logo
Men for what watch? Watch, watch and call. A tool that is used for timing on breitling replica the wrist. Men wear watches what kind, starting from the basic color and size, have their own right watches, you can follow the watch's color, shape, value, occasions to carefully match their own clothing. For the choice of rolex replica a watch, the first to look at and their identity are consistent with a rural old people wear watches, a bit unrealistic, even if there is, it would have been too ostentatious. A Multi Millionaire owner, wearing a few hundred dollars of high imitation table also lost their identity, and even make friends on their own business is not good. In the formal social occasions, watches are often regarded as jewelry, for usually only ring a jewelry can be worn by rolex replica uk men is respected. Some people even stressed that: "the watch is not only a man's jewelry, but also men's most important jewelry." In western countries, watches, pens, lighters was once known as adult men "three treasures", is every man even for a moment can not be away from the body.

Chào mừng các bạn! Mong bạn Đăng nhập. Xin lỗi bạn, tạm dừng việc đăng ký mới.►Nhấn hình ảnh nhỏ sẽ hiện ảnh lớn ‹(•¿•)›

Thông báo

Icon
Error

Tùy chọn
Xem bài viết cuối Go to first unread
song  
#1 Đã gửi : 04/02/2018 lúc 10:16:32(UTC)
song

Danh hiệu: Moderate

Nhóm: Registered
Gia nhập: 21-02-2012(UTC)
Bài viết: 24,685

Cảm ơn: 1 lần
Được cảm ơn: 2 lần trong 2 bài viết
Toàn thể dân Việt đang bước vào thời điểm tưởng niệm 50 năm biến cố Tết Mậu Thân (1968-2018). Đây là sự kiện thuộc hạng đáng ghi nhớ nhất trong Việt sử vì nhiều mối liên hệ: ý nghĩa thiêng liêng của ngày Tết dân tộc, cuộc tấn công của Cộng sản VN bất chấp tuyên bố hưu chiến, sự thất bại thảm hại của cuộc tổng tấn công về mặt quân sự và chính trị, tội ác đã gây ra cho chính Đồng bào Việt Nam, thái độ cố chấp của Cộng sản không nhìn nhận sai phạm của họ, dù đã nửa thế kỷ.


1- Trước hết, xin nhắc lại những thời điểm then chốt: Ngày 19-10-1967, nhà cầm quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của Hồ Chí Minh long trọng tuyên bố: vào dịp Tết Mậu Thân, miền Bắc Việt Nam tự nguyện ngưng bắn từ 27-01 đến 03-02-1968 (tức 28 tháng Chạp đến 05 tháng Giêng Mậu Thân, 8 ngày). Ngày 17-11-1967, tới lượt Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam - tổ chức chính trị mà trên danh nghĩa điều hành và chịu trách nhiệm toàn bộ hoạt động “giải phóng miền Nam” nhưng thực chất chỉ là công cụ của Hà Nội - long trọng đưa ra tuyên bố tương tự.


Chính quyền Việt Nam Cộng hòa dưới sự lãnh đạo của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu dè dặt hơn nên mãi đến ngày 16-12-1967 mới tuyên bố cũng tự nguyện ngừng bắn từ 30-01 đến 01-02-1968 (3 ngày, mồng 1 đến mồng 3 Tết Mậu Thân). Sau tuyên bố vừa kể, đa phần quân nhân Quân lực Việt Nam Cộng hòa được nghỉ phép ăn Tết, lệnh giới nghiêm trên toàn miền Nam được bãi bỏ…


Thế nhưng đêm 29 rạng ngày 30-01-1968 - đúng thời điểm Giao thừa âm lịch - nhiều đơn vị quân đội và du kích Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lẫn Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam các tỉnh từ Quảng Nam đến Khánh Hoà đồng loạt nổ súng, mở đầu cái gọi là cuộc “Tổng công kích - Tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân 1968”; ở các chiến trường còn lại - do hiểu khác - đã khởi chiến đúng vào đêm 30 rạng ngày 31 tháng 1 năm 1968 (tức đêm 1 tết theo lịch miền Nam). Và chỉ trong vòng 2 ngày, chúng đã tiến vào 41 thành phố, thị xã, 72 quận lỵ, kể cả thủ đô Sài Gòn và cố đô Huế, nghĩa là đánh vào các khu dân cư. Cả miền Nam, từ chính quyền đến dân chúng đều choáng váng trước kiểu “tự nguyện ngừng bắn” này của Việt cộng.


Choáng váng là phải, vì Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đến nay đều xem Tết có một ý nghĩa vô cùng thiêng liêng. Bởi lẽ đó không những là thời điểm năm cũ chuyển sang năm mới theo định luật của trời đất, nhưng quan trọng hơn, trong văn hóa dân tộc, đó là thời gian dành cho đoàn tụ gia đình, yêu thương hòa giải, cầu mong an lành cho nhau và hy vọng tương lai tốt đẹp. Đó là lúc người ta đốt nén hương dâng lên tổ tiên và những người đã khuất trong niềm tưởng nhớ các kỷ niệm và lời giáo huấn; đó là lúc cha mẹ con cái sum vầy trong tinh thần xí xóa chuyện cũ, sống giây phút hiện tại cách đầm ấm, bên những thức ăn ngon lành và ý nghĩa hay qua những trò vui mang bản sắc văn hóa dân tộc; đó là lúc mọi người cầu chúc cho nhau và hứa hẹn với nhau những điều tốt đẹp trong 365 ngày sắp tới. Thế nhưng, lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc và lịch sử bao cuộc chiến tranh trên đất nước, Việt cộng đã tung ra một cuộc tấn công những người cùng da vàng máu đỏ tại các khu vực cư dân đông đúc vào chính những giờ khắc linh thiêng nầy. Tiếng pháo đã chen lẫn tiếng súng! Rượu hồng đã hòa vào máu đỏ! Bánh tét đã trộn lẫn với thịt người!


2- Nhằm kỷ niệm 50 năm biến cố ấy, đảng và nhà nước VC đã làm lễ ăn mừng sáng ngày 31 tháng 01 tại Hội trường Thống nhất, thành Hồ, với chủ đề “Bản hùng ca Xuân Mậu Thân 1968”. Trước đó họ đã đồng loạt tổ chức “Hội thảo khoa học cấp quốc gia” với đề tài “Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 - Bước ngoặt quyết định và bài học lịch sử”, và tung ra 2 bài viết ca tụng cái gọi là “chiến thắng” trong chiến dịch này của Chủ tịch nước VC Trần Đại Quang và của Bộ trưởng Quốc phòng Ngô Xuân Lịch.


Mục đích của Hội thảo được Thượng tướng VC Lê Chiêm, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, xác định: “Góp phần tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang (LLVT) và nhân dân, nhất là thế hệ trẻ phát huy truyền thống cách mạng, hun đúc tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội (CNXH), lòng tự hào, tự tôn dân tộc, truyền thống đại đoàn kết trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Dĩ nhiên đó chỉ là tuyên truyền xuyên tạc và nhồi sọ!


Tại cuộc Hội thảo do Bộ Quốc phòng, Ban Tuyên giáo Trung ương và Thành ủy HCM phối hợp tổ chức ngày 29-12-2017 tại Sài Gòn, nơi có các mục tiêu quan trọng bị tấn công như Dinh Độc Lập, Tòa Đại sứ Mỹ và Đài Phát thanh Sài Gòn, các diễn giả đã tận lực khoe khoang cho cái gọi là “giá trị của cuộc tổng tiến công và nổi dậy; khẳng định chủ trương đúng đắn, sáng suốt của Trung ương Đảng và Chủ tịch HCM; tái hiện diễn biến và những nét độc đáo của nghệ thuật quân sự Việt Nam trong cuộc tổng tiến công, trình độ chỉ huy, khả năng cơ động và phối hợp chiến đấu giữa các lực lượng trên chiến trường miền Nam…”. Ngô Xuân Lịch thì huênh hoang nhận định: “Thắng lợi của Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã khẳng định sự phát triển cao của nghệ thuật quân sự Việt Nam; đặc biệt là nghệ thuật nắm bắt thời cơ chiến lược để chủ động tiến công địch, làm chuyển biến cục diện chiến tranh, nghệ thuật tiến công bằng các phương thức tác chiến mới giành thế bất ngờ…”. Không chỉ có thế, ông Lịch còn bịa thêm rằng: “Nhận thức rõ vai trò quan trọng của lực lượng vũ trang trong chiến tranh cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên coi trọng xây dựng LLVT ba thứ quân, nhất là xây dựng bộ đội chủ lực từng bước phát triển lớn mạnh. Theo đó, đến cuối năm 1967, lực lượng bộ đội chủ lực toàn miền Nam đã phát triển lên 278.000 người, được tổ chức thành 190 tiểu đoàn chiến đấu, bố trí bí mật trên khắp các chiến trường. Đây là một trong những nhân tố tạo sức mạnh trực tiếp, quyết định thắng lợi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968; đồng thời, thể hiện tầm nhìn và sự chỉ đạo chiến lược sắc sảo của Đảng ta về xây dựng LLVT nhân dân trong chiến tranh giải phóng dân tộc.”


Làm gì có cái gọi là “Lực lượng bộ đội chủ lực toàn miền Nam” do chính người miền Nam lập ra để hình thành “Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam”! Thật ra đa số trong đội ngũ này là của miền Bắc được đào tạo đưa vào Nam, phối hợp với 30 đến 40 ngàn bộ đội VC được giữ lại trong Nam mà không tập kết ra Bắc theo điều kiện của Hiệp định Geneve 1954, rồi nhập chung với du kích miền Nam để cùng đội mũ tai mèo, đi chân đất, mặc quần xà lỏn, bận áo bà ba đen và tới đâu cũng khoe là “quân giải phóng”. Chính đạo quân “nằm vùng” này là lực lượng nòng cốt để Hà Nội thành lập cái gọi là Quân đội Giải phóng và Mặt trận Giải phóng miền Nam tay sai ngày 10-12-1960. Ngô Xuân Lịch cũng không ngần ngại cho rằng VC đã chiến thắng dòn dã ở Huế như sau: “Đặc biệt, với 25 ngày đêm làm chủ thành phố Huế đã khẳng định sức mạnh của LLVT ba thứ quân, góp phần quan trọng vào thắng lợi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 của quân và dân miền Nam anh hùng”. Trong “Lễ kỷ niệm 50 cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968” do Bộ Chỉ huy Quân sự thành phố Cần Thơ phối hợp tổ chức với Sở Giáo dục hôm 15-11-2017, VC còn khoe khoang một cách trâng tráo lố bịch: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy tại Cần Thơ chủ yếu tập trung tại vị trí lịch sử Lộ Vòng Cung, kéo dài trong 3 đợt, từ ngày 30-01 đến ngày 30-09-1968, loại khỏi vòng chiến 25.000 tên địch, phá hủy 228 máy bay, cùng nhiều đồn bốt, súng các loại?!?


3- Điều lạ là tất cả nội dung VC dành tung hô biến cố MT đã không có một chữ hay con số nào nói lên sự tổn thất lớn lao của bộ đội miền Bắc và quân du kích trong Nam. Nhưng người ta còn nhớ khi bộ phim tài liệu dài 12 tập “Mậu Thân 1968” (đầy dối trá vì phủ nhận việc thảm sát thường dân và các hố chôn người) được bắt đầu chiếu trên đài Truyền hình VN từ ngày 25-01-2013, nữ đạo diễn Lê Phong Lan đã cho biết lý do làm phim trễ: nhà cầm quyền VC coi vụ Mậu Thân là “vấn đề nhậy cảm” chẳng ai muốn nói đến. Đó là vì - Lê Phong Lan nói - “sự tổn thất của quân đội nhân dân Việt Nam ở sự kiện này quá nhiều. Tâm sự với tôi khi trả lời phỏng vấn, nhiều chỉ huy các sư đoàn dạn dày chiến trận còn khóc nức lên vì thương lính. Đó là lý do duy nhất”. Trên thực tế, cả quân miền Bắc lẫn du kích miền Nam đã thiệt hại rất nặng. Theo ước tính của các chuyên gia quân sự thì trong cuộc tấn công ấy, VC đã vận dụng từ 323,000 đến 595,000 quân chính quy và địa phương trong Nam để thực hiện kế hoạch chống lại khoảng 1 triệu 200 ngàn quân VNCH và Hoa Kỳ, với dự kiến chiếm đóng nhiều vùng lãnh thổ. Tuy nhiên kế hoạch lớn lao của Hà Nội đã bị quân và dân VNCH được sự yểm trợ của quân đội Hoa Kỳ đánh bại. Khoảng từ 85,000 đến 100,000 quân VC bị loại khỏi vòng chiến, so với thiệt hại của bên kia là trên 6,000 tử thương, ngót 30,000 bị thương và trên 1,000 quân bị mất tích. Theo báo chí của VC tiết lộ vào năm 1998, nhân kỷ niệm 30 năm Mậu Thân, đã có trên 100,000 lính VC mất tích hay vong mạng. Ngoài ra, suốt thời gian biến cố Mậu Thân và đặc biệt tại thành phố Huế bị chiếm đóng lâu nhất, không nơi nào có “nổi dậy” của nhân dân như VC tuyên truyền từ trước cho bộ đội, và cũng chẳng có nơi nào dân bỏ phía Quốc gia chạy sang phía Cộng sản. Hà Nội quả đã thất bại thê thảm về mặt quân sự lẫn chính trị. Chính một sĩ quan cao cấp VC, thiếu tướng Huỳnh Công Thân, “anh hùng các Lực lượng vũ trang nhân dân”, tỉnh đội trưởng Long An, tư lệnh Phân khu 3 khi diễn ra cuộc “Tổng công kích - Tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân”, trong hồi ký “Ở chiến trường Long An” (Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân 1994) đã cho thấy ai thắng ai thua trong kế hoạch vừa điên rồ, vừa phi nhân đó. Còn “độc đáo”, “oanh liệt” hay không thì chỉ cần đọc lại những lời tuyên bố của trung tướng VC Trần Văn Trà nhìn nhận Bộ chỉ huy Cộng sản đã tính toán sai lầm trong vụ tấn công quân sự Mậu Thân. Nhà văn Phạm Đình Trọng, trong bài viết “Về Với Dân, phần 3: Khắc khoải xuân Mậu Thân 1968”, https://nhatbaovanhoa.co...g-vien-cong-san-o-ha-noi có kể rằng khi nghe nhà văn quân đội CS, đại tá Xuân Thiều trình bày: “Tôi thấy Tết Mậu Thân 68 ở Huế chết chóc nhiều quá, mất mát đau thương lớn quá. Bộ đội chết không còn người để chôn nhau. Dân chết cũng nhiều..”. Mới nghe có thế, Tổng Bí thư Lê Duẩn đã đứng bật dậy, đỏ mặt quát: “Ngu! Ngu! Đại Tá mà ngu!...” rồi ông đùng đùng bước nhanh ra cửa như chạy trốn. Phần Chế Lan Viên, một thi nô của VC (nhưng sám hối cuối đời) với chỉ một câu thơ, đã nói lên nhiều ý nghĩa. Ông đã mở đầu bài thơ “Ai? Tôi?” viết năm 1987 như sau: “Mậu Thân 2.000 người xuống đồng bằng. Chỉ một đêm, còn sống có 30. Ai chịu trách nhiệm về cái chết 2.000 người đó?”


4- Nhưng phải nói trách nhiệm lớn lao nhất của Việt cộng trước Dân tộc, trước Lịch sử chính là cuộc thảm sát thường dân tại Huế trong 25/26 ngày chúng chiếm được thành phố này. Ông Nguyễn Lý Tưởng, nhà sử học, cựu Dân biểu khu vực Thừa Thiên, người đã sống vào thời điểm xảy ra biến cố Tết Mậu Thân ở Huế và các nơi khác cũng như từng tiếp xúc với một số nhân chứng của cả hai bên (Quốc gia lẫn VC hồi chánh), đã kể lại trong “Cuộc hội thảo về chiến tranh Việt Nam tổ chức tại Vietnam Center" (Lubbock, Texas, Hoa Kỳ) từ 13 đến 15-03-2008 như sau: “Các nạn nhân bị thảm sát tại Huế và Thừa Thiên được tìm thấy tại trường tiểu học Gia Hội, chùa Theravada, Bãi Dâu, Cồn Hến, Tiểu Chủng viện, khu vực phía Tây Huế gần lăng Tự Đức và lăng Đồng Khánh, cầu An Ninh Thượng, cửa Đông Ba, trường An Ninh Hạ, trường Văn Chí, chợ Thông, Lang Xá Cồn, gần lăng Gia Long, gần chùa Tường Vân, Đông Gi (Di), Vinh Thái, Thủy Thanh, Lương Viện, Phù Lương, Phú Xuân (Phú Thứ), Thượng Hòa, Vinh Hưng, Khe Đá Mài... tất cả 23 địa điểm tổng cộng 2326 xác chết (sọ người). Còn khoảng trên 3,000 nạn nhân thuộc tỉnh Thừa Thiên và Huế đã được thân nhân xác nhận là chết hoặc bị bắt đi thủ tiêu, mất tích... không biết họ đã bị giết chết và chôn xác ở đâu?!


Dã man nhất là tại Khe Đá Mài (thuộc vùng núi Đình Môn, Kim Ngọc, quận Nam Hòa, tỉnh Thừa Thiên). VC đã dùng súng trung liên, đại liên, lựu đạn và mìn giết tập thể các nạn nhân, vất xác xuống dưới khe, lâu ngày thịt thối rữa bị nước cuốn đi, chỉ còn 428 sọ người, xương người dồn lại một đống. Người ta đã dựa vào các dấu vết còn lại của nạn nhân như áo len, tượng ảnh, giấy căn cước bọc nhựa... để biết được thân nhân của mình đã chết ở trong đống sọ và xương lẫn lộn đó. Đa số những nạn nhân nầy là giáo dân bị bắt ở nhà thờ Phủ Cam vào đêm mùng 5 Tết (03-02-1968)”


Về cuộc thảm sát tại Khe Đá Mài, người viết đã có may mắn gặp được chứng nhân duy nhất còn sống của biến cố đó, đã phỏng vấn đương sự và đã ghi lại tường thuật của đương sự trong bài viết dài 6 trang A4: “Biến cố Mậu Thân-Cuộc thảm sát tại Khe Đá Mài” phổ biến tháng 11-2007, nhân kỷ niệm 40 năm cuộc thảm nạn này. (http://www.duocviet.org/2017/02/05/bien-co-mau-than-cuoc-tham-sat-tai-khe-da-mai/). Những giáo dân Phủ Cam bị thảm sát trong vụ này (công chức, thanh niên, học sinh hiền lành) là nạn nhân vô tội của việc Cộng sản trả thù những chiến binh (lính chính quy và nghĩa quân VNCH) đã cầm súng bảo vệ giáo xứ suốt mấy ngày nhưng sau đó phải rút về Phú Bài vì không được tiếp viện.


Sự tàn ác vô nhân tính của VC trong cuộc thảm sát tại Huế đã được nhà văn Đinh Lâm Thanh, hiện sống ở Pháp, chứng nhân biến cố, mô tả như sau trong bài thuyết trình dịp tưởng niệm 40 năm biến cố tổ chức tại Paris ngày 02-03-2008: “Tại Huế, CS lùng bắt thành phần quân-cán-chính, tập trung dân để tổ chức đấu tố, bắn giết, chôn sống tại chỗ một số và dẫn những người còn lại theo làm tù dân - tôi nói tù dân, vì tù là những người dân vô tội - trước khi rút lui tháo chạy trước sức tấn công mãnh liệt của QLVNCH và Đồng minh… Mỗi hố chôn tập thể từ 5, 7 người đến trên 400 nạn nhân như ở Khe Đá Mài. Những nạn nhân nầy bị thảm sát một cách dã man như: Cột chùm lại với nhau và đốt cháy bằng xăng, bắt ngồi trên mìn rồi cho nổ tan xác, chặt đầu, bắn vào ót, đập chết bằng bá súng, đóng cọc từ dưới bàn tọa lên đến cổ, trói tay chân thành từng chùm rồi xô xuống hố chôn sống”.


Ông Võ Văn Bằng, Trưởng ban Cải táng Nạn nhân CS Tết MT nói với đài Á Châu Tự Do (RFA) năm 2008 : “Các hố cách nhau. Mỗi hố vào khoảng 10 đến 20 người. Trong các hố, người thì đứng, người thì nằm, người thì ngồi, lộn xộn. Các thi hài khi đào lên, thịt xương đã rã ra. Trên thi hài còn thấy những dây lạt trói lại, cả dây điện thoại nữa, trói thành chùm với nhau. Có lẽ họ bị xô vào hố thành từng chùm. Một số người đầu bị vỡ hoặc bị lủng. Lủng là do bắn, vỡ là do cuốc xẻng…”


Trong bài nói chuyện tại buổi Tưởng niệm 40 năm Tết Mậu Thân, Việt Báo Gallery ngày 29-3-2008, nhà văn Nhã Ca tác giả “Giải Khăn Sô Cho Huế” đã tố cáo: “Bốn mươi năm trước đây, đúng vào giờ trưa mùng Hai Tết, tại Cửa Đông Ba Huế, chỉ mấy tiếng đồng hồ sau khi đột nhập,CS khai diễn cuộc tàn sát. Toán nạn nhân đầu tiên gồm 5 thường dân -không hề có người lính Cộng hòa nào. Tất cả bị trói, bắt đứng quay lưng vào tường thành. Dân chúng đứng coi. Súng AK nổ. Từng người gục chết. Sau cuộc hành hình, thân nhân những người bị bắn nhào ra muốn ôm xác. Họ bị đánh, bị đá, bị đuổi. Xác người bị phơi ngày phơi đêm. Nắng. Máu. Giòi bọ… Và cuộc tàn sát tiếp tục. Không bằng súng đạn mà bằng cách chôn sống. Những nạn nhân bị cột trói bằng dây điện dính chùm xếp hàng bên hố. Một vài người bị đập đầu. Cả dây người đang sống bị đạp xuống hố đè lên nhau. Cái đầu nào ngóc lên bị đập bằng cuốc. Cứ thế mà chôn hàng ngàn người. Bạn tôi, chị Tâm Túy cũng đã bị chôn sống. Khi xác đào lên, thấy hai tay chị vói lên như đang cố cào bới đất. Móng tay, móng chân mọc dài hơn. Tóc mọc dài hơn… Bạn tôi bị chôn sống khi còn đầy sức sống... Huế Tết Mậu Thân. Hàng ngàn người đã bị chôn sống như thế” (Việt Báo ngày 31-3-2008).


5- 50 năm đã trôi qua. Nhiều chứng nhân vẫn còn sống (trong đó có kẻ viết bài này), nhiều chứng tích vẫn tồn tại (chẳng hạn ngôi mộ tập thể chôn cất xương cốt của hơn 400 nạn nhân khe Đá Mài tại núi Ba Tầng [núi Bân], phía Nam thành phố Huế, nhưng trong tình trạng bị bỏ hoang phế với trụ bia và hai bàn thờ bị VC phá hủy ngay sau tháng 4-1975), vô số tài liệu đã được công bố rộng rãi trên mạng về cuộc thảm sát cách đây nửa thế kỷ. Thế nhưng đảng và nhà cầm quyền VC vẫn quyết tâm không thừa nhận sự thật, lãnh nhận trách nhiệm, công nhận tội ác tầy trời mà chính họ đã gây ra cho Dân tộc và Đồng bào trong những ngày xuân năm 1968, vẫn không giải oan cho các nạn nhân vô tội bị giết bằng cách chính thức tạ tội và để tự do cho bất cứ cá nhân hay tập thể nào tưởng nhớ các nạn nhân này, vẫn tiếp tục trình bày biến cố Mậu Thân như một chiến thắng lừng lẫy.


Tâm địa tàn ác ngay cả với đồng bào và thói bất hối lỗi đó đã ăn sâu trong con người Cộng sản, nhất là giới lãnh đạo. Nó bắt nguồn từ Hồ Chí Minh, với bài viết “Địa chủ ác ghê” (1953), bản cáo trạng vu khống và tuyên án tử hình vô tiền khoáng hậu đối với ân nhân của đảng là bà Nguyễn Thị Năm, với việc để cho Trần Quốc Hoàn giết chết người tình đã có con với mình là Nguyễn Thị Xuân; rồi từ bộ Chính trị đảng thời đầu với cuộc Cải cách Ruộng đất giết trực tiếp lẫn gián tiếp nửa triệu nông dân miền Bắc, với cuộc xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa làm vong mạng gần 4 triệu đồng bào hai miền đất nước (chết vì đánh trận, chết vì ám sát thủ tiêu, chết vì mìn nổ trên đường, vì lựu đạn ném vào rạp hát, chợ búa, nhà hàng, vì đạn pháo kích vào trường học…). Tâm địa tàn ác và thói bất hối lỗi đó tiếp tục sau năm 1975 với việc tàn sát hơn 100 ngàn quân nhân cán chính VNCH trong các trại tập trung cải tạo, với việc đẩy hàng triệu Đồng bào ra biển khơi hay vào rừng thẳm để chạy trốn chế độ mà một nửa đã vong mạng, với việc gây ra nạn dân oan hàng chục triệu người nay sống dở chết dở, với việc giết oan hàng trăm công dân bị bắt bắt vào đồn, với việc thản nhiên tuyên những bản án tử hình cho nhiều người vô tội như Hồ Duy Hải, Nguyễn Văn Chưởng, Lê Văn Mạnh và mới đây nhất là cho Đặng Văn Hiến, anh nông dân tự vệ giữ đất…. Chưa thấy Việt Cộng hối lỗi bao giờ trước các tội ác đó! Đó là chưa kể tội ác đẩy đất nước vào cơn lụn bại mọi mặt, dân chúng vào cảnh điêu linh cuộc sống, Tổ quốc vào nguy cơ xóa sổ vĩnh viễn vì Tàu cộng xâm lăng như hiện thời.


Bài viết này là một nén hương lòng tưởng nhớ hàng vạn oan hồn biến cố Mậu Thân, trong đó có 5 thầy dạy, 5 bạn học và nhiều thân nhân của người viết, cũng như tưởng nhớ oan hồn của hàng triệu đồng bào nạn nhân từ khi đảng VC xuất hiện (1930). Ngoài ra, đây cũng là lời kêu gọi đảng và nhà cầm quyền CSVN hãy biết thành tâm nhận lỗi trước nhân dân, coi như một bước đầu cho việc hòa giải hòa hợp Dân tộc thực sự. Thêm nữa, đây cũng là lời cảm tạ Thiên Chúa đã giữ cho tôi được sống đến ngày hôm nay để làm chứng nhân cho cuộc thảm sát và cho nhiều chuyện khác trong xã hội VN cộng sản. Bởi lẽ như đầu bài đã nói, nếu không vì hiểu khác mà VC tấn công Huế đêm giao thừa Mậu Thân thì ắt hẳn sáng ngày mồng 1 Tết tôi đã phải chạy lên trú ngụ tại nhà thờ Phủ Cam (để sau đó bỏ thây tại Khe Đá Mài), thay vì về làng quê Dương Sơn (cách Huế khoảng 8km) ăn tết và đã khỏi chung số phận với hơn 400 thanh niên hiền lành của giáo xứ Phủ Cam, nơi tôi đã và đang sống.

Huế ngày 04-02-2018
Linh mục Phê-rô Phan Văn Lợi
song  
#2 Đã gửi : 04/02/2018 lúc 10:28:45(UTC)
song

Danh hiệu: Moderate

Nhóm: Registered
Gia nhập: 21-02-2012(UTC)
Bài viết: 24,685

Cảm ơn: 1 lần
Được cảm ơn: 2 lần trong 2 bài viết
Những hố chôn người trong cuộc thảm sát Mậu Thân tại Huế

Tóm Lược: Bác sĩ Alje Vennema viết một cuốn sách nhan đề "The Vietcong Massacre at Hue," xuất bản năm 1976, mô tả chi tiết cuộc tàn sát dã man người dân Huế do quân cộng sản thực hiện trong Tết Mậu Thân 1968. Là nhân chứng của cuộc thảm sát và tham gia trực tiếp trong việc tìm tòi các hầm chôn và phỏng vấn gia đình nạn nhân, bác sĩ Vennema trình bày cuộc khám phá 19 hố chôn tập thể với ít nhất 2.307 xác người. Báo cáo của Bác sĩ Vennema là bằng chứng hùng hồn cho sự gian xảo và tàn ác của nhóm cầm quyền cộng sản (NCQCS) trong việc che giấu và chối bỏ tội ác tại Huế.


Cuộc thảm sát tại Huế vào Tết Mậu Thân 1968 là một cuộc giết người vô nhân đạo do cộng sản Bắc Việt và cộng sản hoạt động trong miền Nam thực hiện, hầu như chắc chắn là do chỉ thị của giới lãnh đạo Hà Nội lúc bấy giờ. Đã có rất nhiều tài liệu, hình ảnh, phim ảnh, tường thuật nhân chứng về tội ác này. Tuy nhiên, vào năm 2013, sau 45 năm im lặng, nhóm cầm quyền cộng sản (NCQCS) tại Việt Nam, trong một nỗ lực tuyệt vọng, cố xóa bỏ tội ác này bằng nhiều kế hoạch và mưu đồ gian ác. Những kế hoạch và mưu đồ gian ác này gồm có những hành động chối bỏ tội ác, thí dụ như cuốn phim "Mậu Thân 1968" do đạo diễn Lê Phong Lan, các bài viết, chương trình trên các phương tiện truyền thông. Năm 2018, NCQCS vẫn tiếp tục coi thường dư luận và chà đạp lên nỗi đau thương của người dân Huế nói riêng và dân Việt khắp nơi nói chung bằng cách linh đình ăn mừng kỷ niệm cuộc Tổng tấn công (Vũ 2018).


Trong hai bài viết đăng trên trang mạng Dân Làm Báo, tôi viết về cuộc thảm sát tại Huế và sự dối trá của NCQCS và Lê Phương Lan (Xem, Cao-Đắc 2014a; Cao-Đắc 2015a). Đặc biệt, tôi trích dẫn tài liệu trong sách viết bởi Bác Sĩ Y Khoa Alje Vennema, xuất bản năm 1976. Trong bài này, tôi sẽ trình bày lại 2 bài viết trên với vài sửa đổi, vài chi tiết cập nhật và kèm theo những hình ảnh trong sách của Vennema theo ý muốn của ông là "sự thật về Huế nên được biết" (Vennema 1976, Preface), để trình bày bằng chứng hùng hồn cho sự dối trá của NCQCS và Lê Phương Lan. 


A. Cuốn phim "Mậu Thân 1968" của Lê Phong Lan:


Tôi đã viết về cuốn phim "Mậu Thân 1968" của Lê Phong Lan trong một bài nói về những lừa đảo lịch sử của Hồ Chí Minh và đảng cộng sản Việt Nam (Cao-Đắc 2014a). Sau đây là những ý chính bài đó và vài chi tiết cập nhật về Bác sĩ Alje Vennema.


Ngày 25 tháng 1 năm 2013, Đài Truyền hình Việt Nam VTV1 khởi đầu phát hình bộ phim "Mậu Thân 1968" gồm 12 tập, do đạo diễn Lê Phong Lan thực hiện (Lê Tâm 2013). Theo Lê Phong Lan, bà ta đã đi đi về về giữa Việt Nam và Mỹ trong suốt 10 năm, "đã gặp và phỏng vấn khoảng 200 nhân chứng" cả mọi bên (cộng sản, Mỹ, và Việt Nam Cộng Hòa) để đi tìm sự thật (Lê Tâm 2013). Đáng buồn thay, cái sự thật mà Lê Phong Lan đi tìm, thực ra chỉ là một nỗ lực tuyệt vọng trong việc xóa bỏ tội ác không tả xiết của cộng sản. 


Một cách khôi hài, bộ phim "Mậu Thân 1968" dường như cho thấy sau 45 năm im lặng, đã đến lúc phe cộng sản đem "sự thật" ra ánh sáng. Có ai tin là người cộng sản chịu im lặng trong 45 năm khi họ bị "vu oan"? Tuyên truyền là tài năng họ hãnh diện mà họ chịu im lặng trong 45 năm? 


Một cách trắng trợn, tập 8, nhan đề "Khúc ca bi tráng," chối bỏ cuộc thảm sát tại Huế do Việt Cộng, và đổ lỗi cho bom đạn Mỹ và quân đội Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Trong một khúc phim, Lê Phong Lan phỏng vấn Nguyễn Đắc Xuân, kẻ nói rằng cuộc thảm sát là do phản kích tâm lý chiến của phe VNCH. Đoạn phim trích dẫn lời các học giả Hoa Kỳ Noam Chomsky, Edward S. Herman, và D. Gareth Porter cho rằng những người chết trong các hầm chôn tại Huế là do bom đạn Mỹ, do quân VNCH trả thù những cảm tình viên cộng sản khi tái chiếm Huế, và là những người lính cộng sản bỏ xác tại chiến trường. Luận điệu chống đỡ này chẳng có giá trị gì cả. 


Ai cũng biết Nguyễn Đắc Xuân là một trong những tên sát nhân đã giết những người dân Huế. Những kẻ sát nhân khác gồm có Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, và Nguyễn Thị Đoan Trinh (Xem, thí dụ như, Hình 13; Vennema 1976, 94). Phỏng vấn một chiều một kẻ bị coi là sát nhân về tội ác mà hắn gây ra là một chuyện ghê tởm trong phim tài liệu lịch sử. Trích dẫn lời của những học giả phản chiến về cuộc chiến quả thật là một nỗ lực ngu xuẩn của những kẻ muốn sửa lại lịch sử.


Do đó, không ngạc nhiên khi bộ phim "Mậu Thân 1968" không hề đề cập đến một nhân chứng vả tài liệu quan trọng nhất về vụ thảm sát Mậu Thân: Bác sĩ Alje Vennema và cuốn sách ông, nhan đề "The Vietcong Massacre at Hue" ("Cuộc Thảm Sát tại Huế bởi Việt Cộng") xuất bản năm 1976 (Hình 1; Hình 2; Vennema 1976). Bác sĩ Alje Vennema, từng là một cảm tình viên cho phong trào phản chiến, là nhân chứng đáng tin cậy nhất về vụ thảm sát Mậu Thân vì ông đích thân tham gia trong việc tìm các hầm chôn nạn nhân và khám xét hài cốt nạn nhân để xác định nguyên nhân chết với cặp mắt chính xác của một bác sĩ. 


Alje Vennema (1932 - June 7, 2011) là một bác sĩ y khoa người Hòa Lan - Gia Nã Đại (Wikipedia 2018). Sinh tại Leeuwarden, Hòa Lan, vào năm 1932, ông đến Gia Nã Đại năm 1951 và học Y Khoa tại trường Y Khoa, McGill University, tốt nghiệp năm 1962. Từ năm 1965 tới 1968, ông là giám đốc về hỗ trợ y tế Gia Nã Đại tại Việt Nam. Ông được ban Order of Canada, một danh dự cao quý cấp cho thường dân của Gia Nã Đại, vào năm 1967. Sau đó, ông làm việc tại Tulane University tại New Orleans lúc ban đầu New York City, nơi ông là giám đốc Phòng Y Tế về Bệnh Lao của New York City. Ông qua đời ngày 7 tháng 6 năm 2011. 


Lúc ban đầu khi làm việc ở Việt Nam trong cuộc chiến và chưa biết rõ cộng sản Bắc Việt và Việt cộng hoạt động trong miền Nam, Bác sĩ Vennema là một cảm tình viên cho phong trào phản chiến và tin rằng Mặt trận giải phóng là giải pháp cho cuộc chiến. Ông chỉ trích nỗ lực của Mỹ tại Việt Nam và kêu gọi chính quyền Hà Nội chấm dứt các phương pháp khủng bố. Nhưng những lời kêu gọi của ông không có hiệu quả (Vennema 1976, Preface). Sau đó, vào đầu năm 1968, ông đến Huế trong một công tác y tế, và chứng kiến thảm kịch tại Huế. Khi trận chiến tại Huế chấm dứt, ông rời Huế và tham gia phong trào phản chiến, và được phỏng vấn về những gì xảy ra tại Huế. Sau đó, ông trở lại Huế nhiều lần, lần này qua lần khác để tìm tòi, truy lùng các mối liên lạc, và thăm viếng các làng và gia đình những người mất người thương yêu. Dần dà, ý nghĩ của ông về cuộc chiến và cộng sản Việt Nam thay đổi. Ông "ý thức được hậu quả thực sự của thảm kịch đã xảy ra và cảm thấy sự thật về Huế nên được biết, để được khắc ghi vào những biên niên lịch sử bên cạnh những địa danh [của các vụ thảm sát tại] Lidice, Putte, và Warsaw." (tlđd.)


Chính D. Gareth Porter, sử gia phản chiến Hoa Kỳ và là kẻ bênh vực cộng sản và có ý kiến trong cuốn phim của bà Lê Phong Lan, công nhận Bác sĩ Vennema là nhân chứng. Porter, tuy nhiên, dùng những báo cáo tương phản với những báo cáo của Bác sĩ Vennema. 


UserPostedImage
Hình 1: Bìa cuốn sách "The Vietcong Massacre at Hue" của tác giả Alje Venneme.


UserPostedImage
Hình 2: Trang bìa trong và mục lục cuốn sách "The Vietcong Massacre at Hue"


Trong sách ông, bác sĩ Vennema mô tả rất chi tiết các hầm chôn, số nạn nhân, cách thức họ chết. Ngoại trừ một số ít có thể chết vì súng đạn, đa số bị chết vì hành quyết, tay trói ngược ra sau, giẻ nhét vào miệng. Bác sĩ Vennema tự hỏi, "Phải chăng người Mặt Trận [Giải Phóng] và đám đỡ đầu ở Hà Nội nghĩ rằng họ có quyền giết, như thể bất cứ ai cũng có quyền giết người?" (Hình 3; Vennema 1976, 183). "Bất cứ họ muốn đạt được chuyện gì, thảm kịch Huế sẽ mãi mãi là bản cáo trạng hành vi họ" (tlđd.). Bác sĩ Vennema nhấn mạnh là không có lẫn lộn trong việc giết người. "Các cuộc giết người không phải do bởi nóng giận, hoảng hốt, hoặc trước khi rút lui; chúng được cân nhắc kỹ lưỡng trước đó. Đa số nạn nhân là những người được đánh dấu có tên trên danh sách những người bị tiêu diệt, còn những người khác là vì họ có dính líu với quân đội hoặc chính quyền Sài gòn" (tlđd., 184).


UserPostedImage
Hình 3: Cảm tưởng Bác Sĩ Vennema về cuộc thảm sát tại Huế (Vennema 1976, 183-184)


Ngoài cuốn sách của Bác sĩ Vennema, có hàng trăm nhân chứng và tài liệu cho thấy cuộc thảm sát Mậu Thân năm 1968 là một cuộc giết người tập thể dã man của cộng sản Việt Nam theo chính sách cộng sản Bắc Việt. Chi tiết về những hầm chôn nạn nhân và nguồn các tài liệu này được ghi chép tỉ mỉ (Xem, thí dụ như Vennema 1976; Cao-Đắc 2014a). 


Bác sĩ Vennema từ trần năm 2011 tại British Columbia, Gia Nã Đại. Nếu quả thật Lê Phong Lan là người muốn tìm hiểu sự thật "trong suốt 10 năm" thì bà ta nên phỏng vấn ông lúc ông còn sống, hoặc ít nhất bà ta lẽ ra tham khảo cuốn sách ông. Lê Phong Lan tuyên bố, "Có người hỏi tôi làm phim tài liệu lịch sử có công bằng không, tôi xin trả lời, tôi phải công bằng vì đó là nghề nghiệp, là thanh danh của tôi” (Lê Tâm 2013). Lê Phong Lan quả thật đã cho một định nghĩa mới cho "công bằng" hoặc bà ta đã coi thường chính thanh danh mình, nếu bà ta có thanh danh.


B. Những hố chôn người tập thể tại Huế:


Tôi đã viết về những hố chôn người tập thể là phần tài liệu lịch sử trong truyện ngắn "Tiếng Khóc Vùi Chôn" ("Buried Cries") (Cao-Đắc 2015a; Cao-Đắc 2015b). Sau đây là những ý chính phần tài liệu đó và vài chi tiết cập nhật về những hố chôn người.


Vụ thảm sát Huế được biết và ghi nhận nhiều (Chính 1998, 134-137; Willbanks 2007, 99-103; Vennema 1976; Robbins 2010, 196-208; Oberdorfer 2001, 198-235; Pike 1970, 26-31). Tuy nhiên, mặc cho sự quy mô và tàn bạo của nó, vụ thảm sát Huế hầu như không được báo cáo ở Hoa Kỳ vào lúc đó và bây giờ gần như bị quên lãng (Braestrup 1994, 215; Robbins 2010, 196).


Mặc dù chứng cớ đầy rẫy cho một vụ thảm sát hơn hai ngàn nạn nhân, một vài học giả Hoa Kỳ cãi là không có một cuộc tàn sát thực sự. D. Gareth Porter, cùng với đồng nghiệp ông ta, đăng một loạt các bài báo (Porter 1974; Herman và Porter 1975) cáo buộc các cơ quan Nam Việt Nam và Hoa Kỳ bịa đặt bằng chứng trong báo cáo số người chết trong vụ thảm sát ở Huế năm 1968. Như được trình bày ở trên, Herman và Porter là hai học giả Hoa Kỳ phản chiến mả Lê Phong Lan trích dẫn trong cuốn phim "Mậu Thân 1968" để hỗ trợ việc chối bỏ tội ác và vu cáo nạn nhân chết do bom đạn Hoa Kỳ và VNCH.


Herman và Porter (1975) bác bỏ báo cáo của Douglas Pike về số dân bị giết bởi Cộng sản và kết luận rằng chữ 'thảm sát' dùng cho sự giết dân Huế của Cộng sản chỉ là một mưu đồ tuyên truyền lừa đảo (tlđd., 4). Herman và Porter (tlđd.) đồng ý rằng cộng sản có giết một số thường dân trong lúc họ chiếm đóng Huế, nhưng bày tỏ rằng không có bằng chứng cho thấy họ hành quyết số lớn. 


Oái oăm thay, một nguồn chính yếu mà Herman và Porter dựa vào để thiết lập lý thuyết họ là báo cáo của bác sĩ Alje Vennema, một bác sĩ Tây phương duy nhất đã xem xét các ngôi mộ, người, theo Herman và Porter, thấy rằng số nạn nhân trong các chỗ chôn cất bị Mỹ ở Sài Gòn thổi phồng hơn bảy lần, tổng cộng chỉ có 68 thay vì tuyên bố chính thức là 477 (tlđd., 2). Herman và Porter xác định thêm rằng theo Vennema, đa số xác chết mặc quân phục và những vết thương cho thấy rằng họ là nạn nhân của cuộc chiến (tlđd.). Porter dựa vào Vennema để kết luận rằng chính phủ miền Nam Việt Nam đã thổi phồng số các vụ hành quyết thực sự. Theo Porter, Vennema "bất chợt ở bệnh viện tỉnh Huế trong cuộc Tổng tấn công Tết và là người điều tra riêng về các hầm chôn" (Porter 1974, 3).
song  
#3 Đã gửi : 04/02/2018 lúc 10:30:34(UTC)
song

Danh hiệu: Moderate

Nhóm: Registered
Gia nhập: 21-02-2012(UTC)
Bài viết: 24,685

Cảm ơn: 1 lần
Được cảm ơn: 2 lần trong 2 bài viết
Tuy nhiên, những gì Herman và Porter báo cáo hoàn toàn mâu thuẫn với những chi tiết Vennema cung cấp. Bác sĩ Alje Vennema trình bày phiên bản riêng của ông về vụ thảm sát trong sách ông, The Vietcong Massacre at Hue, xuất bản năm 1976, một năm sau bài của Herman và Porter. Trong sách ông, Vennema ghi chi tiết về vụ thảm sát. Báo cáo của ông bao gồm chứng kiến của chính ông về các mộ và các cuộc phỏng vấn các nhân chứng và những người sống sót khác. Vì Porter và Harman coi Bác Sĩ Vennema là nhân chứng đáng tin cậy, sự tương phản đó cho thấy Porter và đồng bọn chính là những kẻ nói láo trắng trợn.

Do đó, sách của Vennema tượng trưng cho các báo cáo đáng tin cậy nhất về những gì đã xảy ra tại Huế. Chúng ta hãy nghe những gì Vennema thực sự nói về vụ thảm sát.

Một cách vắn tắt, Vennema khẳng định quân cộng sản tàn nhẫn giết và chôn sống hàng ngàn người dân vô tội, kể cả phụ nữ và trẻ em, tại Huế. Ông tỉ mỉ liệt kê 19 địa điểm của những hố chôn tập thể quanh Huế, với tổng số 2.307 tử thi. Nên nhấn mạnh rằng con số 2.307 xác người chỉ là số thi thể phát hiện khi các hầm chôn này được phát giác. Còn hàng trăm, hàng ngàn xác người khác không được phát giác và có lẽ vĩnh viễn biến mất và tiêu hủy với thời gian.

Hình 4 (Vennema 1976, 126) cho thấy bản đồ các vị trí hầm chôn tập thể do Vennema phác họa trong sách ông.


UserPostedImage
Hình 4: Vị trí các nơi có hố chôn tập thể (Vennema 1976, 126)


Hình 5 là bảng tóm tắt do tôi ghi lại dựa vào sách của Vennema (1976, 129-141), liệt kê 19 địa điểm của các hố chôn. Có vài địa danh không được rõ ràng vì Vennema không quen thuộc với tiếng Việt, nhưng dựa vào những mô tả, chúng ta có thể suy ra các địa danh này.


UserPostedImage
Hình 5: Bảng tổng kết 19 địa điểm các hố chôn và số thi thể


Về các hầm chôn phát hiện và số lượng xác người, Vennema báo cáo những địa điểm sau đây:


1) Địa điểm số 1 (Hình 6): Trường trung học Gia Hội (Vennema 1976, 129). Tổng số hầm chôn: 14 và thêm một số lượng hầm chôn không rõ. Tổng số xác chết: 203, gồm cả nam giới (trẻ và già) và phụ nữ. Trong số người chết là một phụ nữ 26 tuổi "với chân và tay bị trói, một miếng giẻ nhét vào miệng" và những người "không có vết thương rõ ràng"; một cảnh sát 42 tuổi người đã bị chôn sống; một phụ nữ báo rao đường 48 tuổi, "cánh tay bà bị trói và một miếng giẻ nhét vào miệng" và những người không có vết thương trên cơ thể, có thể là đã bị chôn sống.


2) Địa điểm số 2 (Hình 6): Chùa Theravada, được gọi là Tăng Quang Tự (tlđd., 131-132). 12 rãnh có 43 xác. Trong số người chết là một thợ may, tay trói và bị bắn xuyên qua đầu, một số người bị trói tay sau lưng bằng dây thép gai, và một số có miệng nhồi với giẻ rách. "Tất cả những người chết là nạn nhân bị trả thù và báo oán" (tlđd., 132).


3) Địa điểm số 3 (Hình 6): Bãi Dâu (tlđd., 131). 3 rãnh với 26 xác.



UserPostedImage
Hình 6: Địa điểm số 1, 2, và 3 (Vennema 1976,129, 131)


4) Địa điểm số 4 (Hình 7): Đằng sau một chủng viện nhỏ, nơi mà tòa án tổ chức các phiên xử (tlđd., 133): 2 rãnh với 6 xác (3 người Việt Nam làm việc cho Đại sứ quán Hoa Kỳ, hai người Mỹ làm việc cho USOM, và một giáo viên trường trung học Pháp nhầm lẫn là Mỹ). "Tất cả đều bị trói tay."


5) Địa điểm số 5 (Hình 7): Quận Tả Ngạn (tlđd.). 3 rãnh với 21 thi thể, "tất cả là đàn ông, với hai tay bị trói, và các lỗ đạn trên đầu và cổ."


6) Địa điểm số 6 (Hình 7): Năm dặm về phía đông Huế (tlđd.). 1 rãnh với 25 xác, tất cả bị bắn vào đầu, tay bị trói sau lưng.


7) Địa điểm số 7 (Hình 7): Gần các lăng của hoàng đế Tự Đức và Đồng Khánh (tlđd., 133-135): 20 rãnh với thêm số lượng rãnh nhỏ không rõ. Tổng cộng có 203 xác được phát hiện. Trong số người chết là một linh mục Pháp, Cha Urbain, người đã bị trói hai tay và không có vết thương trên cơ thể, và linh mục khác Pháp, Cha Guy, có một vết thương đạn trên đầu và cổ. Không có xác phụ nữ và trẻ em nào được tìm thấy, cho biết rằng "các nạn nhân bị giết tàn nhẫn và không phải trong hoạt động quân sự."


UserPostedImage
Hình 7: Địa điểm số 4, 5, 6, và 7 (Vennema 1976,133-134)


8) Địa điểm số 8 (Hình 8): Cầu An Ninh (tlđd., 135). 1 rãnh với 20 xác. Trong số những người chết là Trung sĩ Truong Van Trieu, một lính VNCH, và ông Tran Hy của lực lượng Nhân Dân Tự Vệ. Cả hai bị trói tay trước khi bị bắn chết.


9) Địa điểm số 9 (Hình 8): Cửa Đông Ba (tlđd., 135). 1 rãnh với 7 xác.


10) Địa điểm số 10 (Hình 8): Trường tiểu học An Ninh Hạ (tlđd., 135). 1 rãnh với 4 xác.


UserPostedImage Hình 8: Địa điểm số 8, 9, và 10 (Vennema 1976,135)
11) Địa điểm số 11 (Hình 9): Trường Vân Chí (tlđd., 136). 1 rãnh với 8 xác.


12) Địa điểm số 12 (Hình 9): Chợ Thông, một chợ (tlđd., 136).1 rãnh với 102 xác. "Đa số bị bắn và trói, trong đó có nhiều phụ nữ, nhưng không có trẻ em."


13) Địa điểm số 13 (Hình 9): Trên mặt các ngôi mộ lăng hoàng đế Gia Long (tlđd., 136). Gần 200 xác đã được tìm thấy. Một số người có tay "bị trói sau lưng, và họ bị bắn xuyên qua đầu."


14) Địa điểm số 14 (Hình 9): Nửa đường giữa chùa Tạ Quang và chùa Tu Gy Văn, 2,5 km về phía tây nam của Huế (tlđd., 137). 4 xác người Đức (3 bác sĩ và một người vợ của bác sĩ).


15) Địa điểm số 15 (Hình 9): Đông Gi, 16 km trực tiếp phía đông Huế (tlđd.). 110 xác, tất cả là đàn ông và "hầu hết bị trói tay và giẻ nhét vào miệng."


16) Địa điểm số 16 (Hình 9): Làng Vĩnh Thái, làng Phù Lương, và làng Phú Xuân, khoảng 15 km về phía nam và phía đông nam thành phố (tlđd., 137-138). 3 hầm chôn với hơn 800 xác (gồm có 135 ở Vĩnh Thái, 22 Phù Lương, 230 và sau 357 tại Phú Xuân): Hầu hết là nam giới với một số ít phụ nữ và trẻ em. Trong số người chết là Cha Bửu Đồng và hai chủng sinh.


UserPostedImage Hình 9: Địa điểm số 11, 12, 13, 14, 15, và 16 (Vennema 1976,136-137)
17) Địa điểm số 17 (Hình 10): Làng Thượng Hòa, phía Nam lăng vua Gia Long (tlđd., 139). 1 hầm chôn với 11 xác. "Các xác chết cho thấy cùng một loại vết thương ở đầu và cổ, có lẽ gây ra do hành quyết."


18) Địa điểm số 18 (Hình 10): Làng Thủy Thành và Vĩnh Hưng (tlđd.), hơn 70 xác, "đa số là nam giới với một số phụ nữ và trẻ em." "Có vài người chết có lẽ là trong thời gian chiến tranh vì họ có nhiều loại vết thương và thân thể bị cắt; những người khác trưng bày vết thương duy nhất ở đầu và cổ, nạn nhân của hành quyết."


19) Địa điểm số 19 (Hình 10, Hình 11): Khe Đá Mài (tlđd.). 500 sọ. "Trong số rất nhiều những bộ xương có các mảnh quần áo bình thường, không phải vải kaki màu xanh của đồng phục Bắc Việt hoặc Việt Cộng. Tất cả các sọ đều trưng bày một vết nứt bị nén của xương trán giống nhau như là kết quả của một cú đánh với khí cụ nặng."


UserPostedImage
Hình 10: Địa điểm số 17, 18, và 19 (Khe Đá Mài) (Vennema 1976,139)


UserPostedImage Hình 11: Địa điểm 19 (Khe Đá Mài) (Vennema 1976,140-141)

Danh sách trên của các hầm chôn cho thấy tổng cộng 19 hầm chôn và khoảng 2307 xác chết. Hầu hết những xác chết này trưng bày những vết thương do hành quyết gây ra và không phải bởi kết quả của chiến tranh. Nhiều người bị trói tay và giẻ nhét vào miệng. Vào cuối tháng 9 năm 1969, hàng trăm người vẫn còn mất tích (tlđd., 140). Ngoài ra, Vennema lưu ý rằng "Ngoài các hầm chôn tập thể, có những sự giết người tàn nhẫn riêng rẽ" (tlđd., 141).


Porter cố gắng đổ lỗi cho cuộc đánh nhau dữ dội tại một trong những bãi chôn nơi 22 xác được tìm thấy. Theo ông ta, "máy bay Mỹ ném bom xuống làng nhiều lần, phá hủy hàng trăm ngôi nhà và giết thường dân" và "khoảng 250 binh lính cộng sản đã bị giết" trong trận đánh cả ngày (Porter 1974, 4). Ông ta viết thêm rằng "250 bộ xương được tìm thấy tại Khe Đá Mai (không phải 400 như lời của Pike) cũng bị giết trong trận chiến hoặc bởi B-52 Mỹ thả bom" (tlđd., 5-6).


Tuy nhiên, Vennema (Hình 11; 1976, 140) xác định với độ chính xác của một bác sĩ rằng con lạch chứa 500 sọ người và "kiểm tra hồ sơ của quân đội Mỹ không tiết lộ bất kỳ hành động quy mô rộng hoặc B-52 thả bom trong khu vực ngoại trừ một trận đánh gần Lộc Sơn, khoảng 10 km cách khu vực này, vào cuối tháng Tư năm 1968." Vennema (tlđd.) nói rằng "Thật vô lý cho việc vác [500] người chết do bom đạn B-52 qua địa hình gồ ghề để chôn ở suối." Ông (tlđd.) tiếp tục khẳng định rằng "tất cả các sọ đều trưng bày một vết nứt bị nén của xương trán giống nhau như là kết quả của một cú đánh với khí cụ nặng" và "các xương khác không bị vỡ nứt thể hiện bằng chứng của gãy xương mà chắc chắn không phải họ chết do bởi kết quả chiến tranh."


Kết luận của Porter rằng "một số lớn xác phát hiện vào năm 1969 thực ra là nạn nhân của lực lượng không quân Mỹ và đánh nhau trên bộ hoành hành ở các thôn chứ không phải là do Việt cộng" (Porter 1974, 6) mâu thuẫn với lời khai của một bác sĩ nhân chứng mà chính Porter dựa vào.


Nhiều nguồn khác cung cấp các ước tính phù hợp với báo cáo của Vennema. Bùi Tín (Bui 2002, 66), một cựu đại tá của quân đội Bắc Việt, xác nhận rằng vụ thảm sát Huế có xảy ra. Theo ông, Đại tá Lê Minh, trưởng khu an ninh cộng sản trong cuộc thảm sát Huế năm 1968, ước tính số người chết là 2.000, nhưng ông nói thêm rằng con số đó có thể thấp. Các ước tính khác báo cáo 2.500 đến 3.500, đa số là thường dân hoặc gia đình các viên chức chính quyền Sài Gòn (Prados 2009, 240; Hammel 2007, 159); 2.800 bao gồm cả viên chức chính phủ, chiến sĩ, giáo viên, linh mục, trí thức và các người phản động khác, và thường dân không may mắn, với một số nạn nhân bị bắn, đập chết, và thiêu sống (Braestrup 1994, 215; Isaacs 1984, 360; Oberdorfer 2001, 232; Pike 1970, 30-31). Woodruff (2005, 244) cho biết tổng số 2.810 xác dần dần được tìm thấy trong những mổ tập thể nông vào giữa những năm 1970. Ngoài ra, 1.946 người vẫn còn mất tích Những con số này có vẻ được lấy từ bài chuyên khảo của Pike (Pike 1970, 30-31). Một tài liệu, tuyên bố là lấy được từ Cộng sản, báo cáo số nạn nhân bao gồm 1.892 nhân viên hành chính, 38 cảnh sát, 790 tên bạo ác, 6 đại úy, 2 trung úy, 20 thiếu úy và nhiều hạ sĩ quan (Woodruff 2005, 244; Willbanks 2007, 101).


Trong khi chắc chắn rằng Hồ chấp thuận, mặc dù có thể chỉ trên hình thức, quyết định khởi động cuộc tổng nổi dậy (Duiker 2000, 557), không rõ là ông ta có đặc biệt thông qua kế hoạch dùng bạo lực cách mạng trên dân Huế. Theo Bùi Tín (Bui 2002, 68), cuộc thảm sát xảy ra vì quân đội Bắc Việt trở thành cuồng loạn, và bị mất hướng - và mất cả nhân tính. Bùi Tín (tlđd., 67) khẳng định rằng không có lệnh từ cấp trên đòi hỏi tiêu diệt cả tù binh hay thường dân. Theo Trương Như Tảng, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Việt Cộng, Huỳnh Tấn Phát, Chủ tịch Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng sản (Provisional Revolutionary Government - PRG), nói rằng hoàn toàn không có chính sách hay chỉ thị của Mặt trận để thực hiện bất cứ vụ thảm sát nào, nhưng Tảng thể hiện rằng ông không thấy điều giải thích này đặc biệt thỏa đáng (Truong 1986, 154).


Tuy nhiên cả Bùi Tín lẫn Trương Như Tảng có vẻ không biết đến tòa án nhân dân và những bản án tử hình giao xuống các nạn nhân. Tính chất của việc chuẩn bị cho các vụ thảm sát, gồm chuyện tập hợp dân chúng từ các danh sách đen và sự tổ chức tòa án nhân dân, rõ ràng cho thấy vụ thảm sát là một hoạt động có dự tính với những mục đích chính xác và rõ rệt, ra lệnh từ, và được hỗ trợ bởi, chỉ huy cao cấp của Bộ Chính trị Hà Nội (Robbins 2010, 196; Oberdorfer 2001, 232; Vennema 1976, 183), hoặc ít nhất là Hồ có thể đoán trước và mong muốn (Hubbell 1968, 67). Vennema (1976, 184) lưu ý rằng kích động khủng bố là quan trọng với Đảng cộng sản và các thành viên cộng sản không thể kềm hãm được. Robbins (2010, 208) ghi rằng vụ thảm sát Huế không phải là một hành động tự phát của sự quá đáng mà là một thực hiện tàn nhẫn của chính sách cộng sản Bắc Việt.


Báo cáo về các cuộc tàn sát và sự hiện hữu của tòa án nhân dân được nhiều nhân chứng tường thuật (Robbins 2010, 198; Vennema 1976, 94). Trong một báo cáo, Phan Văn Tuấn, lúc đó 16 tuổi, bị bắt bởi VC và bị ra lệnh đào mồ chôn sống một số nạn nhân. Ông mô tả kinh nghiệm của mình trong một cuộc phỏng vấn (Lê Thy 2013; Phan 2008a; Phan 2008b). Khi kể đến đoạn ông bị thúc lưỡi lê bắt lấp hố vào những người ngã xuống hố còn đang sống, ông bật khóc. Ông nói đến những tia nhìn kinh hoàng của các nạn nhân đang quằn quại dưới hố. Trong một báo cáo khác, bà Nguyễn Thị Thái Hòa kể lại chuyện bà chứng kiến Hoàng Phủ Ngọc Phan, em trai của Hoàng Phủ Ngọc Tường, giết tàn nhẫn anh bà (Nguyễn 2012). Bà cũng mô tả vụ Nguyễn thị Đoan Trinh sát hại các nạn nhân vô tội.


Dựa vào lời tường thuật của ông Phan Văn Tuấn và bà Nguyễn Thị Thái Hòa và các tài liệu lịch sử về trận chiến tại Huế, tôi viết một truyện ngắn song ngữ nhan đề "Tiếng Khóc Vùi Chôn" (Cao-Đắc 2015a), "Buried Cries " (Cao-Đắc 2015b), trong tập truyện ngắn "Fire In The Rain " / "Lửa Cháy Trong Mưa," và vẽ một bức minh họa cho truyện này. Hình 12 là bức minh họa đó, vẽ lại cảnh quân cộng sản ép buộc các thanh thiếu niên lấp đất chôn sống những người dân vô tội theo lới kể của nhân chứng Phan Văn Tuấn (Lê Thy 2013; Phan 2008a; Phan 2008b).


UserPostedImage
Hình 12: Minh họa cho truyện ngắn "Tiếng Khóc Vùi Chôn."


Theo nhiều nguồn tin, một tòa án ngoài trời được chủ trì bởi Hoàng Phủ Ngọc Tường tại trường Gia Hội ở Quận II, là một quan tòa để ra án tử hình cho 203 người (Vennema 1976, 94). Một người, Nguyễn Đắc Xuân, cũng tham gia vào việc giết các nạn nhân vô tội. Tường, Phan, Đoan Trinh, và Xuân là thành phần một lực lượng chính trị được tổ chức trong lúc Cộng sản chiếm đóng tạm thời một phần của Huế. Lực lượng chính trị này được gọi là Liên minh Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình (Chính 1998, 131-132).


Một số nạn nhân bị bắn tàn nhẫn, đôi khi với tội phạm tầm thường (Vennema 1976, 94). Tòa án tại Gia Hội được biết bởi các cư dân địa phương, những người ẩn núp sau khi ra tòa lần đầu và sau đó sống sót, hoặc trốn thoát (tlđd..). Sau phiên toà này, toàn bộ trường học cuối cùng mang lại 203 thi thể của các thanh niên trẻ, những người đàn ông lớn tuổi, và phụ nữ (tlđd.). Cũng nên lưu ý rằng Gia Hội không phải là nơi duy nhất mà một tòa án được tổ chức. Các cuộc xử tòa ngoài trời khác được thực hiện dưới danh nghĩa nhân dân và cách mạng, nơi mà lời tuyên án và bản án được những người không có quyền hạn pháp luật đưa ra (tlđd., 185). Thông thường, một cán bộ chủ trì làm quan tòa, và cũng là luật sư, công tố viên, bồi thẩm đoàn, và người hành quyết (tlđd.).


UserPostedImage
Hình 13: Các phiên tòa ngoài trời (Vennema 1976, 94)


C. Kết Luận:

Lê Phong Lan trích lời các học giả phản chiến Hoa Kỳ, gồm có D. Gareth Porter, để hỗ trợ cho sự chối bỏ tội ác thảm sát Mậu Thân trong cuốn phim "Mậu Thân 1968." Trong bài viết phủ nhận cuộc thảm sát Mậu Thân là do cộng sản, Porter dựa vào báo cáo của Bác Sĩ Alje Vennema. Do đó, lời tường thuật của Bác Sĩ Vennema phải được coi là rất có giá trị và chính xác đối với Porter và Lê Phương Lan. Tuy nhiên, Bác Sĩ Vennema tường thuật những sự kiện hoàn toàn trái ngược những gì Porter trình bày. Theo Vennema, quân cộng sản tàn sát dân Huế một cách dã man, giết chết và chôn sống hàng ngàn người trong hàng chục hố chôn tập thể. Vennema mô tả tỉ mỉ vị trí 19 địa điểm các hầm chôn này với ít nhất 2.307 xác người dân.


NCQCS ca ngợi cuộc Tổng tấn công Mậu Thân là một chiến thắng và tổ chức ăn mừng hàng năm mỗi độ Xuân về. Trên thực tế, cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân là một thảm bại quân sự bi đát của cộng sản và cho thấy hành vi tàn ác giết dân với những phương pháp dã man nhất trong lịch sử loài người. Người dân Việt Nam cần phải bày tỏ thái độ phản đối sự chối bỏ tội ác này và lên án các cuộc tổ chức ăn mừng cho cái gọi là chiến thắng Mậu Thân 1968, để phục hồi danh dự cho hàng ngàn cái chết tức tưởi của dân Huế và đem lại chính xác cho lịch sử Việt Nam.

4/2/2018
2018 Cao-Đắc Tuấn
_______________
Tài Liệu Tham Khảo:


tlđd.: tài liệu đã dẫn, thay cho "sđd." (sách đã dẫn) để chỉ tài liệu (sách, trang mạng, liên lạc riêng, v.v.) đã trích dẫn xuất hiện ngay trước trích dẫn này.


Braestrup, Peter. 1994. Big Story – How the American Press and Television Reported and Interpreted the Crisis of Tet 1968 in Vietnam and Washington. Abridged Edition. Presidio Press, California, U.S.A.


Bùi Tín. 2002. From Enemy to Friend, A North Vietnamese Perspective on the War, Naval Institute Press, Maryland, U.S.A.


Chính Đạo. 1998. Mậu Thân 68: Thắng Hay Bại (Tet Offensive 68: Victory or Defeat). Tái bản có bổ sung (Reprinted with supplements). Văn Hóa, Houston, Texas, U.S.A.


Duiker, William J. 2000. Ho Chi Minh: A Life. Hyperion, New York, U.S.A.


Herman, Edward and D. Gareth Porter. 1975. The Myth of the Hue Massacre, Ramparts, Vol. 13, No. 8, May-June.


Hubbell, John G. 1968. The Blood-Red Hands of Ho Chi Minh. Reader’s Digest, November 1968, 61-67.


Isaacs, Arnold R. 1984. Without Honor: Defeat in Vietnam & Cambodia, Vintage Books, New York, U.S.A.


Oberdorfer, Don. 2001. Tet! The Turning Point in the Vietnam War, The Johns Hopkins University Press, Maryland, U.S.A.


Pike, Douglas. 1986. PAVN – People’s Army of Vietnam. Da Capo Press, New York, U.S.A.


Prados, John. 2009. Vietnam: The History of an Unwinnable War, 1945-1975, University Press of Kansas, Kansas, U.S.A.


Robbins, James S. 2010. This Time We Win: Revisiting the Tet Offensive, Encounter Books, New York, U.S.A.


Truong Nhu Tang (with David Chanoff and Doan Van Toai). 1986. A Viet Cong Memoir: An Inside Account of the Vietnam War and Its Aftermath, Random House, Inc., New York, U.S.A.


Vennema, Alje. 1976. The Viet Cong Massacre at Hue, Vantage Press, New York, U.S.A., 1976.


NGUỒN INTERNET


Cần lưu ý rằng nguồn Internet có thể không vĩnh viễn. Một blog có thể gỡ bỏ bởi tác giả, một bài báo có thể bị xóa, hoặc một Website có thể bị đóng cửa.


Cao-Đắc Tuấn. 2015a. Tiếng khóc vùi chôn. 10-3-2015. http://danlambaovn.blogs...tieng-khoc-vui-chon.html (truy cập 3-2-2018).


_________. 2015b. Buried Cries. 10-3-2015. http://danlambaovn.blogs...015/03/buried-cries.html (truy cập 3-2-2018).


_________. 2014a. Những lừa đảo lịch sử của Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam. 2-10-2014. http://danlambaovn.blogs...-cua-ho-chi-minh-va.html (truy cập 3-2-2018).


_________. 2014b. Historical frauds by Hồ Chí Minh and the Vietnamese Communist Party. 2-10-2014. http://danlambaovn.blogs...-by-ho-chi-minh-and.html (truy cập 3-2-2018).


Lê Tâm. 2013. Lần đầu tiên khai mở bí mật về Mậu Thân 1968. 23-1-2013. http://danviet.vn/hau-tr...mau-than-1968-87845.html (truy cập 3-2-2018).


Lê Thy. 2013. Tết Mậu Thân 1968: nhân chứng sống. 9-2-2013. https://baovecovang2012....an-1968-nhan-chung-song/ (truy cập 3-2-2018).


Nguyễn Thị Thái Hòa. 2012. Mậu thân Huế - Câu chuyện của Nguyễn Thị Thái Hòa. 10-1-2012. http://danlambaovn.blogs...uyen-cua-nguyen-thi.html (truy cập 3-2-2018).


Phan Văn Tuấn. 2008a. Hue1968_NhanChungSong-1. http://www.mediafire.com...1968_NhanChungSong-1.mp3 (truy cập 3-2-2018).


_________. 2008b. Hue1968_NhanChungSong-2. http://www.mediafire.com...1968_NhanChungSong-2.mp3 (truy cập 3-2-2018).


Porter, Gareth D. 1974. The 1968 ‘Hue Massacre.’ Indochina Chronicle, No. 33, June 24, 1974, pp 2-13. http://msuweb.montclair....ietnam/porterhueic74.pdf (truy cập 3-2-2018).


Vũ Đông Hà. 2018. Chúng vẫn múa, hát trên những xác người. 2-2-2018. http://danlambaovn.blogs...ren-nhung-xac-nguoi.html (truy cập 3-2-2018).

Wikipedia. 2018. Alje Vennema. 3-2-2018. https://en.wikipedia.org/wiki/Alje_Vennema (truy cập 3-2-2018).
song  
#4 Đã gửi : 05/02/2018 lúc 09:14:38(UTC)
song

Danh hiệu: Moderate

Nhóm: Registered
Gia nhập: 21-02-2012(UTC)
Bài viết: 24,685

Cảm ơn: 1 lần
Được cảm ơn: 2 lần trong 2 bài viết
Người thoát chết trở về từ mồ chôn tập thể

UserPostedImage
Hình minh họa. Một cuộc duyệt binh kỷ niệm 30 tháng Tư tại Việt Nam.

Đúng 50 năm trước đây, vào Tết Mậu Thân 1968, quân đội cộng sản Bắc Việt đã đồng loạt mở cuộc tấn công vào các đô thi Miền Nam, vi phạm trắng trợn lệnh hưu chiến, phá tan bầu không khí vui xuân đón Tết thiêng liêng cổ truyền của người dân Việt, gây tàn phá, chết chóc tang thương cho toàn Miền Nam.
Một trong những tội ác tày trời không thể biện minh đối Việt cộng và không thể nào quên trong lòng người dân Miền Nam xảy ra trong cuộc chiến tranh xâm chiếm Miền Nam (1954-1975) cộng sản hóa toàn cõi đất nước. Đó là những mồ chôn tập thể ở Huế nằm rải rác ở nhiều nơi tổng cộng lên tới khoảng 6000 người mà Việt cộng đã gây ra trong cái gọi là cuộc “Tổng tiến công và nổi dạy mùa xuân 68”. Nạn nhân trong những ngôi mộ tập thể này là những quân nhân, công chức Việt Nam Cộng Hòa nghỉ phép ăn Tết với gia đình, nhưng phần đông là những thanh niên, sinh viên học sinh và dân thường bị kết tội cộng tác với chính quyền quốc gia, hay không chịu hợp tác hoặc “chống lại cách mạng”. Sau khoảng 28 ngày đêm chiếm đóng, trước khi rút chạy, Việt cộng đã xử bắn hay chôn sống những nạn nhân này và chôn trong những ngôi mồ tập thể ở nhiều địa điểm khác nhau.
Câu truyện “người thoát chết trở về từ mồ chôn tập thể” mà chúng tôi viết lại ở đây là chuyện người thật, việc thật, do lời kể của em vợ một người bạn hàng xóm ở sát vách, có Mẹ ruột bị giết và chôn tại một trong 9 ngôi mồ tập thể trong khuôn viên trường Tiểu học Gia Hội ở nội thành Huế. Người kể truyện tên N. G. H. hiện cùng nhiều người thân trong gia đình định cư tại Tân Tây Lan (New Zeland) trong đó có gia đình anh bạn hàng xóm tên T. H. H, nguyên là một Thiếu tá quân lực VNCH từng bị tù nhiều năm trong cái gọi là “Trại lao động học tập cải tạo” của Việt cộng. Em H. đã kể cho tôi nghe trong một đêm cùng ngồi ở lan can chờ đón Giao thừa Tết năm nào sau 30-4-1975, ngày cộng sản Bắc Việt xâm chiếm Miền Nam, vi phạm trắng trợn Hiệp Định Paris ngày 27-1-1973 do họ bí mật hợp soạn với “đế quốc Mỹ” để rồi sau đó chính phủ quốc gia Việt Nam Cộng Hòa bị ép buộc phải ký vào như bản án tử hình được tuyên và thi hành án vào ngày 30-4-1975.
Theo H. kể lại, thì trước 30-4-1975 Cha Mẹ anh là một nhà buôn giàu có buôn bán trầm hương nổi tiếng ở Huế, nhà có người ăn kẻ ở. Đúng đêm 30 Tết Mậu Thân 1968, Việt cộng tấn công vào thành phố Huế. Sau khi Việt cộng chiếm đóng ít ngày, mọi người trong nhà đều sửng sốt khi thấy một chị giúp việc mặc đồ đen, đội nón tai bèo mang súng AK đi cùng hai người khác đến nhà yêu cầu đưa người yêu của chị gái anh, lúc đó là một sinh viên trường võ bị quốc gia Đà Lạt về nghỉ Tết (sau là Thiếu tá T.H.H là chồng của chị anh), phải ra trình diện. Sau khi lục soát nhà không thấy anh H. (đang trốn trên trần nhà), chị người làm yêu cầu Mẹ anh đi theo làm con tin, nói là khi nào anh H. ra trình diện sẽ thả mẹ anh về.
Tất nhiên là anh sinh viên sĩ quan Đà Lạt tên H. bạn hàng xóm của tôi, không dại gì ra trình diện để bị giết và bà Mẹ bị bắt đi sau đó cũng không thấy trở về nhà, ngay cả sau khi Việt cộng đã rút hết khỏi Huế cả tuần lễ sau. Mọi người trong gia đình anh H. vô cùng lo lắng vì nghe nói nhiều gia đình có người thân cũng bị bắt đi và bị giết chôn trong những mồ chôn tập thể. Những thân nhân họ đang đi đào bới các ngôi mồ tập thể để tìm xác người thân. Mọi người chia nhau đi hỏi tin tức và thầm cầu nguyện cho người thân trốn thoát đấu đó bình an trở về. Trong khi mọi người đang hoang mang, lo lắng không biết số phận người Mẹ ra sao, thì một hôm có một anh thanh niên quen biết đến nhà báo tin cho hay người Mẹ đã bị nhốt chung với anh này tại Trường Tiểu học Gia Hội và cùng bị Việt cộng xử bắn chôn chung trong một mồ tập thể trong khuôn viên nhà trường; nhưng anh đã may mắn sống sót trở về.
Theo thuật lại của anh thanh niên thì đêm hôm đó, Việt cộng trói chung 10 người một dây, đưa ra trước các hố đã đào sẵn, rồi ria một tràng AK, xác người đổ xuống, khi dầy thì lấp đất lên một cách sơ sài, vội vã. Riêng anh thanh niên thì may mắn thoát chết vì không trúng đạn mà chỉ đổ theo những người cùng dây trói. Khi tỉnh lại, anh thanh niên nói là ngửi thấy nồng nặc mùi máu tanh ướt đẫm quần áo và mặt. Nhờ bóng đêm anh thanh niên được thần chết bỏ quên đã tìm cách thoát chạy về nhà. Anh thanh niên về đến nhà trời còn tối, gõ cửa và lên tiếng gọi. Nghe tiếng em trai gọi nhỏ thều thào người chị gái vội ra mở cửa. Nhưng vừa nhìn thấy mặt và toàn thân em trai mình đầy máu me thì sợ hãi đóng sập cửa lại khi người em chưa kịp bước bào nhà. Phải đợi người em năn nỉ, nói là mình còn sống thật, hãy mở cửa mau cho anh vào nhà. Người chị như hoàn hồn mở cửa lại cho em vào nhà. Nhưng vẫn chưa tin là sự thật, chị đưa tay sờ mặt em như để biết chắc là em mình thật chứ không phải hồn ma bóng quế về báo mộng cho biết.
Sau khi nghe anh thanh niên thoát chết trở về từ mồ chôn tập thể thuật lại, thế là cả nhà của bà Mẹ nạn nhân theo chỉ dẫn của người thanh niên này đi đào bới ngôi mồ tập thể cùng nhiều người khác đi tìm xác người thân. Nhờ quần áo, trang sức và những dấu vết đặc biệt của người chết, họ đã nhận ra xác của người vợ, người Mẹ xấu số của các con đem về mai táng.
Câu truyện vừa viết lại trên đây là một thảm cảnh tiêu biểu của hàng ngàn gia đình có nạn nhân bị Việt cộng xử bắn hay chôn sống trong các mồ chôn tập thể ở Huế trong biến cố Tết Mậu thân 1968. Riêng đối với gia đình anh H. người em vợ của người bạn hàng xóm, thì thảm cảnh còn tái diễn sau ngày 30-4-1975. Vì vẫn theo lời kể của anh H. trong đêm cùng ngồi đón Giao Thừa năm đó, thì sau ngày “Giải phóng”, Cha anh bị đánh tư sản. Vì quá uất ức đã dùng dao chém vào đầu tự sát, con cháu kịp đưa vào nhà thương nên cứu kịp. Nhưng sau khi hồi tỉnh, lợi dụng lúc anh H có bổn phận chăm sóc và canh chừng người Cha, xuống sân ngồi ghế đá hút thuốc lá, Cha anh đã nhảy lầu tự tử. Anh nói, cái chết của người Cha đã chấn động mạnh khiến anh như bị bệnh thần kinh một thời gian vì mang mặc cảm do mình lơ là để Cha tự tử chết thảm thương.
Tôi viết lại câu truyện có thật này theo lời kể của H. một trong những người con của một Bà Mẹ nạn nhân trong hàng ngàn nạn nhân bị Việt cộng sát hại hay chôn sống trong các ngôn mồ tập thể ở Huế trong biến cố Tết Mậu Thân 1968. Nếu tất cả những câu truyện thật này được phơi bày, chắc phải in thành hàng ngàn trang sách. Ðó là một tội ác tầy trời mà ngày nay thế giới văn minh gọi là “Tội ác chiến tranh” hay “Tội ác chống nhân loại”, với những thủ phạm phải bị đem ra xét xử và trừng phạt. Những phim ảnh tài liệu đã ghi lại tội ác vô tiền khoáng hậu này đã đủ bằng chứng và hội đủ yếu tố cấu thành các tội ác vừa nêu.
Thế nhưng 50 năm đã qua, cá nhân những kẻ chủ mưu, thủ ác trực tiếp hay đồng lõa gián tiếp thì hầu hết đã đi vào lòng đất. Nhưng kế thừa những kẻ chủ mưu, thủ ác đã gây ra cuộc thảm sát Tết Mậu Thân 68 ở Huế nay là đảng và nhà cầm quyền công sản Việt Nam; đúng ra phải chịu trách nhiệm hình sự cũng như dân sự. Hay ít ra phải có lời công khai tạ lỗi với các nạn nhân và thân nhân họ. Thế nhưng thật đáng tiếc là hàng năm đảng và nhà cầm quyền cộng sản hiện nay vẫn tổ chức ăn mừng “Tổng tiến công và nội dạy mùa xuân 68” như một thắng lợi, gây phẫn nộ cho người dân Miền Nam, nhất là những thân nhân các nạn nhân đã chết trong cuộc tắm máu này. Vì hành động ăn mừng này làm người ta liên tưởng đến các cuộc uống máu, nhảy múa bên xác quân thù của các bộ lạc xa xưa còn man rợ khi chiến thắng một bộ lạc yếu kém hơn mình.
Trên diễn đàn này, hơn một lần chúng tôi đã lên tiếng kêu gọi đảng và nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam hãy chấm dứt ngay việc ăn mừng các biến cố quan trọng trong cuộc chiến tranh vừa qua; như biến cố Mậu Thân 1968 và 30-4-1975… Vì những biến cố ấy và tất cả các biến cố dẫn đến kết thúc cuộc chiến tranh “nồi da sáo thịt” vào ngày 30-4-1975, chẳng phải là thắng lợi của phe này (Việt cộng) với phe kia (Việt quốc). Tất cả đều là sự thất bại và nỗi ô nhục chung của người Việt Nam, thuộc các bên tham chiến, vì đã tri tình (Việt cộng) hay ngay tình (Việt quốc) phải làm công cụ chiến lược một thời (Chiến tranh ý thức hệ toàn cầu) cho ngoại bang.
Thiết tưởng, đúng ra đảng Cộng sản Việt Nam nắm quyền 43 năm qua, phải sớm nhìn ra thực chất cuộc chiến tranh “Cốt nhục tương tàn” này, để có hành động khác hơn hầu cải sửa lại những sai lầm quá khứ; khi mù quáng tin theo chủ nghĩa cộng sản không tưởng; phát động cuộc chiến tranh cộng sản hóa Miền Nam với cái giá núi xương, sống máu dân Việt; đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội thất bại, để lại hậu quả nghiêm trọng, toàn diện và di hại lâu dài cho dân tộc và đất nước. Chúng tôi ước mong những người lãnh đạo đảng và nhà cầm quyền Việt Nam hiện nay cần suy nghĩ lại để có hành động thức thời có lợi cho dân cho nước, cho các thế hệ Việt Nam hiện tại cũng như mai sau.

Houston, ngày 4-2-2018
Thiện Ý
phai  
#5 Đã gửi : 05/02/2018 lúc 09:55:26(UTC)
phai

Danh hiệu: Moderate

Nhóm: Registered
Gia nhập: 21-02-2012(UTC)
Bài viết: 13,123

Cảm ơn: 4 lần
Được cảm ơn: 3 lần trong 3 bài viết
Rồi Tết lại đến!

Thấy có nắng, Vinh trải cái nóp lên trên băng ghế ngồi lái ghe, để phơi cho khô.Sương xuống suốt đêm hôm qua,thấm vào cọng bàng dệt nóp, ướt đẫm cả mảng lớn, thành màu thâm nâu nâu.Người lớn lên với đời sống không thiếu thốn phương tiện hay chỉ ở tỉnh thành, đô thị, rất hiếm dịp biết qua cái “nóp”và cỏ “bàng”.
Bàng là loại cỏ cao hơn cả mét, chỉ có ở miền Tây, mọc nơi đất ngập nước phèn chua, nhiễm mặn như vùng Nhà Bàng – Thất Sơn,Cà Mau, Hà Tiên… Trái lại, cỏ Lác (người miền Bắc gọi là Cói) mọckhắpBắc, Trung, Nam; từ vùng sông Hồng, Ninh Bình, Nam Định, Hà Nam, xuống Đồng Tháp Mười ở miền Nam.SợiLác bán có giá hơn cỏ Bàng,thường dùng dệt chiếu.
Dân miền Tây, đồng bằng sông Cửu Long, lấy cỏ bàng đập dẹp phơi khô, đan thành những vật dụng như túi xách, đệm… Tấm đệm cóhình vuông, mỗi cạnh 1,7 mét. Đệm bàng rẻ tiền, nhưng có đặc điểm dai mềm hơn manh chiếu lác,thường dùng cho công việc tạp nhạp ngoài đồng áng.
Chừa ba tấc, gắp phần đệm còn lại làm đôi, rồi may kín hai đầu, để trống một cạnh dài, tấm đệm bây giờ trônggiống cái bao thư lớn, gọi là cái “nóp”. Sau khi chui vào nóp nằm, người ta tự kéo mép dư chèn xuống lưng, thành cái túi ngủ kín cả bốn phía, muỗi không chui vô được và kim của chúng nó không thể nào đâm thủng lớp đệm bằng cỏ bàng. Chưa quen ngủ trong nóp, cảm thấy bị ngộp hơi.Tuy vậy, một lúc sau rồi quen, hơi thở dễ chịu hơn.Nóp “hai đệm” được dệt rộng hơn, chừa mép bằng chiều ngang; để khi chèn mép vào hết bên dưới lưng, người ta được nằm trên hai lớp đệm, cảm thấy êm và ấm lưng hơn.
Còn có loại “nóp đôi”, cho hai người ngủchung.Thường thì, chỉ có vợ chồng mới chịu hao tốn hay chịu khó quảytheo cái nóp cồng kềnh gắp đôi và chịu ngủ chung đụng với nhau. Hai người ngủ chung “nóp đôi” mà loại “hai đệm”,có cái thú vị riêng, nhưng cần khéo léo hơn; cả hai phảiđồng lòng, nương chìu nhau, cùng lăn, cùng trở,…mớiluồn trọn vẹn phần mép nóp vào bên dưới lưng cho cả hai. Cho dù nằm dưới mái lá trống bốn bề hay giữa trời đầy sao, bên trong nóp vẫn thấy kín bưng; một thế giới riêng tư của cả hai…
Nóp là mùng và là chiếu, cũng là lều của đồng bào miền Tây, của dân nghèo; được dùng từ trên đất bờ, ruộng đồng, xuống ghe thuyền lênh đênh theo dòng sông, con rạch.Có hơn cả trăm năm, nóp đã là bạn đồng hành không thể thiếu của người dân vùng đồng bằng sông Cửu Long, nhất là những nơi hoang dã nhiều muỗi, mòng, rắn, rết,…nơi người dân không khả năng mua sắm mùng, hay vì sinh kế khổ cựcphải nay đây-mai đó, ngủ lây lất chốn hoang dã với màn trời-chiếu đất,…
Thường thì Vinh chỉ cần nằm trên băng ghế, trùm qua cái mền là ngủ được.Thế nhưng, khởi từ đêm 28 Tết, chẳng biết chúng nó âm mưu và tụ tập nhau từ lúc nào, muỗicả đám cả đàn,kéo về khu bến tàu này.Mấy đêm nay muỗi nhiều quá,chúng tìm mọi kẻ hở và các chỗ da thịt sát với mền để châm chích, nên Vinh phải chui vào nóp mà ngủ.Từ lúc trời mới chạng vạng, muỗi đã túa ra, vi veo inh ỏi gọi nhau bay đi kiếm ăn. Muỗi nơi đây thô kệch, chớ không thanh nhã, mềm yếu, ẻo lả… như muỗi tỉnh thành, muỗi Sài Gòn; đã thế, chúng nólại rất hung hăng, tàn bạo như loài quỉ đỏ khát máu.
Vũ cũng thức rồi, leo lên đứng bên trên hầm máy, ló người qua mui tàu, đốt thuốc hút, nhìn quanh quẩn một lúc:
– Ê, vắng quá há mậy!
Vinh ngó lòng vòng từ trên bến tàu xuống dòng sông, rồi lừng khừng nói theo bạn mình:
– Ừ,… vắng thiệt…!
Bến tàu vắng lặng thật!
Không chuyến đi, không chuyến về, như thường ngày.Thường ngày, bến tàu ồn ào gần như suốt cả ngày đêm: tiếng máy tàu, tiếng người, tiếng hàng chuyển lên nhà máy, tiếng thùng khôngkéoxuống,…Trưa hôm qua, chuyến chở hàng về của ghe chú Tài là chuyến cuối cùng trong năm. Sau đó, các quan thầy cùng nhân viên bắt đầu rỗi rãi, thảnh thơi ăn nhậu “Tất Niên”, tà tà chohết ngày 30. Ngày Tết,văn phòng, công ty đóng cửa nghỉ Tết. Ghe chở hàng cũng nghỉ Tết.Nhân dịp này, ghe tàu chở hàng chạy về quê nhà hay bến quen của mình, để đón Giao Thừa, ăn Tết với thân quyến, bạn bè. Mấy chiếc từ xa xuống đây làm ăn, như ghe của Vũ, thì nằm lại bên bến của công ty. Hai đứa lẩn quẩn ở đây để coi chừng ghe; đểlắm lúc bâng khuâng, nghe lòng mình bùi ngùi:xuân này vắng nhà!
Chiều 30, chợ tan sớm. Mấy chiếc xuồng con con lấp lửng mặt nước, chở dưa hấu, chở mấy chậu hoa cúc, hoa vạn thọ,…các thứ bán không hết về nhà. Trời về chiều u buồn,càng buồn thảmhơn cho cảnh buôn bán ế ẩm…
Đêm hôm qua, đêm Giao Thừa trong âm thầm, vắng lặng; không tiếng pháo đón mừng Xuân sang, như những ngày Xuântrước đây, trướcTết Mậu Thân.
TếtMậu Thân, năm 1968, cộng sản xua quân tấn công miền Nam, gieo tang tóc khắp nơi nơi, nhất là thảm sát vô cùng man rợ ở Huế. Bây giờ, cộng sản chiếm được miền Nam, nhưng không bao giờ chiếm được lòng người.Thừa biết lòng dân căm thù cộng sản, cho nên chúng nó cứ nơm nớp sợ hãi mọi người và mọi thứ chung quanh, sợcả tiếng pháo nổ.
Rồi Tết lại đến!
Sáng nay, ngày Đầu Năm, không mấy ai muốn nhóm chợ.Nãy giờ, lèo tèo vài chiếc xuồng chèo ra hướng chợ, nhưng không thấy chở theohàng hóa để bán buôn chi cả, chắc người ta chỉ đi đâu đó.
Sông nước tĩnh lặng.Nước vào đầy sông.Dòng sông lững lờ, ngừngtrôi chảy, trông như mặt hồ, như dòng sông Hương của Huế.
“Hò lơ ơ ơ ….. consông dùng dằng, con sông chảy,
Sông chảy vào lòng,… ơ… ơ…
Hò ơ…Sông chảy vào lòng, nên Huế rất sâu…ơ… hò…”
Con sông dùng dằng. Người muốn rời Huế,dùng dằng không điđược!
Sông chảy vào lòng sông như sông chảy vào lòng người.Mà lòng người Huế thì rất sâu, rất đậm trong vui buồn, trong nhung nhớ, trong yêu thương!
Để rồi, từ sau Tết năm Mậu Thân, ở Huế, câu hò còn làm người ta liên tưởng: còn xác người bị thảm sát mà chưa được vớt lên, làm cho con sông dùng dằng, quyến luyến, không muốn chảy qua? Linh hồn người chết oan, chết thảm hồi Tết năm 68 chưa siêu thoát được, làm cho dòng nước khi chảy qua đó, bỗng tiếc thương, ngại ngùng, không muốn trôi?!
Sông Hương có hai nhánh sông, thường gọi là Tả Trạch và Hữu Trạch,nhập vào nhau phía trước lăngvua Minh Mạng, chỗ có bến đò Tuần. Nơi hai nhánh sông Hương gặp nhau, lưu lượng hợp lại làm cho dòng nướcchảy mạnh hơn, lượn theo hướng tây-nam lên đông-bắc. Thế nhưng, chưa được bao xa, thì khúc sông gần chùa Linh Mụ gặp đồi Hà Khê ngăn chận. Bị ngăn chận,con sông đổi hướng, quanh sang phía tây-đông. Cũng vì đồi Hà Khê chận dòng nước, đoạnsông này không còn chảy mạnh như trước.Nhưng qua khỏi Hà Khê thì sông Hương lại rộng hẳn ra, gần gấp đôi, đủ chứa hết lượng nước qua khỏi khúc quanh Hà Khê mà tràn vào.Do sức chứa của khúc sông rộng, làm cho nước chảy chậm lại hơn. Rồi dòng nước lại gặp cồn Giả Viên;bị ngăn thêm một lần nữa:dòng nước càngchậm, êm ả. Khi sông Hương chảy ngang trước Thành Huế, sông chảy lờ đờ. Đã thế,dòng nước lại còn phải đụng nhằm Cồn Hến, nước sông dồn ứ lại.Thành ra, đoạn sông Hương ở cầu Trường Tiền, nước chảy chậm lắm, gần như không nhìn thấy, cứ tưởng làdòng sông đứng yên một chỗ, trông giống cái hồ lớn rộng, thật yên bình…
Qua khỏi cồn Hến, sông Hương lại quanh quặt về hướng tây-bắc, hai nhánh sông Hương nhập lại.Vùng đất nơi đây là đất bồi, rất tốt, gọi là Bãi Dâu.

Bãi Dâu, Gia Hội là hai địa danh có nhiều hầm hố chôn người tập thể nhất.
Riêng Bãi Dâu, đã bị quân cộng sản biến thành bãi tha ma; hàng trăm người bị bọn cờ đỏ, băng đỏ tàn sát, bị chôn sống ở đó. Thảm sát ở Bãi Dâu, tội ác của cộng sản, ghi khắc muôn đời trong những trang lịch sử tang thương, trong lòng người,… trong cả lời ca của Trịnh Công Sơn, tên mà người dân oán hận cộng sản đã không cònmuốn thấy hay nghe nhắc đến tên:
“Chiều đi qua Bãi Dâu,hát trên những xác người.
Tôi đã thấy, tôi đã thấy,những hố hầm đã chôn vùi thân xác anh em.”
Phản bội hiệp ước đình chiến Tết Mậu Thân, quân cộng sản tấn công nhiều thành phố và địa phương trên miền Nam Việt Nam – trong đó có Sài Gòn và Huế.
Huế bị tang thương nhất!
Đêm Mồng Một Tết Mậu Thân 1968, cộng quân tràn vào thành phố Huế và chiếm đóng suốt 25 ngày đêm; chúng đã biến Huế thành địa ngục trần gian. Bọn nằm vùng cùng những tên đi theo cộng sản trở lại Huế, có nhiều cơ hội, cónhiều thời gian, để lùng bắt và giết tất cả những người, những gia đình mà chúng nó không ưa thích hay cho là thù địch của đảng.
Chỉ một đoạn ngắn trong Hồi Ký “Giải Khăn Sô Cho Huế” của Nhã Ca, người ta đã đủ phải kinh khiếp trước cáidã man của những kẻ xưng danh là “giải phóng” tàn sát đồng bào mình:
“Chính trong thế hệ chúng ta đây, đã có Đoan, một cô bạn học cùng lớp với tôi ngày nào, đang ngồi trên ghế đại học ở Sàigòn, bỗng về Huế, đeo băng đỏ nơi tay, dát súng lục bên hong, hăng hái đi lùng người này, bắt người khác, để trở thành một nữ hung thần trên cơn hấp hối của Huế.
Chính trong thế hệ chúng ta đây, đã có Đắc một sinh viên trẻ trung, hăng hái. Thời trước Đắc làm thơ, Đắc tranh đấu, rồi bỏ ra khu. Để rồi trở lại Huế lập những phiên tòa nhân dân, kêu án tử hình hàng loạt người, rồi đích tay đào một cái hố, bắt một bạn học cũ có xích mích từ trước ra đứng bên hố, để xử tử. Cậu bạn của Đắc, tên Mậu Tý, dơ cái băng đỏ dấu hiệu giải phóng quân lên cao, lạy van Đắc :
– Em lạy anh. Bây giờ em theo các anh rồi mà. Em có mang băng đỏ rồi mà. Cách mạng muôn năm… Hồ chủ tịch muôn năm.
Nhưng mặc Mậu Tý năn nỉ, hoan hô, Đắc vẫn nhất định nổ súng vào người bạn nhỏ….”
Tên Đoan mà Nhã Ca nhắc đến, chính làNguyễn Thị Đoan Trinh.Trinh là con gái của Nguyễn Đóa, là sinh viên Dược-Sài Gòn, về Huế ăn Tết. Còn tên Đắc, chính là Nguyễn Đắc Xuân. Xuân là sinh viên Sư Phạm, theo quân cộng sản. Tết Mậu Thân, trở về Huế, chỉ huy các cái như: Lực lượng Học sinh, Sinh viên Giải phóng Huế… Đồng thời, Xuân cùng với Hoàng Phủ Ngọc Phan chỉ huy các Đoàn Thanh niên Võ trang An ninh Bảo vệ Khu phố (các Đội Tự vệ Thành). Lực lượng man rợ này đã gieo tang tóc kinh hoàng cho dân Huế trong hơn ba tuần lễ chúng chiếm thành phố Huế. Xuân và Phan còn dự phần xét xử trong cái gọi là “Tòa án Nhân dân” do Hoàng Phủ Ngọc Tường chủ tọa và quân “giãi phóng” đã kết án tử hình hàng trăm người dân Huế…
Sau Tết Mậu Thân, đến khoảng rằm tháng Giêng, tình hình ở Sài Gòn và hầu hết các thành phố khác ở miền Nam bắt đầu có phần ổn định hơn. Tổng nha Thanh niên kêu gọi tham gia cứu trợ đồng bào Huế, chủ yếu là giúp tìm xác trong các hố hầm chôn người tập thể của quân cộng sản.Lúc đó, thành phố Huế nhiều nơi vẫn còn bị cộng sản chiếm giữ, chưa thật sự an ninh. Đến cuối tháng Giêng, tình hình Huếan ninh hơn,chương trình cứu trợ được xúc tiến.
Vì hoàn cảnh dân chúng ở Huế, mới vừa thoát khỏi thảm nạn cộng sản, thiếu hụt mọi bề, nhất là thực phẩm… địa phương chỉ lo cho đoàn cứu trợ có nơi trú ngụ tạm thời, chính phủ giúp phương tiện di chuyển. Thiện nguyện viên phải tựmang theogạo, mì khô, đồ hộp…. Mỗi người mang theo hai ba-lô, đeo sau lưng và cả trước ngực; gồm lương thực, vật dụng cá nhân cho mình trong hai tuần.
Máy bay C130 chở 100 người tình nguyện đáp xuống phi trường Phú Bài, thì có đoàn xe GMC chở vào thành phố Huế, đưa tất cảvề ở trong Cercle Nautique de Huế, gần chợ Đông Ba; đây là Câu lạc bộ về các bộ môn thể thao dưới nước nên được xây cấtsát bờ sông Hương.
Ai ơi có nhớ, nhớ về xứ Huế.
Đây quê hương: núi Ngự, sông Hương,
Sóng lưu tình đôi bờ thương nhớ,
Cầu Trường Tiền: lắm nhịp yêu thương.
Huế:núi Ngự, sông Hương, áo tím Đồng Khánh cùng tà áo dài trắng thướt tha, giờ tan trường trên trên các nhịp cầuTrường Tiền… Huế đã đi vào thơ văn, đã làm xao xuyến lòng người. Nét đẹp, hồn thơ của Huế còn mãi đó với thời gian.
Huế: duyên dáng, yêu kiều, ngẩn ngơ, mộng mơ,…thơ thẩn người đi, chân bước không đành.
Một tiếng dạ! Huế ơi, lòng xao xuyến,
Tà áo dài tha thướt ướt hoàng hôn.
Mùa Xuân miền Trung năm này lạnh.Mỗi người được một cái mền mới,loại dùng tạm thời của quân đội Mỹ; tuy làm bằng hỗn hợp giấy,mền cũng đủ ấm và bền đến cả tháng.
Sau khi được các giới chức có trách nhiệm đến thăm chào, tiếp nhận và thuyết tình tổng quát về tình hình ở địa phương, mỗi người được cấp cho bảng tên đeo trên ngực “Đoàn Cứu Trợ- Tổng Nha Thanh Niên” và chính thức nhận việc.
Đây, Huế!
Huế bây giờ hãy còn đầy thê lương, tang tóc… trong hơi thở, trong ánh mắt của mọi người.
UserPostedImage
Đây, cầu Trường Tiền!
Cầu Trường Tiền bây giờ nằmgãy gục xuốngdòng sông Hương, như thi thể những nạn nhân cong vẹo trong các hố chôn người của cộng sản.Chúng nó đã nhẫn tâm tàn sát dân lành một cách vô cùng man rợ và còn giật sập cầu Trường Tiền. Cầu Trường Tiền là phương tiện lưu thông giữa hai miền tả ngạn và hữu ngạn sông Hương, đoạn chảy ngang thành phố Huế.Cầu Trường Tiền còn là biểu tượng thân yêu của Huế.Sau thảm sát Tết Mậu Thân 68, nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng đã khóc thương cho Huế qua bài “Chuyện Một Chiếc Cầu Đã Gãy”:
“Tình người về giữa đêm xuân chưa dứt cuộc vui
Giặc đã qua đây gây cảnh nổi trôi.
Cầu thân ái đêm nay gãy một nhịp rồi
Nón lá sầu khóc điệu Nam Ai tiếc thương lời vắn dài
Vì sao không thương mến nhau còn gây khổ đau làm lỡ nhịp cầu
Mối thù chờ sang ngày nào nối lại nhịp cầu rửa hờn cho nhau”.
Lúc này, Công binh của quân lực miền Nam đã bắt hai cây cầu tạm.Tuy chỉmột lối đi bộ hẹp trên mỗi chiều, nhưng giúp nối liền hai bên bờ sông Hương.
Qua bên kia bờ sông Hương, qua cầu Đông Ba, khỏi ngã ba Nguyễn Du, đoàn Cứu Trợqua thêm hai ngã ba đường lớn, bên phải gặp Trường Trung học Gia Hội;đi xéo phía trước thêm chút là đến Tăng Quang Tự, còn được gọi là Chùa Áo Vàng, tọa lạc bên trái con đường.
Trong sân chùa và trường học,một số hầm hố chôn người đã phát hiện và đang khai quật.Thân nhân cùng dân chúng đào xới đất, để tìm thi thể nạn nhân bị vùi dập trong đó.Tình người, tình đồng bào, đã giúp cho những người dù không phải là thân quyến, không còn e dè trước mùitử thi đậm đặc trong không khí.
Hầu hết, nạn nhân bị cộng sản giết bằng cách đập vỡ đầu với các vật cứng như xẻng đào đất, hay bịxô đạp cho rớt chúi xuống hố rồibị chôn sống. Trong số những người bị chôn có chị Tâm Tuý, cô bạn trường Đồng Khánh của nhà văn Nhã Ca:
“Khi xác được đào lên, thấy tóc mọc dài hơn, móng tay mọc dài hơn.Bạn tôi bị chôn sống khi còn đầy sức sống, như nhiều nạn nhân khác.”
Xác còn bị trói ghịt hai tay và cột nối với nhau thànhtừng xâu 10 đến 12 người, bằng các thứ dây oan nghiệt: dây điện thoại, dây kẻm gai sắc nhọn, …Trong đất bùn nhầy nhụa có xác thịt con người bất hạnh bị rữa nát, có mảng xương sọ còn lọn tóc rối nùi dính theo. Xác gồm thanh niên, sinh viên, học sinh,đàn ông, phụ nữ và cả trẻ em.Thi thể nạn nhân đủ các dạng nằm, ngồi, cong queo, gãy gập….
Cảnh tượng vô cùng thương tâm!
Cho dù đã được nghe biết trước, tất cả những thảm thương trước mắt và quanh mình là nỗi kinh hoàng không sao ghi trọn vẹn bằng ngôn ngữ!
Huế chưa thật sự an bình. Thành phố còn trong luật giới nghiêm từ 2 giờ trưa đến 8 giờ sáng hôm sau. Đếngiờ giới nghiêm, dân chúng cùng thân quyến tìm được xác người thân hay chưa đều phải về nhà. Những người có trách nhiệm được ở lại, tiếp tục công cuộc đào xới, cắt bỏ dây trói,…đem thi thể nạn nhân lên trên mặt đất. Các di vật may mắn tìm thấy, được bao bọc thận trọng, rồi đặt bên cạnh đầu nạn nhân; hầu giúp thân quyến dễnhận xác. Đến khoảng 4 giờ chiều, tất cả mọi người mới nghỉ việc đểtrở về nơi tạm trú.
Nhúng áo quần đã mặc đi đào xác vào chảo nước sôi lớn có pha xà bông bột, đặt ngoài sân; khói lửa cùng hơi nướctừ các bộ áo quần trong chảo bốc lên mù mù. Nước sôi, rồi nước sông Hương;giặc giũ mãi, mùi xác chết vẫn còn đó, còn ướp đậm trong từng sợi vải.
Công tác giúp đồng bào Huế tìm xác thân nhân qua hơn hai tuần dự trù, phải thêm tuần thứ ba mới tạm gọi là xong.…
Hàng ngàn dân Huế bị chôn vùi; không chỉ trong núi trong rừng, nơi họ bị chôn còn là đất chùa, đất nhà thờ, đất trường học, và ngay tại vườn nhà… Khu chôn người tập thể ở trường trung học Gia Hội và chùa Áo Vàngchỉ là 2 trong hơn 20 địa điểm chính có hầm hố chôn người tập thể ở Huế, như: Tiểu chủng viện, cửa Đông Ba, Cồn Hến, Nam Giao, Phú Xuân, cạnh Lăng các vua, khu vực Dòng Thiên An, Phú Xuân, Phù Lương, làng Châu Chữ, câu An Ninh, trường An Ninh Hạ, Chợ Thông, gần chùa Linh Mụ, truờng Văn Chí, Phú Thứ, Tiên Nộn, Đồng Di, Tây Hồ, Khe Đá Mài, Khe Lụ, sau làng Đình Môn…
Huế!
Mậu Thân 1968!
Nơi đây, “tôi đã thấy, tôi đã thấy”: những hố hầm cộng sản đã chôn vùi thân xác anh em, thân xác đồng bào vô tội.
Nơi đây,không ai“hát trên xác người”, chỉ nghe vang dậy tiếng kêu gào thảm thiết!
Huế! Thảm sát Mậu Thân68!
Vòng khăn sô, nước mắtuất hận cònâm ỉ mãi mãi trong lòng người!
UserPostedImage

UserPostedImage
Rồi Tết lại đến!
Trống vắngdễ gợi nhắc dĩ vãng thương tâm.Muốn tìm cái gì đó sinh động hơn, cho khuây khỏadòng ký ức vẫn còn thao thức, Vinh lên tiếng:
– Tao đi lấy nước, nấu chút nước sôi…
Vinh nói với Vũ, rồi bước xuống phía sau đuôi ghe lấy cái ấm trong góc bếp, đi ra thùng nước ngọt phía trước mũi để lấy nước. Nghe vậy, Vũ rút người xuống mui, soạn ly tách, chuẩn bị pha trà để cúng và cà phê cho hai đứa.
Sắp bánh, châm trà cúng xong, cà phê cũng sẵn sàng. Hai đứa dựa lưng vào vách mui, nhâm nhi mùi thơm vị đắng của cà phê, cà phê sáng sớm. Bây giờ, trong lúc mọi thứ bị khan hiếm dưới chế độ cai trị khắc nghiệt của cộng sản, cái chất đắng ấy không biết chắc là từ những gì. Thế nhưng, may mắn có cà phê như thế này, đời còn ấp áp và hương vị lắm.
Nghe có tiếng tàu đánh cá lớnchạy tới, Vinh ngó Vũcó ý dò hỏi:
– Tụi nó?!
Vũ gật đầu, vói tay kéo mở cửa sổđể hai đứa nhìn ra ngoài sông.Và cái khối gỗ to dềnh dàng màu xám tro vẹt nước phóng ào qua khung cửa sổ nhỏ. Vũ buột miệng:
– Mẹ! bọn…
Ghe tàu nằm san sát nhau, bên này nghe bên kia, Vũ nén giậnbỏ lửng câu nói, rồibực dọc kéo cửa đóng lại, ngồi tư lự hút thuốc.
Đúng như cả hai đã đoán biết.Không ai đi đánh cá sáng Mồng Một Tết. Không cần biết lai lịch chiếc tàu đánh cá màu xám tro này, cũng đoán ra là tàu đánh cá trá hình của công an biên phòng.Chiếc tàu này không xa lạ gì với dân địa phương, nhất là với Vũ và Vinh.Đêm cuối tháng Tư năm trước,công an trên tàu này đã hung hăng bắn chận ghe của hai đứa,hống hách tràn qua lục xét ghe xong, lại bắt phải chạy theo giúp chúng nó lùng kiếm chiếc ghe vượt biển đang còn trốn lánh đâu đó trong vùng. May nhờcó trách nhiệm vận chuyển tôm tươi, mới được chúng nó cho chạy ghe về công ty để giao hàng…
Sáng nay, tàu “đánh cá”của công an biên phòng phóng ra cửa biển, chắc cũng là để tìm bắt ghe thuyền vượt biển tìm tự do.
Máy tàu chúng nó mạnh lắm, cuộn sóng dậy đì đùng.Vũ và Vinh cầm lấy ly của mình lên, giữ cho cà phê đừng bị sóng làm đổ tạt ra ngoài.Và sóng ào ào đùa vào tới,xô đập và nhồi lắc các chiếc ghe thuyềnnằm cập bến tàu nghiêng ngả dữ dội một lúc lâu.
Hai đứa ngồi lặng yên.
Dòng nước bây giờ hãy còn lặng yên,như lòng người còn dùng dằng, nấn ná, chưa muốn ra biển, xa rời dòng sông quê hương.
Mậu Thân 1968 – Mậu Tuất 2018
Đã 50 năm qua, nhưng ký ức không thể phai mờ!
Bùi Đức Tính

song  
#6 Đã gửi : 05/02/2018 lúc 06:40:57(UTC)
song

Danh hiệu: Moderate

Nhóm: Registered
Gia nhập: 21-02-2012(UTC)
Bài viết: 24,685

Cảm ơn: 1 lần
Được cảm ơn: 2 lần trong 2 bài viết
Mật lệnh tấn công tết Mậu Thân

Tại Bắc Việt Nam (BVN), từ tháng 8 đến tháng 12-1967, Hồ Chí Minh (HCM) không xuất hiện trước dân chúng. Nhiều dư luận đồn đoán rằng HCM đã chết. 


Bất ngờ, vào dịp hai ngày lễ lớn ở BVN năm 1967 là lễ kỷ niệm 21 năm ngày “Toàn quốc kháng chiến” [19-12-1946] và lễ kỷ niệm 23 năm ngày thành lập “Quân đội nhân dân” [22-12-1944], HCM xuất hiện tại trụ sở quốc hội vào ngày 23-12-1967, trong y phục của một viên chỉ huy tối cao, nói chuyện khoảng 9 phút và đưa ra lời kêu gọi toàn dân Việt Nam, hãy đứng lên lập kỳ công chống “đế quốc Mỹ”, và tạo thêm nhiều chiến công trong dịp năm mới.



Sau buổi lễ, nhật báo Nhân Dân của đảng Lao Động, bình luận rằng bài nói chuyện của HCM là “một mệnh lệnh tiến lên con đường vinh quang và là dấu hiệu của một đợt tấn công mới.” Báo Quân Đội Nhân Dân thì viết rằng “những lời nói của bác Hồ như tiếng kèn báo hiệu trận đánh.” (Don Oberdorfer, TET, New York: A Da Capo Paperback, 1971, tt. 66-67.) 


1. Thơ chúc tết


Nhân dịp năm mới dương lịch 1968, HCM gởi đến ngoại giao đoàn ở Hà Nội, cùng nhân viên cao cấp của đảng Lao Động và nhà nước BVN ngày thứ Bảy 30-12-1967, một thiệp chúc Tết màu hồng, trên đó có in bài thơ “Mừng xuân 1968” của HCM. Bài thơ nầy còn được phổ biến trên báo chí và trên đài phát thanh Hà Nội vào ngày Tết dương lịch năm đó (1-1-1968).


Sau Tết dương lịch, đến Tết âm lịch. Đúng Giao thừa Tết âm lịch Mậu Thân theo lịch mới soạn ở BVN, tối Chủ Nhật 28-1-1968, rạng thứ Hai 29-1-1968, bài thơ “Mừng xuân 1968” do chính HCM đọc, được phát lại trên đài phát thanh Hà Nội như sau:


“Xuân nầy hơn hẳn mấy xuân qua,
Thắng trận tin vui khắp mọi nhà.
Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ,
Tiến lên!
Toàn thắng ắt về ta.”


(Hồ Chí Minh toàn tập tập 12, Hà Nội: Nxb. Chính Trị Quốc Gia, xuất bản lần thứ hai, 2000, tt. 333-334.)


Theo âm lịch mới được Nha Khí tượng Hà Nội vâng lệnh nhà cầm quyền đảng Lao Đông sửa đổi, thì tháng Chạp (tháng 12) năm Đinh Mùi chỉ có 29, ngày, tức tháng Chạp thiếu. Hôm sau là ngày Mồng Một tháng Giêng tức mồng Một Tết năm Mậu Thân. So với dương lịch, mồng Một Tết Mậu Thân ở BVN là ngày thứ Hai 29-1-1968, còn mồng Một Tết Mậu Thân ở Nam Việt Nam (NVN) vẫn theo lịch cũ là ngày thứ Ba 30-1-1968.


2. Mật lệnh tấn công


Đêm Giao thừa Tết âm lịch Mậu Thân theo lịch mới soạn lại ở BVN, tức đêm 29 tháng chạp năm Đinh Mùi, rạng mồng 1 Tết Mậu Thân ở BVN (đêm 28-1-1968, rạng 29-1-1968), HCM đang ở Bắc Kinh (Trung Cộng). Bài thơ “Mừng xuân 1968” do HCM đọc và thu âm trước đó khi còn ở Hà Nội, được phát lại trên đài phát thanh Hà Nội vào đêm Giao thừa ở BVN. 


Khi đọc đến câu thơ chót (Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta), HCM đã dùng hết sức hét lên thật to, rất khác thường hai chữ “Tiến lên!”. Đài phát thanh Hà Nội lâp đi lập lại nhiều lần bài thơ nầy, từ đêm Giao thừa đến suốt ngày mồng Một Tết âm lịch ở BVN (thứ Hai 29-1-1968).


Ngày mồng Một Tết âm lịch năm Mậu Thân ở BVN là ngày 30 tháng chạp năm Đinh Mùi (30 Tết) ở NVN. Trong suốt ngày 30 Tết hôm đó theo lịch NVN, bộ đội CS ở khắp nơi trên lãnh thổ NVN đều nghe bài thơ nầy. Vì bài thơ đã được phổ biến trên đài phát thanh và báo chí Hà Nội từ Tết dương lịch (1-1-1968), và vì HCM có thói quen làm thơ chúc Tết hằng năm, nên ít được các giới chức ở NVN chú ý.


Đêm 30 tháng chạp năm Đinh Mùi (30 Tết) hay đêm Giao thừa ở NVN, CS vi phạm lời tuyên bố hưu chiến, bất ngờ mở cuộc tấn công vào các thanh phố ở NVN. Trước giờ xuất phát cuộc tấn công, các cấp chỉ huy bộ đội CS đọc nhật lệnh của bộ Tư lệnh các Lực lượng Võ trang Mặt Trận Dân Tộc Giải Phòng (MTDTGP), trong đó câu đầu tiên xác định bài thơ chúc Tết của HCM là lệnh xuất quân cuộc tổng tấn công của CS. 


Khi đó, người ta mới phát hiện bài thơ chúc Tết của HCM được đảng Lao Động dùng làm mật khẩu ra lệnh bộ đội CS tổng tấn công ở NVN và được truyền qua đài phát thanh Hà Nội vì công suất đài phát thanh Hà Nội khá mạnh, nên trên toàn lãnh thổ NVN, bộ đội CS đều nghe mật lệnh xuất quân tấn công đêm Giao thừa ở NVN, tức đêm 29 rạng 30-1-1968.


Việc dùng thơ văn để làm hiệu lệnh quân sự đã từng được quân đội Đồng Minh dùng đến khi phản công quân đội Đức trong cuộc đổ bộ vào bờ biển Normandie (Pháp) vào ngày 6-6-1945 (Ngày dài nhất). Bài thơ hiệu lệnh của quân Đồng minh là bài “Chanson d’automne” của Paul Verlaine (1844-1896), nhà thơ người Pháp (Cornelius Ryan, The longest Day, Nxb. Fawcett, Greenwich, Connecticut, 1959, tr. 33.)


Rất tiếc người viết không tìm được nguyên văn tiếng Việt bản nhật lệnh nầy. Những tài liệu chiến tranh liên quan đến MTDTGP đều đã bị đảng CS thủ tiêu khi giải tán mặt trận nầy vào năm 1976, nhằm xóa bỏ hẳn vết tích hoạt động của mặt trận tay sai, một mình giành lấy thành tích.


3. Nhật lệnh tấn công của Cộng sản


Bản nhật lệnh của bộ Tư lệnh các Lực lượng Võ trang MTDTGP, được quân đội Hoa Kỳ phát hiện, và tác giả Douglas Pike dịch qua Anh ngữ, đăng trong bài “The 1968 Viet Cong Lunar New Year Offensive in South Vietnam” [Cuộc tấn công Tết âm lịch năm 1968 của Việt Cộng ở Nam Việt Nam], do phái bộ Hoa Kỳ tại Sài Gòn phát hành ngày 14-2-1968. Bản dịch của Douglas Pike được đăng lại trong Don Oberdorfer, sđd., tt.75-76 và chú thích tr. 359. Sau đây là nguyên văn bản dịch Anh ngữ của Douglas Pike:


ORDER OF THE DAY OF THE HEAD QUARTERS,
ALL SOUTH VIETNAM LIBERATION ARMED FORCES


To all cadres and combatants,


"Move forward to achieve final victory."


The Tet greeting of Chairman Ho is actually a combat order for our entire Army and population.


And in compliance with the attack order of the Presidium, Central Committee, South Vietnam Liberation Front, all cadres and combatants of all South Vietnam Liberation Armed Forces should move forward to carry out direct attacks on all the headquarters of the enemy, to disrupt the United States imperialists' will for aggression and to smash the Puppet Government and Puppet Army, the lackeys of the United States, restore power to the people, completely liberate the 14,000,000 people of South Vietnam, fulfill our revolutionary task of establishing democracy throughout the country.


It will the greatest battle ever fought throughout the history of our country. It will bring forth world-wide change but will also require many sacrifices. It will decide the fate and survival of our Fatherland and will shake the world and cause the most bitter failure to the imperialist ringleaders.


Our country has a history of 4,000 years of fighting and defeating foreign aggression, particularly glorious battles such as Bach Dang, Chi Lang, Dong Da and Dien Bien Phu. We defeated the special war and we are defeating the limited war of the Americans. We resolutely move forward to completely defeat the American aggressors in order to restore independence and liberty in our country.


Dear comrades,


It is evident that the American aggressors are losing.


The call for assault to achieve independence and liberty has sounded.


The Truong Son [the Annamite mountains] and the Mekong River are moving.


You, comrades, should act as heroes of Vietnam and with the spirit and pride of combatants of the Liberation Army.


The final victory will be with us.


Người viết xin tạm dịch lại nhật lệnh nầy từ bản tiếng Anh của Douglas Pike để làm tài liệu tham khảo, chỉ có thể giữ đại ý mà không phải là nguyên văn. Trong khi dịch, người viết sử dụng từ ngữ và cách hành văn theo lối CS vào lúc đó. Câu thơ chúc Tết của HCM thì dùng nguyên bản tiếng Việt.


NHẬT LỆNH CỦA BỘ TƯ LỆNH
CÁC LỰC LƯỢNG VÕ TRANG GIẢI PHÓNG MIỀN NAM


Hỡi cán bộ và chiến sĩ các cấp, 


“Tiến lên toàn thắng ắt về ta.”


Lời chúc Tết của Hồ chủ tịch đích thực là một mệnh lệnh chiến đấu cho toàn thể Bộ đội và nhân dân.


Hưởng ứng lệnh tấn công của Chủ tịch đoàn, Trung ương cục, Mặt trận Giải phóng miền Nam, tất cả cán bộ và chiến sĩ của các Lực lượng Võ trang Mặt trận Giải phóng miền Nam hãy tiến lên tấn công thẳng vào các bộ chỉ huy địch, bẻ gãy ý đồ xâm lược của đế quốc Mỹ và đập tan ngụy quyền ngụy quân bù nhìn, tay sai của Mỹ, giành lai quyền cho nhân dân, giải phóng toàn bộ 14 triệu đồng bào miền Nam, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng là lập lại nền dân chủ trên cả nước.


Đây sẽ là trận chiến vĩ đại nhất trong suốt quá trình lịch sử nước ta. Nó sẽ làm thay đổi cả thế giới nhưng cũng đòi hỏi nhiều hy sinh. Nó sẽ quyết định vận mạng và sự sống còn của Tổ quốc, sẽ làm rung chuyển thế giới, và sẽ gây thất bại chua cay cho bọn đầu sỏ đế quốc.


Đất nước chúng ta có 4,000 năm lịch sử đánh và thắng ngoại xâm, đặc biệt là những chiến công lừng lẫy như Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa và Điện Biên Phủ. Chúng ta đã thắng cuộc chiến tranh đặc biệt và chúng ta đang thắng cuộc chiến tranh giới han của Mỹ. Chúng ta cương quyết tiến lên đánh bại hoàn toàn bọn xâm lược Mỹ để giành lại độc lập và tự do cho xứ sở.


Các đồng chí thân mến,


Rõ ràng là bọn xâm lược Mỹ đang thua.


Giờ tiến công để giành lại độc lập và tự do đã điểm.


Núi Trường Sơn và song Cửu Long đang chuyển mình.


Hỡi các đồng chí, hãy làm người hung Việt Nam với tinh thần và lòng kiêu hãnh củ chiến sĩ Bộ đội Giải phóng.


Thắng lợi cuối cùng ắt về ta.


Kết luận


Mở đầu nhật lệnh tấn công đêm Giao thừa Tết Mậu Thân ở NVN, bộ đôi CS xác nhận: “Lời chúc Tết của Hồ chủ tịch đích thực là một mệnh lệnh chiến đấu cho toàn thể Bộ đội và nhân dân.” Như thế, rõ ràng bài thơ chúc Tết mà HCM hét lên trong đêm Giao thừa trên đài phát thanh Hà Nội, chính là lệnh xuất quân tổng tấn công Tết Mậu Thân của bộ đội cộng sản ở NVN. 


Trước đây, trong bài thơ bằng chữ Nho (chữ Tàu) của HCM nhan đề là “Khán Thiên Gia Thi hữu cảm”, có hai câu được phiên âm như sau: “Hiện đại thi trung ưng hữu thiết / Thi gia dã yếu hội xung phong.” Tác giả Nam Trân dịch: “Nay ở trong thơ nên có thép, / Nhà thơ cũng phải biết xung phong,” (Cảnh Nguyên và Hồ Văn Sơn tuyển chọn, Thơ Hồ Chí Minh, Nxb. Nghệ An, 1995, tt 468-469.)


Bài thơ “Mừng xuân 1968” của HCM không phải chỉ có thép, có xung phong, mà còn có dao, có súng, có đạn, có hỏa tiển, và cũng có cả nước mắt, máu, xác người, khăn tang, mồ chôn tập thể lương dân vô tội ở NVN. 


Chỉ một bài thơ ngắn mà đã gây ra bao nhiêu tội ác, tang tóc, đau thương, nên HCM thật xứng đáng được báo Polska Times [Thời Báo Ba Lan] ngày 5-3-2013 sắp vào hàng những lãnh tụ khát máu nhứt thế giới trong thế kỷ 20. Hồ Chí Minh chắc chắn cũng là kẻ khát máu nhứt trong lịch sử Việt Nam từ thời lập quốc cho đến ngày nay.


Toronto, 1-2-2018
Trần Gia Phụng
Ai đang xem chủ đề này?
Guest (2)
Di chuyển  
Bạn không thể tạo chủ đề mới trong diễn đàn này.
Bạn không thể trả lời chủ đề trong diễn đàn này.
Bạn không thể xóa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể sửa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể tạo bình chọn trong diễn đàn này.
Bạn không thể bỏ phiếu bình chọn trong diễn đàn này.

Powered by YAF.NET | YAF.NET © 2003-2025, Yet Another Forum.NET
Thời gian xử lý trang này hết 1.056 giây.