê Phú Khải, xã hội Việt Nam đương đại hiện ra như một vở bi hài kịch mà lớp đào kép buộc phải sắm vai diễn trên sân khấu như những con rối được điều khiển bởi bàn tay của những phù thủy lão luyện trong nghệ thuật lừa bịp. Ở đó, thậm chí không ít người trong cộng đồng dân tộc thiếu bản sắc văn hóa ấy, vừa là nạn nhân, vừa là thủ phạm của những vụ thanh trừng nội bộ, những chiến dịch đấu tố đẫm máu, giết chết hàng trăm ngàn người vô tội bởi thứ chủ thuyết hoang đường đi ngược lại những giá trị truyền thống tốt đẹp.
Nhìn một cách tổng quát, tinh thần chủ đạo của Lời ai điếu là những dòng hồi ức được “vẽ” bằng gam màu xám. Suốt cuộc kháng chiến chống Pháp cho đến những năm đầu thế kỷ XXI, quá trình phát triển xã hội Việt Nam toàn là những cuộc thí nghiệm vĩ đại mà kết quả của nó đều thất bại thảm hại. Đương nhiên chịu hậu quả nặng nề nhất vẫn là nhân dân, thuộc thành phần đám đông. Vì thế, về một mặt nào đấy, Lời ai điếu còn là bản tổng kết hàng loạt chính sách thất bại của Đảng CSVN kèm theo những dẫn chứng hết sức thuyết phục. Dẫn chứng có khi là một nhân vật lịch sử tham gia vào guồng máy cai trị vừa hồi hưu hay bị thất sủng, cũng có thể là trí thức, văn nghệ sĩ, từng là nạn nhân trong các chiến dịch đàn áp, tẩy não sắt máu, thỉnh thoảng lại được khởi động để loại bỏ “thế lực thù địch” mà những người Cộng sản trong cơn mê sảng tưởng tượng ra.
Không phải ngẫu nhiên mà ngay phần mở đầu cuốn sách tác giả đã kể lại vắn tắt câu chuyện của ông nội từng làm nhân viên bưu chính trong Phủ Toàn quyền. Cụ từng sang hội chợ Marseille năm 1922 phiên dịch cho vua Khải Định; hay chuyện ông chú ruột Lê Phú Hào làm phiên dịch cho Lê Đức Thọ trong hòa đàm Paris; rồi chuyện một ông chú ruột khác là Lê Hữu Qua từng là lái xe kiêm bảo vệ ông Hồ Chí Minh thời kỳ đầu Cách mạng Tháng Tám, bị bọn Tàu Tưởng đuổi bắn phải bỏ xe chạy... khiến độc giả háo hức, buộc phải đọc tiếp những phần sau.
Có thể đây chính là nghệ thuật “tiếp thị” của một ký giả lão thủ trong nghề. Tuy nhiên, Lê Phú Khải không treo đầu dê bán thịt chó như phần lớn các tập hồi ký quốc doanh. “Hàng hóa” của ông toàn của độc, càng đọc càng giật mình...
Với vốn sống dồi dào, tư liệu phong phú, bản lĩnh vững vàng của một “lão trượng” U 70, đã thoát khỏi nỗi ám ảnh của sự sợ hãi, Lê Phú Khải đưa đến cho người đọc một tác phẩm văn học đích thực, giàu cảm hứng nhân văn, sôi sục tinh thần công dân về những năm tháng xã hội động loạn, khi mà nhà cầm quyền muốn biến dân tộc thành đàn cừu, nhất cử nhất động đều phải làm quen với tập quán xếp hàng, hài lòng với chế độ quản lý hộ khẩu và không được suy nghĩ những gì trái với sự cho phép của Đảng.
Nghệ thuật viết của Lê Phú Khải khác xa với kỹ thuật xảo biện của loại hồi ký chính trị ba rọi được bọn bút nô viết thuê, luôn bịa tạc, tô vẽ, hòng biến “chủ chi” của họ thành thánh thần thuộc đẳng cấp lãnh tụ linh thiêng bất khả xâm phạm. Trái lại, trong cuốn sách của mình, Lê Phú Khải, nhân vật trung tâm, đóng vai trò chứng nhân – người kể chuyện – bình đẳng với các đối tượng liên quan, cho dù người ấy là đầu lĩnh tối cao tự phong, hay chỉ là một anh “Hai Lúa” nào đó làm nghề đơm cá mùa nước nổi vùng Sông Hậu.
Phong cách viết của Lê Phú Khải đến Lời ai điếu đã có bước chuyển ngoạn mục từ văn báo chí minh họa rườm rà đầy rẫy những lời hoa mỹ, những uyển ngữ sáo rỗng sang hình thức phản biện, phản tỉnh. Ông sử dụng báo chí như là “quyền lực thứ tư” phanh phui sự lạm dụng quyền lực của chính thể độc tài toàn trị, xưa nay chỉ coi báo chí là công cụ tuyên truyền, lừa bịp, thao túng dư luận.
Đương nhiên, chất lượng một tác phẩm văn chương phụ thuộc vào nhiều yếu tố như bố cục mạch lạc, hợp lý, lời văn trau chuốt hay cách kể sinh động. Có điều, với thể loại ký, nhất là hồi ký, điều kiện cốt tử làm nên sự thành công phải là tư liệu. Với người viết hồi ký, tư liệu là nguồn tài nguyên quan trọng làm nên giá trị đích thực của cuốn sách.
Là người trong cuộc, từng tận mắt chứng kiến sự phát sinh, phát triển và suy thoái của một đảng chính trị cầm quyền bằng cách tước đoạt những quyền cơ bản của người dân, Lê Phú Khải viết về những sự kiện lịch sử trọng đại, ông phân tích và chỉ ra những chính sách sai lầm có hệ thống của những nhà lãnh đạo có vốn học vấn và tầm văn hóa thấp nhưng lại sở hữu cái đầu kiêu ngạo đầy hoang tưởng. Chỉ cần chừng ấy cũng đủ khẳng định bản lĩnh của người trí thức có hùng tâm tráng chí, luôn trăn trở với số phận đất nước. Tuy nhiên, Lê Phú Khải không dừng lại ở công đoạn kể lại sự việc một cách khách quan, trung thực như tấm gương vô hồn phản chiếu hiện thực xã hội, mà ông còn bộc lộ ý thức trách nhiệm của mình qua thao tác bình luận sau mỗi sự kiện đã trình bày. Lời bình của Lê Phú Khải luôn đánh giá đúng bản chất của hiện tượng, đồng thời lại chỉ ra được nguyên nhân nào làm phát sinh những hiện tượng ấy.
Cũng hoàn toàn khác với mánh khỏe tung hỏa mù, đánh tráo khái niệm hoặc bóp méo sự thật lịch sử của không ít cuốn hồi ký cách mạng giả cầy, Lời ai điếu luôn cung cấp những thông tin có chất lượng cao về mặt khoa học cũng như lịch sử, mục đích làm người đọc nhận thức chính xác diện mạo xã hội Việt Nam qua các thời kỳ thường bị nhà nước Cộng sản thông qua Ban Tuyên giáo các cấp bưng bít. Thông tin của những cuốn gọi là hồi ký ấy, nhiều nhất cũng chỉ cung cấp được một phần sự thật. Còn thông tin nhà nước qua hệ thống 800 tờ báo, tạp chí, gần 100 đài phát thanh truyền hình, luôn được chế biến, vo tròn bóp méo cho phù hợp với đường lối cai trị bằng chính sách ngu dân của Đảng. Sự bưng bít thông tin và thói quen dối trá đã biến dân tộc Việt thành một cộng đồng bạc nhược, triệt tiêu năng lực sáng tạo mà hậu quả là, đất nước tụt hậu thê thảm, tham nhũng trở thành quốc nạn, lãnh thổ bị ngoại bang xâm lấn, nợ công vượt quá giới hạn an toàn, còn môi trường ô nhiễm nặng nề đe dọa nghiêm trọng không gian sinh tồn.
Chuỗi bình luận của Lê Phú Khải có lý có tình, được quy chiếu vào những trường hợp cụ thể, giàu sức thuyết phục, rất thực tế chứ không viển vông, hoang tưởng như các nhà lãnh đạo vung tay chém gió phun ra trước đám đông mỗi khi nổi hứng để ghi điểm với các đồng chí của mình.
Cũng trong hồi ký của mình, Lê Phú Khải không ít lần nhận xét về những nhà khoa học được đào tạo bởi nền giáo dục Pháp, chịu ảnh hưởng của văn hóa Phương Tây, được chính quyền Cộng sản sử dụng ở thời kỳ đầu sau Cách mạng Tháng Tám. Đó là những trí thức văn nghệ sĩ có tư tưởng cấp tiến, trình độ chuyên môn cao, thoát khỏi sự ràng buộc của hệ ý thức Khổng Mạnh bảo thủ, lạc hậu, sẵn sàng cống hiến sức lực để canh tân đất nước. Trái lại, loại cán bộ vô học xuất thân từ thành phần bần cố nông tham gia cách mạng, trở thành lực lượng nòng cốt lãnh đạo thì hống hách, kiêu ngạo và dối trá. Tầng lớp chính khách xôi thịt, vốn là sản phẩm của cách mạng mang phẩm chất lưu manh này, theo tác giả chính là thế lực hùng mạnh cản trở tiến trình phát triển bằng thứ tư duy giáo điều, chủ trương đường lối duy ý chí, đưa đất nước vào sự khủng hoảng trầm trọng, xã hội phân hóa sâu sắc, văn hóa, đạo đức suy thoái, không biết đến bao giờ tìm được lối ra. Ta hãy hình dung, một tay nông dân thuộc thành phần “lý toét xã xệ” như Minh Tiến, nơi gia đình tác giả tản cư hồi chống Pháp, chỉ sau một thời gian leo lên đến thứ trưởng Bộ Công an, mà đồng bào không đói nghèo, đất nước thành rồng thành hổ mới là chuyện lạ: “Hồi đầu Cách mạng Tháng Tám, ông nội tôi cũng có một khẩu súng lục, cũng do ông chú tôi “cấp” cho, nhưng sau đó bị ông chủ tịch xã mượn, chắc là để đeo cho oai. Chủ tịch xã là ông Minh Tiến, sau làm đến chức thứ trưởng Bộ Công an. Ông ta là một thư lại láu cá. Tôi sẽ kể về sau. Cái giấy “mượn” súng có đóng dấu hẳn hoi, đến bây giờ chú em họ tôi vẫn giữ”.
Nhà nước Cộng sản vận hành không theo quy luật phổ quát của nhân loại tiến bộ mà họ chơi theo cách riêng dựa trên cơ sở học thuyết đấu tranh giai cấp. Theo K. Marx, đấu tranh giai cấp là động lực phát triển xã hội, mà giai cấp công nông lại là nòng cốt của nhà nước dân chủ kiểu mới này, đương nhiên phải được ưu tiên trong quá trình tuyển chọn vào guồng máy quản lý các cấp từ trung ương đến địa phương. Chủ nghĩa lý lịch hình thành như một điều kiện tất yếu. Con cháu các gia đình thuộc thành phần “lớp trên” bị loại khỏi các cuộc tuyển sinh như một lẽ đương nhiên. Trường đại học chỉ dành riêng cho con em bần cố nông. Quy trình đào tạo sặc mùi giai cấp này kéo dài gần bốn mươi năm làm cho chất lượng đại học Việt Nam xuống cấp một cách thảm hại. Có vẻ như thành phần bần cố nông vẫn luôn mặc cảm với trình độ thấp kém, giờ có cơ hội, họ quyết tâm vùng lên, trả mối hận truyền kiếp với những kẻ hơn mình về tri thức. Lê Phú Khải cũng là nạn nhân của thứ chủ nghĩa phân biệt quái gở, hai lần thi trượt đại học chỉ vì sự quan liêu của gã công an khu vực. Ngay phần đầu chương ba “Hai lần thi trượt nhưng số phận vẫn mỉm cười với tôi”, ông kể lại: “... một chuyện có thật về chế độ thi cử, hay nói cách khác là cả nền giáo dục ấu trĩ, xem nặng tính giai cấp của chế độ Cộng sản ở miền Bắc. Di hại của nó không biết bao giờ mới hết”. Việc tác giả hai lần thi trượt, sau này may có ông Bảy Trân can thiệp, sự việc mới lộ ra. Bài của ông không được chấm vì gia đình thuộc thành phần tư sản: “Hồi ấy, chế độ phê chuẩn, chứng nhận lý lịch của thí sinh nộp đơn thi vào đại học do xã phê, không cho đương sự biết, rồi niêm phong gửi qua đường bưu điện đến phòng tổ chức của trường đại học mà thí sinh dự thi. Nhà trường nhận được lý lịch như vậy cũng không chấm bài thi, chỉ căn cứ vào thành phần gia đình tốt xấu của thí sinh mà xét cho đỗ hoặc trượt như tôi đã kể ở trên. Chế độ tuyển sinh vào đại học như thế kéo dài từ sau hòa bình năm 1954 không biết đến năm nào... Trường hợp của tôi là do may mắn đưa tôi vào gặp thầy hiệu phó mùa thi tuyển năm 1963 trường Đại học Sư phạm Hà Nội, tôi mới biết chế độ tuyển sinh rùng rợn và rừng rú này”. Cùng với lời kể khá chi tiết, Lê Phú Khải nhận xét: “Chủ nghĩa Marx - Lenin, với quan điểm giai cấp, đấu tranh trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội mới sinh ra cách tuyển sinh vào các trường đại học man rợ như thế. Nó lạc hậu hơn tất cả các hình thái xã hội từ trước đó. Kể cả thời phong kiến thì nhà nước cũng kén người tài giỏi, thi đạt bằng cấp cao mới được tuyển dụng vào bộ máy cai trị. Còn thời Cộng sản chỉ lựa chọn theo thành phần giai cấp. Chính vì thế mà dưới chế độ Cộng sản, tất cả sinh viên đại học sau khi tốt nghiệp được phân bổ về các cơ quan đảng, nhà nước ta, đa phần là những kẻ dốt nát. Bởi lẽ, cứ là thành phần bần cố nông, dân nghèo thành thị thì mới được vào đại học”.
Nói đến chế độ thi cử, Lê Phú Khải lại liên hệ đến gia đình mình để chứng minh tính ưu việt của nền giáo dục thời thuộc Pháp: “Tôi nhớ thời Pháp thuộc, bố tôi thi diplôme bốn năm liền không đỗ. Không đỗ là không đỗ, chẳng có chuyện chạy chọt xét thành phần gì cả. Ông nội tôi có thừa tiền cũng không thể chạy cho bố tôi được”. Từ sự kiện trên tác giả phân tích: “Chế độ thi cử xét thành phần giai cấp để tuyển chọn đã đào tạo ra đầy rẫy những công chức có bằng cấp nhưng dốt nát để quản lý xã hội ở các lĩnh vực. Sau này vào đại học tôi mới biết, sinh viên con cái các gia đình bần cố, thành phần nòng cốt ở nông thôn, học lực rất yếu, nhưng mỗi năm vẫn lên một lớp, vẫn tốt nghiệp ra trường trở thành thầy cô giáo dạy môn văn cấp 3. Có thầy cả đời không đọc hết một cuốn sách... Vậy mà các vị trí thức bần cố nông này lại rất vênh váo, rất tự hào và rất thỏa mãn với địa vị của mình. Thời bao cấp thì thi thành phần để lấy bằng cấp. Thời kinh tế thị trường định hướng XHCN ngày nay thì mua bán, đút lót để lấy bằng là chính, chứ không cần kiến thức. Vì thế cả bộ máy xã hội hoàn thiện sự dốt nát. Bộ máy cai trị đó đầy ghét bẩn nên nó không thể vận hành bình thường được. Kẻ dốt nát, khi có quyền, lại xuất thân từ thành phần nghèo khổ nên chỉ lo vơ vét”.
Theo dòng thời gian, sau khi tốt nghiệp, được phân cộng về nông thôn dạy học, chỉ với 9 năm đứng trên bục giảng, Lê Phú Khải đã nhận ra tình trạng bần cùng của người nông dân Đồng Bằng Bắc Bộ qua chính sách hợp tác hóa phiêu lưu của các nhà lãnh đạo cuồng tín: “...sống ngay trong nhà dân..., tôi có dịp gần gũi để tìm hiểu người nông dân Đồng Bằng Bắc Bộ. Tôi có thể rút ra những nhận xét, những dẫn chứng, những kết luận mà các nhà xã hội học... ở Hà Nội không bao giờ có được chỉ bằng những chuyến đi thực tế. Thứ nhất, với chính sách hợp tác hóa, ruộng đất bị đưa 95% vào làm ăn tập thể cha chung không ai khóc, người nông dân Đồng Bằng Bắc Bộ bị bần cùng hóa và nghèo khổ đến cùng cực”. Nhưng đấy mới chỉ là nhân họa. Một khi nhân họa song trùng với thiên tai thì tình cảnh còn khốn nạn hơn nhiều. Và đây là thảm cảnh đàn trâu của hợp tác xã vùng Cẩm Giàng vỡ đê Văn Thai trong trận lụt năm 1971: “Ấn tượng sâu đậm nhất với tất cả chúng tôi là tiếng kêu tuyệt vọng của đàn trâu trong huyện. Chúng cứ bơi, cứ bơi ngày này qua ngày khác đến khi kiệt sức thì chết nổi lên. Cả một vùng đồng bằng rộng lớn như Hải Dương lấy đâu ra một gò đất cao cho trâu trú chân. Đàn trâu cứ bơi, vừa bơi vừa kêu. Trong đêm khuya thanh vắng, tiếng kêu tuyệt vọng của bầy trâu mới ai oán làm sao. Ban đầu còn nghe tiếng kêu, sau thưa dần rồi im hẳn”.
Nghĩ về nền giáo dục Việt Nam, sau khi cung cấp cho bạn đọc những chuyện bi hài cười ra nước mắt, Lê Phú Khải chỉ ra căn bệnh trầm kha đã ăn sâu vào lục phủ ngũ tạng của các nhà quản lý sính thành tích: “Bệnh hình thức, hay nói cách khác, gọi đúng tên của nó là giả dối đã ngự trị trong lao động dạy học. Điều đáng nói là, chính những người lãnh đạo giáo dục ở các cấp, đã vì dốt nát và giả dối chấp nhận chủ nghĩa hình thức. Đối với môn văn thì lại càng nguy hiểm. Học sinh ngày càng chán học văn vì ngoại việc môn này bị chính trị hóa, còn một nguyên nhân rất quan trọng là sự lười biếng được khuyến khích ở thầy dạy văn”.
Việc học sinh thờ ơ với môn văn còn có nguyên nhân ở thái độ của Đảng đối với tầng lớp văn nghệ sĩ có thực tài, là tác giả của những tác phẩm văn học nổi tiếng, bị gạt ra khỏi sách giáo khoa của Bộ Giáo dục, hay nếu được “chiếu cố” thì phải chịu sự cắt xén cho vừa với “khẩu vị” của hệ thống “kiểm dịch”. Thơ Trần Đăng Khoa là trường hợp điển hình bị các nhà xuất bản sửa chữa trở thành tầm thường, dung tục, được Lê Phú Khải nhắc đến không chỉ một lần trong Lời ai điếu.
Để được đọc Trường ca giông bão, Lê Phú Khải phải về tận Nam Sách, Hải Dương tìm gặp Trần Đăng Khoa. Ông đọc bản thảo ngay trên bờ ruộng nơi thần đồng làng Điền Trì đang úp nơm cá: “Tôi ngồi xuống vệ cỏ đọc một mạch cho đến hết. Nó chẳng kém gì Iliad, Odysseus của Homer. Hơn 40 năm rồi, tôi vẫn còn nhớ mấy câu cuối cùng của bản trường ca đó: Ta nhất định thắng/ Vì đầu ta có nhiều lẽ phải/ Tay ta lấm láp phù sa. Khi về Hà Nội, gặp nhà báo Quang Đạm, Lê Phú Khải kể lại: “Tôi báo cáo với ông Quang Đạm về bản Trường ca giông bão, ông trầm lặng nói: Thiên tài! Thiên tài. Rồi ông chậm rãi nói tiếp, nhưng đảng ta tiết kiệm lắm! Tiết kiệm lắm! Tôi hiểu ý ông muốn nói là không có chuyện khen ai, nhất là một cậu bé như Trần Đăng Khoa... Sau đó không lâu, bài thơ được in trên các báo nhưng tên bài thơ đã được biên tập rất ngô nghê và vớ vẩn là Trường ca đánh Thần Hạn”.
Cũng như thông lệ, sau khi cung cấp cho bạn đọc “một nửa sự thật còn thiếu”, Lê Phú Khải lại bình luận, lời bình của ông sắc sảo và chính xác không chê vào đâu được: “Cách biên tập, sửa chữa để các tác phẩm văn học thời đó trước khi ra mắt bạn đọc của các tòa soạn báo là không để ai qua mặt được các cây đa cây đề như Tố Hữu, Chế Lan Viên, Xuân Diệu... Tố Hữu khi còn nhỏ đã viết trường ca đâu... mà một cậu bé con như Trần Đăng Khoa lại dám viết Trường ca giông bão? Nó chỉ có thể mang cái tên như một bài vè nôm na..., một kiểu kêu gọi người ta đi tát nước chống hạn mà thôi. Tôi nói điều này vì đã nhiều lần từng chứng kiển các kiểu biên tập vô liêm sỉ ấy của báo chí ngay từ những năm 60, 70 của thế kỷ trước”.
Cũng vẫn đề tài Trần Đăng Khoa, Lê Phú Khải còn vạch rõ, người ta cố tình chữa đi những câu chữ hay nhất trong bài Hạt gạo làng ta để “dìm” tác giả xuống: “Bài thơ Hạt gạo làng ta nổi tiếng của Khoa được ca ngợi, được Xuân Diệu hiệu đính, Trần Khiết Bình phổ nhạc vào năm 1971, đã được biên tập hạ thấp nó xuống. Phải nói là cố tình hạ thấp, cho dù người ta biết thừa, để nguyên văn thì tác giả lớn hơn nhiều. Hạ thấp nó để đúng với lập trường quan điểm của Đảng về văn nghệ XHCN không có bi kịch, không có nỗi buồn, không có cái đau. Khi bài Hạt gạo làng ta đăng báo nó như sau:
Hạt gạo làng ta
Có vị phù sa
Của sông Kinh Thầy
...
Có lời mẹ hát
Ngọt bùi hôm nay...
Nhưng trước đó, tôi đọc bài này trong bản thảo của Khoa như sau:
Hạt gạo làng ta
Có vị phù sa
Của sông Kinh Thầy
...
Có lời mẹ hát
Ngọt bùi đắng cay...
Chữ đắng cay đã được biên tập thành hôm nay, vậy là giết chết tác giả rồi. Từ một nghệ sĩ đích thực phát ngôn của tâm hồn nhân dân, Khoa trở thành kẻ minh họa tầm thường, mộ tay bồi bút chỉ biết véo von ca ngợi”.
Thế nhưng, trên đây mới chỉ là đoạn “mào đầu” của một quá trình. Chỉ sau khi rời bục giảng, về Đài Tiếng nói Việt Nam, Lê Phú Khải mới thực sự trải nghiệm nỗi gian truân của của kiếp “bút nô”. Nói vậy, nhưng nghề làm báo cũng có cái lợi là được đi nhiều, tiếp xúc với đủ hạng người, đủ thành phần xã hội trong khi tác nghiệp. Mặt khác, cũng qua nhiều kênh tiếp xúc, nhà báo còn được cung cấp những nguồn thông tin phi chính thống luôn được coi là “bí mật quốc gia” mà nhà cầm quyền không bao giờ muốn người dân được biết. Ông may mắn sở hữu một kho tư liệu vô cùng phong phú, đồng thời cũng tạo dựng được các mối quan hệ rộng rãi, đáng tin cậy, để sau này, viết về họ vì những kỷ niệm tốt đẹp giữa người với người trong một xã hội mà sự dối trá, lừa lọc được tôn vinh như một giá trị văn hóa.
Cũng có người nhận xét, Lời ai điếu là cuốn hồi ký của những phác thảo chân dung chính khách cộm cán trên chính trường từ khi Chủ nghĩa Cộng sản thắng thế trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Khi giành được thắng lợi, những người Cộng sản cai trị đất nước theo cách riêng của mình. Thành phần lãnh đạo được chọn lọc rất kỹ qua sự sàng lọc khắt khe của Ban Tổ chức Trung ương mà thành phần giai cấp là tiêu chí quan trọng nhất. Cho nền, hầu hết những nhà lãnh đạo đều là những kẻ vô học và cơ hội, thậm chí có nguồn gốc lưu manh trong các băng đảng tội phạm, bị tù tội, được các đảng viên Cộng sản “giác ngộ”. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến tình trạng lộng quyền, tham nhũng, tha hóa nhân cách. Tuy nhiên, với người Cộng sản, lừa bịp, dối trá lại là “nghệ thuật” lãnh đạo. Họ thường dùng tấm màn đỏ che giấu sự nhếch nhác, hủ bại nhằm giữ thể diện trước nhân dân và cộng đồng thế giới. Lê Phú Khải làm ngược lại. Ông tìm mọi cách tháo gỡ tấm màn lòe loẹt ấy, phơi bày trước bàn dân thiên hạ mặt thật của những kẻ đạo đức giả, vừa ngu dốt vừa kiêu ngạo, lúc nào cũng coi mình là trung tâm vũ trụ.
Sửa bởi người viết 27/06/2017 lúc 08:14:31(UTC)
| Lý do: Chưa rõ