Hai ngàn năm về trước, người Việt lập nước Văn Lang trên đồng bằng Bắc Việt và Thanh-Nghệ-Tĩnh, do các Tổ Hùng trị vì, với một nên van minh nhân bản, lấy nông nghiệp bình sản làm kinh tế chủ yếu, cuộc sống ấm no, đất trời an bình, chia mừng với giòng giống Lac-Hồng, qua tiếng hát lời ca thanh thoát tự do, trong âm vang của trống đồng Ngọc Lũ., khác nào những cung đàn ngàn điệu, sống mãi nơi hồn người :
' tiết trời thu lạnh lành lanh,
cỏ cây khóc hạ, hoa cành thương đông
bổng bồng bông, bổng bồng bong
võng đào mẹ bế, CON RỒNG CHÁU TIÊN '
(Ca Dao)
Nhưng rồi giặc Bắc xâm lấn với dã tâm đồng hóa Việt tộc thành Hán chũng, nên ngay từ buổi bình minh dựng nước tới nay, trãi suốt giòng sông lich sử sinh mệnh của dân tộc, tiền nhân ta đã không lúc nào ngừng nghĩ, chống lại quân Tàu bạo tàn, để tồn tại, mở nước thành một giãi non sông gấm vốc tuyệt vời, chạy từ Ải Nam Quan tới tận Mũi Cà Mâu thênh thang trời biển mà trong từng tấc đất đó, nơi nào hầu như, cũng đẳm đầy huyết lệ trùng trùng. Cho nên dù đã trải qua một ngàn năm bị Tàu đô hộ, gần thế kỷ sống dưới cùm gông của thực dân Pháp, dân tộc VN vẫn hiên ngang ngạo nghễ , thu hồi được nền độc lập và giữ vẹn lãnh thổ của tổ tiên mình. Nhưng hởi ôi vì oan khiên nghiệt ngã, nên VN lại chuốc lấy tai kiếp cọng sản, khiến cho đất nước mấy chục năm khói lửa triền miên, nhà tan cửa nát. Rốt cục cả nước lại ngoi ngóp thân phận nhục nghèo, lầm than khổ lạnh, trong vũng bùn nô lệ của xã nghĩa thiên đàng, đang lội ngược thời gian, bước vào con đường bán nước cho kẻ thù truyền kiếp Trung Cộng, như những Trần Thiểm Bình, Mạc Đăng Dung, Lê Chiêu Thống ..năm nào, mà bia đời không ngớt lao xao thóa mạ.
Năm Canh Ngọ (111 trước tây lịch) , Hán Vũ Đế xâm lăng Nam Việt và Tể tướng Lữ Gia đã mở đầu những trang huyết lệ, qua suốt chiều dài Việt sử, với hùng khí chói lọi của các nam nử anh hùng Trưng Triệu, Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung..Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Ung Chiếm, Bùi Hàng, Nguyễn Thái Học..và hằng vạn những người ái quốc. Tháng giêng mùa xuân năm Quý Mão (43 sau tây lịch), hai bà Trưng chống giặc Hán xâm lăng nước ta, bị thua nhảy xuống Hát Giang tự tận. Đất nước Lạc Hồng bị Tàu hoá và đô hộ, Mã Viện tịch thu toàn bộ đồng sắt của Giao Châu, trước khi về nước, cho đúc một trụ đồng cắm tại biên giới, trên có ghi ' Đồng Trụ Chiết, Giao Chỉ Diệt '. Theo các thư tịch cổ còn lưu lại ngày nay, ta biết không chỉ có Mã Việt dựng cột đồng để hù dọa dân Việt, mà còn các tướng Tàu khác cũng từng dựng cột đồng khi xâm lăng An Nam , như Mã Tổng Trương Chu, Hà Lý Quang, Mã Hy Phạm, Sở Vương..đều thuộc nhà Đường. Nhưng chính những áp bức bốc lột cùng cực, đã khiến cho người Việt bao đời đứng lên đạp đổ trụ đồng, đánh đuổi giặc Hán chạy về Tàu, mà khởi đầu là Ngô Vương Quyền đánh tan quân Nam Hán trên Bạch Đằng Giang vào năm Mậu Tuất (938 STL) .Đầu thế kỷ XV, lợi dụng Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần, giặc Minh được TrầnThiểm Bình dắt vào dầy mã tổ nhưng lần nửa , chúng lại bị Bình Định Vương Lê Lợi xóa tan mộng cướp chiếm đô hộ đồng hóa Đại Việt. Để bớt bẽ bàng tủi nhục, người Tàu lại khơi dậy đống tro tàn của 10 thế kỷ Bắc thuộc :
' Đồng trụ chi kim đài dĩ lục ? (cột đồng đến nay rêu còn xanh ?)
Người Việt đã trả lời : Đằng giang tự cổ huyết do hồng (Sông Đằng từ xưa máu vẫn đỏ).
Nhưng cột đồng bia đá của giặc Tàu, tưởng đâu qua thời gian sẽ vĩnh cưu biến mất trên non sông đất Việt, thì lần nửa đảng VC luôn trãi chiếu rước giặc Tàu vào cõi, mà mới nhất là chuyến tuần thú phương Nam của Hoàng Để Tập Cận Bình, hứa hẹn những cột đồng Mã Việt tân thời, không phải chỉ cắm ở trong biên giới Hoa-Việt, làm mất Hoàng-Trường Sa, Bản Giốc, Ải Nam Quan, Hang Pắc Pó..mà tới tận Hà Tiên, Phú Quốc, biển Đông, bởi vì VN ngày nay, đâu có khác nào một quận huyện của Trung Cộng ?
1-CỔ SỬ :
- Nhâm Tuất (542 sau tây lich - STL) , Lương Võ Đế xâm lăng Giao Châu, bị Lý Bôn đánh tan.
- Nhâm Tuất (602) , Nhà Tùy sai tướng Lưu Phương đem 27 lộ quân sang xâm lấn Giao Châu, Lý Phật Tử, kẻ đã cướp ngôi vua của Triệu Quag Phục, mở thành đầu hàng, khiến nước ta lại chịu thêm ách đô hộ của giặc Tàu hơn 336 năm nửa.
- Nhâm Tuất (722), Mai Thúc Loan lại lãnh đạo dân chúng Giao Châu đứng lên chống giặc Tàu thàm tàn bạo ngược, bắt dân Việt đang bị nô lệ, lên rừng tìm sừng tê giác ngà voi,xuống biển mò ngọc trai,để chúng vơ vét đem về nước. Ông chiếm được Hoan Châu (Nghệ An), xây thành đắp lũy quyết lòng giải phóng quê hương, sử ông ông là Mai Hắc Đế.
- Mậu Tuất (938), Ngô Vương Quyền Đại Đế đã oanh liệt chiến thắng quân Nam Hán trên Bạch Đằng Giang, chém đầu thái tử Hoằng Thao rụng giữa giòng nước bạc,khôi phục lại huyết thống của nòi giống Hồng Lạc,chấm dứt 10 thế kỷ nô lệ giặc Tàu, mở đầu cho nền độc lập tự chủ của Đại Việt, qua các triều đại Ngô, Đinh, Lý, Trần, Lê, Nguyễn..Cũng từ đó hai tiếng Bạch Đằng đã khắc sâu vào tận cùng tâm thức muôn đời của người Việt như Phạm Sư Mạnh hết lời ca ngơi và tự hào ' Vũ trụ kỳ quan Dương cốc nhật, giang sơn vượng khí Bạch Đằng thâu '.
- Canh Tuất (1010), vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra thành Đại La, nhân nằm mộng thấy rồng vàng xuất hiện, nên cải tên là Thăng Long (Hà Nội ngày nay), cũng năm đó vua cho xây tám ngôi chùa lớn khắp nước, Phật giáo trỡ thành quốc giáo.
-Mậu Tuất (1058), vua Lý Thánh Tôn cho xây cac điện Linh Quang, Kiến Lễ, Sùng Nghi và tháp Trường Long.
- Canh Tuất (1070) vua Lý Nhân Tôn lập Văn miếu, đắp tượng Khổng Tử, Chu Công cùng tứ phối là Nhan Hồi, Tăng Sâm, Tử Tư và Mạnh Tử. Đồng thời vẽ hình 72 người hiền, bốn mùa cúng tế. Đây cũng là nơi các hoàng tử tới học văn đạo lễ nghĩa, trước khi Quốc Tử Giám ra đời năm 1076.
- Nhâm Tuất (1262) Sau khi đánh đuổi giặc Nguyên-Mông ra khỏi bờ cõi Dại Việt lần thứ nhất, vua Trần Thái Tông (Trần Cảnh) nhuờng ngôi cho Trần Thánh Tông, lui về chùa Phổ Ninh ở phủ Thiên Trường làm Thái thượng hoàng. Ngài đồng thời cũng là một cao tăng của Phật giáo, đệ tử của quốc sư Trúc Lâm (Phù Vân), còn để lại nhiều kinh sách và một bài kệ triết lý sâu sắc ' Lưỡi vuớng vị ngon, tai vướng tiếng - Mắt theo hình sắc, mũi theo hương - Lênh đênh làm khách, phong trần mãi - Ngày hết quê xa, vạn đặm đường '.
- Giáp Tuất (1334) , thượng hoàng Trần Minh Tông cùng Nguyễn Trung Ngạn, ngự giá thân chinh dẹp yên giặc Lào và Ngưu Hống ở Thanh Hóa. Trong triều, quốc sư Huyền Quang, trải qua các đời vua Nhân Tông - Minh Tông tạ thế, thọ 77 tuổi. Ngài đồng thời cũng là Tổ thứ ba của Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử, nên được vua ban chức ' Trúc Lâm đệ tam đại tư pháp tôn giả ', đã để lại nhiều thơ văn với ý tưởng cao đẹp, siêu thoát.
- Mậu Tuất (1358) vua Trần Dụ Tông tham tàn bạo ngược, xây cất cung điện nguy nga, ăn chơi tráctáng, làm cho dân chúng lầm than nên giặc giã nổi lên khắp nơi. Chu văn An dâng sớ xin chém đầu bảy tên nịnh thần nhưng vua không nghe theo, nên từ quan về ẩn tại Chí linh.
- Nhâm Tuấ t (1382) ,quân Chiêm vào đánh phá kinh thành Thăng Long, bị hai tướng Lê Quý Ly và Nguyễn Danh Phương đánh đuổi chạy về Nghệ An.
- Bính Tuất (1406) giặc Minh lấy cớ đưa Trần Thiểm Bình về nước làm lại vua nhà Trần, để mong cướp chiếm nước ta, nhưng bị quân Nhà Hồ đánh tan, giết tên Việt gian cỏng rắn cắn gà nhà. Lập tức Minh Thành Tổ xua 20 vạn quân, lấy cớ ' phù Trần diệt Hồ ', xâm lăng Đại Việt. Vì không được lòng dân,nên Hồ Quí Ly dù là một thiên tài lúc đó, cha con cũng bị giặc bắt đưa về Yên Kinh. Nước ta lại rơi vào gông tù nô lệ của Hán tộc suốt 10 năm, chịu ngàn năm đắng cay khổ nhục , dưới sự cai trị tham tàn của những tên thái thú nhà Minh như Trưong Phụ, Mộc Thạnh..
- Mậu Tuất (1418) nước ta thời Minh thuộc, bị hai tên quan văn là Hà Thanh và Hà Thi, tịch thu tất cả sách vở trân quý của Đại Việt, từ thời lập quốc tới nhà Hồ, mang hết vài nước. Đồng thời giặc Minh đem các sách của Nho gia vào nước Nam, cưởng bách người Việt phải học. Hậu quả Đại Việt từ thời Hậu Lê tới khi bị thực dân Pháp xâm chiếm, VN phải chịu ách nô dịch văn hóa và tư tưởng của phương bắc.
- Bình Định Vương Lê Lợi nhờ có Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hản phò tá, cùng sự ủng hộ của toàn dân, nên đã khởi nghĩa tại Lam Sơn (Thanh Hóa) , và chì trong 10 năm đã đanh đuổi được giặc Minh ra khỏi nước, thu hồi lãnh thổ và nền độc lập tự chủ lại cho Dân tộc Việt.
- Nhâm Tuất (1442) vua Lê Thai Tôn cho mở khoa thi tiến sĩ và khắc tên nững người thi đổ vào các bia đá tại văn miếu ở Thăng Long. Dồng thời Quốc Tử Giám cũng được nâng lên như một trường đại học ngày nay. Hiện di tích văn miếu-quốc tử giám vẫn còn tồn tại trên một diện tích 55.027m2,với các khu hồ van, vườn gím và nội tự, chung quanh có tường gạch bao bọc.
- Tháng 7 vua đi duyệt binh ở Chí Linh, ngủ đêm tại huyệm trạm Gia Định (Kinh Bắc) và chết bất đắc kỳ tử trong đêm đó, gây nên cái án Lệ chi viên - Nguyễn Thị Lộ, làm cho đệ nhât công thần Nguyễn Trãi bị chém đầu và toàn gia chịu tội tru di tam tộc. Sau khi Đại Đế Lê Thánh Tôn lên ngôi vua, ngài đã minh oan, xá tội và phục hồi quan chức danh dự lại cho Nguyễm Trãi. Nhở vậy hậu thế mới có được danh tướng Nguyễn Hửu Dật và nhất là Nguyễn Hữu Cảnh, trên đường Nam tiến, đã mở nước tới tận Hà Tiên ngày nay.
- Mậu Tuất (1658) Trinh Nguyễn phân tranh lần thứ năm, tại Tuân Lễ, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. - Vua Chân Lạp mất, con cái tranh dành ngôi vua chạy sang cầu cứu Nam hà. Hiền vương Nguyễn Phúc Tần sai tướng đem 3000 quân vào đất Chân Lạp, bắt được Nặc Chân tại Mõi Xùy (Biên Hòa) giải về giam tại Quảng Bình rồi tha, khiên cho người Miên hòa hiếu và chịu cho dân Việt từ Ngũ Quãng vào khai khẩn đất hoang tại miền Thủy Chân Lạp.
- Nhâm Tuất (1682) Thiền sư Hương Hải nguyên là tri phủ Triệu Phong, từ quan xuất gia, được chúa Nguyễ n Phúc Tần cho trụ trì tại Thiền Tĩnh Viện,trên núi Qui Kinh (Thuận Hóa), nơi này sau đó trở thành trung tâm cũa Phật giáo Nam Hà. Năm 1862 thiền sư rời chùa, chu du Đàng Ngoài được chúa Trịnh vời ở lại đất Bắc trụ trì, để giảng các kinh sách Phật.
- Giáp Tuất (1694) , một người Hoa tên A Ban xúi giục người Chàm tại Thuận Thành Trấn làm phản. Vì vậy chúa Nguyễn Phúc Chu cử thống suất Nguyễn Hửu Cảnh từ Quảng Bình vào đánh dẹp. Sau đó trấn Thuận Thành cũng bị bỏ và trở thành tỉnh Bình Thuận từ năm 1697.
- Mậu Tuất (1718) đời vua Lê Dụ Tông, ở Đàng Ngoài, chúa Trịnh Cương đặt lục phiên tại Phủ Chúa và lục bộ ở đềnVua, để cùng nhau lo chính sự.
- Canh Tuất (1730) ở Đàng Ngoài, chúa Trinh trùng tu lại chùa Quỳnh Lâm và Sùng Nghiêm.
- Giáp Tuất (1754) tại Bắc Hà, chúa Trịnh Doanh nghiêm cấm dân chúng không được tin theo Thiên Chúa giáo, đồng thời ban lệnh bắt giết các giáo sĩ tây phương tới truyền giảng đạo.
- Mậu Tuất (1778) Nguyễn Nhạc sau khi chiếm được Nam Hà của chúa Nguyễn, tự xưng Thái Đức hoàng đế, gọi thành Đồ Bàn ở Bình Định là hoàng đề thành, phong Nguyễn Huệ làm Long Nhửng tướng quân, còn Nguyễn Lữ là Tiết Chế.
- Canh Tuất (1790) Sau khi Quang Trung Nguyễn Huệ đánh tan mấy chục vạn quân Thanh vào những ngày Tết Kỹ Dậu (1789), Lê Chiêu Thống cùng đoàn tùy tùng chạy theo Tôn Sĩ Nghị và đám tàn quân về Yên Kinh, lạy lục Càn Long cho quân giúp mình, trở lại dành ngôi vua với Nguyễn Huệ. Nhưng Thống bị vua Tàu làm nhục, bắt hết các quan hộ giá vua Lê, đầy đi khắp xứ, còn Lê Chiêu Thống được hàm tam phẩm.Buồn rầu tủi nhục, vua chết trên đất Tàu nhưng để lại tiếng xấu ngàn đời trong sử Việt.
2- CẬN SỬ :
- Nhâm Tuất (1802) tháng 2, vua Tây Sơn Nguyễn Quang Thùy tiến đánh lủy Trấn Ninh nhưng đại bại phải rút quân chạy ra Bắc. Tháng 3, vợ chồng Trần Quang Diệu - Bùi thị Xuân cũng bỏ thành Qui Nhơn chạy theo vua , nha Tạy Sơn coi như mất từ đó. Theo Đại Nam thực lục chính biên, Đại Nam chính biên liệt truyện, thì năm 1802, khi thâu hồi được thành Thăng Long, thống nhất đất nước, chúa Nguyễn Ánh định đô ở thành Phú Xuân (Huế), muà hạ tháng 5, ngày mồng một Canh Ngọ, lập đàn ở đồng An Ninh hợp tế trời đất, cáo việc đặt niên hiệu Gia Long, sau đó tại điện mới chính thức nhận chúc mừng của trăm quan và ban lệnh đại xá thiên hạ. Tóm lại năm Giáp Tuất (1802) chúa Nguyễn Ánh mới xưng đế hiệu Gia Long, năm 1804 dựng quốc hiệu Việt Nam và chính thức lên ngôi Hoàng đế Đại Nam, mở đầu cho Triều Nguyễn (1802-1945)..
- Bính Tuất (1826) vua Minh Mạng sửa lại chùa Thanh Duyên. Trong năm đó, hoàng đế Pháp sai cháu của Chaigneau là người đã giúp chúa Nguyễn Ánh phục quốc , sang làm Lãnh sự Pháp tại VN nhưng bị vua từ chối, lý do là nước Nam không muốn gây hiềm khích với người Anh, giữa lúc hai nước Anh-Pháp đang xung đột.
- Mậu Tuất (1838) vì sự có mặt của giáo sĩ P.Marchaud (linh mục Du) trong thành Gia Định , khi Lê văn Khôi , con nuôi Lê Van Duyệt đã tạo phản chống lại triều đình, nên vua nổi giận, ra lệnh giết hết giáo sĩ, giáo dân và triệt để cấm đạo Thiên Chúa.. Đồng lúc Minh Mạng sai xứ sang Pháp yêu cầu đừng cho người đế giảng và truyền đạo tại VN nhưng bị từ chối.
- Canh Tuất (1850) vua Tự Đức bổ nhiệm Nguyễn Tri Phương làm kinh lược sứ Nam Kỳ, Phan Thanh Giảm làm kinh lược sứ từ Bình Thuận tới Bình Đinh và Nguyễn Đăng Giai làm kinh lược sứ từ Hà Tĩnh ra Thanh Hoá, để thanh tra quan lại, duyệt xét dân tình.
- Nhâm Tuất (1862) tình hình cả nước vô cùng biến động, ỡ Bắc Hà giặc giã nổi lên khắp nơi như giặc cờ vàng (Nguyễn văn Thịnh), giặc Tàu Ô của Tạ văn Phụng, thêm bọn cướp Nguyễn Trường Thạc, Lý Hợp Thắng..quân lính nhà Nguyễn phải đánh dẹp vất vã mới yên.Trong lúc đó tại Nam Kỳ, quân Pháp và Tây Ban Nha, tuy đã đánh chiếm ba tỉnh miền đông là Bà Rịa, Biên Hòa và Gia Định nhưng đã bị quân dân miền Nam tiêu diệt hơn 200 tên, dù chúng có vũ khí tối tân, tàu chiến súng đại bác. Rồi giữa lúc quân lính còn đang chiến đấu với giặc nơi trận tiền, thì trong triều đình vua Tự Đức ngả theo phe chủ hòa do Phan Thanh Giản chủ xướng , ký hòa ước Giáp Thân (1862) nhường đứt cho giặc ba tỉnh trên. Vì vậy dân chúng Nam Kỳ không ai là không phẩn uât sự hèn kém của triếu đình và nổi gia vong quốc phá ' nên đã kết tội PhanThanh Giản và Triều đình Huế , mà ngày nay dân gian vẫn còn truyền tụng câu ca dao bất hủ ' Phan Lâm phản quốc, Triều đình khi dân '.
- Giáp Tuất (1874) , để đòi lại các tỉnh miền Bắc vừa bị thực dân Pháp chiếm đoạt, vua Tự Đức lại phải ký với giặc thêm một hòa ước 1874 bất công nhục nhã, chỉ có lợi cho Pháp mà thôi. Hòa ước này do Nguyễn Văn Tường và Philastre ký, theo đó VN phải nhượng hẳn cho thực dân Nam Kỳ, đồng thời còn phải mở thêm hải cảng Hải Phòng, Qui Nhơn và thương cảng Hà Nội cho Pháp. Tóm lại Bắc Kỳ gần như là thuộc địa của Pháp, tất cả mọi vấn đề từ tín ngưởng, tôn giáo, kinh tế tới chính trị đều nhượng bộ cho giặc. Đã vậy còn đòi phải được đặt thêm Toà khâm sứ canh Triều đình Huế, để xen vào nội bộ VN.
- Theo Hòa ước 1874 và được chính thức thi hành khi Đồng Khánh được Pháp lập làm vua bù nhìn năm 1885, sau khi vua Hàm Nghi xuất bôn khởi động phong trào Cần Vương cứu nước. Cũng từ đó Đại Nam (VN) bị Pháp cắt thanh ba miền riêng biệt, Nam Kỳ gọi là Cochinchine, là thuộc địa từ năm 1874, bị Pháp trực tiêp cai trị bằng chín sách đồng hóa, cầm đầu là Thống đốc, còn tỉnh có Tham biện, đều là Pháp. Chỉ ở cấp quận, xã, thôn mới giao cho người Việt . Bắc Kỳ hay Tonkin trên giấy tờ của Triều đình Huế nhưng mặt thật cũng thuộc Pháp với chính sách nửa thuộc địa, nửa bảo hộ, do Thống sứ cầm đầu và các Công sứ đầu tỉnh, bên cạnh ' Khâm sai kinh lược sứ ' bù nhìn nhà Nguyễn, đóng tại Hà Nội. Còn Trung Kỳ hay An Nam hoàn toàn là xứ bảo hộ.Vua quan nhà Nguyễn từ Đồng Khánh tới Bảo Đại (1885-1945) chỉ còn là bù nhìn mà thôi.
- 1874 trường Tabert cũa Giáo hội Thiên Chúa , nhờ trợ cấp ngân quỹ Dông Dương, khai giảng tai Sài Gòn và bị đóng cửa khi VC chiếm Miền Nam vào ngày 30-4-1975.
- 1874 Pháp lập Collège des stagiaires tại Sài Gòn, đây là tiền thân của trường Thuộc điạ Pháp, bị đóng cửa năm 1878, dời về Pháp. Nguyễn Tất Thành tức Hồ Chí Minh, năm 1911 sang Pháp, đã nộp đơn xin nhập học nhưng bị bác đơn vì hội đủ điều kiện qui định.
- Bính Tuất (1886) sau khi kinh thành Huế thất thủ vào cuộc binh biến năm Ất Dậu (1885),, vua Hàm Nghi chạy ra Tân Sở Quảng Trị, lập chiến khu, xuống chiếu cần vương, kêu gọi sĩ phu yêu nước đồng tâm đứng lên chống giặc thù và triều đình bù nhìn Huế . Lời kêu gọi của vua đã được toàn dân ba kỳ hưởng ứng như Mai Xuân Thưởng, Lê Trung Đình, Lê Trực, Phan Đình Phùng, Đinh Công Tráng, Đề Thám, Nguyễn Thiện Thuật..
- Tại Thanh Hóa, nghĩa quân cần vương lập thành lũy chống Pháp từ Tam Cao tới Ba Đình, chạy dọc theo dãy Hồng Sơn hơn 50 km. Trong số này lũy Ba Đình của Đinh Công Tráng, xây trên ba làng Mỹ Khê, Mậu Thịnh và Thượng Thọ là kiên cố nhất.. Để đánh dẹp nghĩa quân, Pháp giao cho Đại tá Metzinser tổng chỉ huy nhiều tiểu đoàn lình Lê Dương tại Huế` và Hà Nội, tới Thanh Hóa tân công chiến lũy Ba Đình của Đinh Công Tráng nhưng bị thất bại. Cuối cùng thực dân phải xử dụng các việt gian chó săn Hoàng Cao Khải, Lê Hoan, Nguyễn Thân và Trần Bá Lộc , hợp sức với lính Tây mời tiêu diệt được Ba Đình.
- Pháp lập ra các hội đồng hàng tỉnh ở Bắc Kỳ để giải quyết các vấn đề thuế má bản địa.
- Năm 1886 phó tổng binh thành Hà Nội là Lê Công Chất, thừa lệnh vua Hàm Nghi bí mật tới Thất Sơn-An Giang chiêu dụ nghĩa quân , lập căn cứ chống Pháp , khiến giặc phải đem phần lớn lực lượng viễn chinh tại Nam Kỳ tới chiên khu đánh dẹp. Lê Công Chất bị giặc bắt và lưu đày ra Phú Quốc..Nhưng sau đó Ông đã vượt ngục và trốn ra Bình Thuận, cùng với các anh hùng Tống Hưng Nho, Nguyễn Đăng Giai ..tiếp tục chống thực dân Pháp tới 1-1984 mới bị tan rã vì Việt gian nằm vùng tố cáo và đâm sau lưng nghĩa binh.
- Mậu Tuất (1898) Thực dân Pháp lập cơ quan tài chánh liên bang gọi là Tổng Ngân Sách Đông Dương, để trực thu ba loại thuế quan trọng là thuốc phiện, rượuvà muối, đồng thời qui định chỉ cho liên bang xử dụng thứ thiế công quản này mà thôi.
- Toàn quyền Pháp ép vua Thành Thái ký đạo dụ trao quyền thâu thuế tại Trung Kỳ cho Pháp, sau đó phát lương năm cho vua và hoàng gia.
- Toàn quyền Doumer mở thiết lộ trên bán đảo Đông Dương..
- tháng 6/1898, khánh thành Hải đăng Hòn Dấu, một đảo nhỏ có diện tích chừng 0,7km2 cách Đồ Sơn (Hải Phòng) chừng 0,5 hải lý. Hải đăng có tên trong hải đồ quốc tế tại vĩ độ bắc 20 độ 40' 02” và kinh độ đông 106 độ 48'24”. Ngày 27-4-1967 Mỹ dôi bom làm xập hải đăng và được xây lại trên nền củ cùng với kiến trúc Pháp và hoạt động trở lại vào ngày 1-9-1995.
- Năm Canh Tuất (1910) Nguyễn Sinh Sắc (Huy) , cha Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh) đang làm tri huyện Bình Khê, Bình Định, thì bị triều đình cách chức vì say rượu đánh chết phạm nhân. Từ đó Sắc bỏ xứ lưu lạc vào Hàm Tân (Bình Thuận), Sài Gòn và trôi nổi khắp miền tây, sống nghề bói toán và bốc thuốc. Ngày 20-11-1929 Sắc bệnh chết tại nhà Năm Giáo, bên cạnh rạch Cái Tôm, quận Cao Lãnh.
- 1910 vì cha không còn làm quan nửa, nên Nguyễn Tất Thành cũng từ Bình Định vào Bình Thuận và nhờ Trương Gia Mô, Hồ Tá Bang giúp vào dạy tại trường tư thục Dục Thanh, Phan Thiết do các con của Nguyễn Thông mở . Có điều không ai có thể xác nhận Thành dạy gì và dạy trong bao lâu ở đây, vì năm 1911 Thành đã xuống tàu buôn, xin làm bồi và sang Pháp.
- 1910 Phan Chu Trinh được toàn quyền Đông Dương Klobukowski tái xét bản án và tha bổng, nên ông được đưa từ Côn Đảo về an trí tại Mỹ Tho, sau đó được cho phép sang Pháp để chửa bệnh cho con là Phan châu Dật.
- 1910 Để đổi chác quyền lợi với thực dân Pháp trên đất Tàu, Nhật ra lệnh trục xuất hết tất cả thanh niên VN trong phon trào Đông Du tại đây, cả Kỳ ngoại hầu Cường Để và Phan Bội Châu cũng phải rời Đông Kinh sang Trung Hoa.
- Nhâm Tuất (1922) Chỉ riêng VN, thực dân Pháp đã vơ vét được một tài sản khổng lồ, về quan thuế 11.771.000 phật lăng, thuế công quản 45.732.000 phật lăng, thế trước bạ 2.969.000 phật lăng và bán tem bưu điện 1.766.000 phật lăng..
- 1922 Công đoàn liên thuộc địa Pháp (đảng cọng sản) xuất bản tờ Le Paria (Người Cùng Khổ ) với 1000 ấn bản , Nguyễn Ái Quốc phụ trách phát hành , chứ không hề viết bài. Tháng 11-1922 Quốc lên chức Phó bí thư công đoàn liên thuộc địa.
- 1922 Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy, con Khải Định, sinh ngày 22-10-1913 (tức 23.9 Quý Sửu) , lên ngôi vua xưng đế hiệu Bảo Đại, lúc 13 tuổi. Sau đó nhân sang Pháp dự Hội chợ đấu xảo,Khải Định dắt Vĩnh Thụy sang Pháp nhờ nguyên Khâm sứ Trung Kỳ là vợ chồng Charles nuôi dạy theo nền giáo dục Âu Tây. Năm 1925 Khải Định băng hà, Bảo Đại về nước làm vua.
- Ngày 15/7/1922 tại Hội chợ, Phan Châu Trinh công bố ' Thất Điều Thư ' viết bằng chữ Hán, hạch tội vua Khải Định và triều đình Huế
- Giáp Tuất (1934) Nguyễn Ái Quốc được Liên Xô cho vào học trường Quốc Tế Cọng Sản Lenin, qua bí danh Linov. Đây là nơi chỉ dành huấn luyện các cấp lãnh đạo đảng cọng sản khắp thế giới, thành lâp từ năm 1926.
- Đầu tháng 1/1934 Toàn quyền Đông Dương Pasquier , người chủ trương kế hoạch ' đại cải cách' triều đình Huế, đột nhiên qua đời. Vua Bảo Đại kết hôn với Nam Phương Hoàng Hậu vào ngày 20-3-1934, tên thật Marie-Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan, sinh 4-12-1914 tại Mỷ Tho, con Nguyễn Hữu Hào, đã du học Pháp 1927-1932.
- 1934 đảng cọng sản Đông Dương hải ngoại, dơi về Ma Cau (nhượng địa của Bồ Đào Nha tại Quảng Đng), với thành phần lãnh đạo Hà Huy Tập (tổng bí thu, Lê Hồng Phong, Lê Thiết Hùng, Bùi Hải Thiệu, Nguyễn Thị Minh Khai (cô Duy), Hoàng văn Hoan, Hoàng Sầm..
- 1934 trong nước, cán bộ cọng sản bắt đầu hoạt động ở Thất Khê (Lạng Sơn), tuyên truyền trong các bản làng của đồng bào thiểu số miền Bắc, kết nạp được Chu văn Tấn (Nùng )và Lê Quảng Ba (Thổ)..