Từ Phan Thiết chúng tôi gồm 34 người, quyết tâm ra đi nên đã liều mạng vượt biển để tìm tự do trên một chiếc thuyền đanh cá mỏng manh cũ kỹ và thiếu thốn đủ mọi thứ . Thời gian sống với biển cả tuy ngắn ngủi nhưng thập phần nguy hiểm và đầy bất trắc . Cuối cùng, lòng can đảm đã giúp chúng tôi vượt qua tất cả trở ngại . Chúng tôi đã đến bến bờ tiểu bang Trengganu thuộc Mã Lai Á vào buổi sáng ngày 26-10-1978, chấm dứt 6 ngày hải trình bi thảm .
Tôi ghi lại đây để nhớ mãi không quên những tấm lòng vàng của các vị ân nhân Nguyễn Đức Khôi, Nguyễn Đức Long, Nguyễn Văn Sâm, Nguyễn Mến..Quý Ông nay đã trở về cõi vĩnh hằng nhưng lòng từ tâm trên chiếc thuyền PT.M1109 hôm nào đã giúp chúng tôi vượt thoát khỏi địa ngục trần gian trong thiên đàng xã nghĩa từ sau ngày 39-4=1975. Cũng chính nghĩa cử cao đẹp trên, Quý Ông đã dạy cho tôi long thương người trong cơn hoạn nạn và tôi đã theo đuổi lý tuởng đó cho tới nay, khi đưọc may mắn định cư tại Hoa Kỳ.vào tháng 4-1979.…
Câu chuyện vưọt biên của tôi cũng là một kỳ ngộ, như có một bàn tay huyền diệu nào đó luôn giúp đỡ sắo xếp..Tôi còn nhớ cái đêm trước khi vưọt biển, vì buồn đủ thứ lại thương đứa con gái nhỏ tên Duyên bệnh nặng..nên khi mấy đứa em rũ nhậu, tôi đã quên là mình từ kinh tế mới trốn về sống chui không có giấy phép. Nhưng cũng thật kỳ lạ, giữa lúc anh em đang nhậu thì tên Hùng công an khu vực vào nhà tôi nhưng hắn không bắt mà chỉ ra lệnh cho tôi ngày mai phải lên lại KTM. Sau đó ai nấy về nhà ngũ riêng tôi thì ngổn ngang tram mối nên làm sao ngủ đưọc. Giữa lúc đang trăn trở thì chủ ghe tới kêu đi biển. Rồi đến lúc ghe cập đồn Biên Phòng Thương Chánh để trình diện. Tại đây lần nữa Tôi không bị công an bắt giữ vì đi biển lậu, mà chỉ ra lệnh cho chủ ghe đuởi tôi lên bờ vì không có tên trong sổ hành nghề.. Chủ ghe dạ dâ nhưng vẫn chạy thẳng ra biển..Nhờ những may mắn trên, nên thành phần bị gạt ra bên lề xã hội lúc đó như bọn tôi mới có cơ hội ra đi.
Tôi nhớ sáng hôm đó trời đẹp chi lạ, biển lặng như trên sông Cà Ty . Phương đông mặt trời đã lên cao, thả những tia vàng đỏ óng nhảy tung tăng theo triền sóng . Gió thổi nhẹ từng cơn như mơn mởn làn da thêm thoải mái. Như thường lệ, ghe tôi từ Phan Thiết chạy ra địa điểm đặt cây chà, đúng vào lúc con nước đang lên để làm nghề . Thời gian sống ngoài biển là lúc mà chúng tôi vui sướng nhất vì được tự do la hét, chửi bới , được nhìn cảnh mênh mông của trời đất bao la và hạnh phúc nhất là ai cũng có quyền hy vọng được tàu ngoại quốc đến vớt sang bên kia bờ đất tự do. .
Bây giờ là 8 giờ 30 ngày 21-10-1978, mọi công tác dành cho việc lùng bắt cá đã chuẩn bị xong . Hai đường neo dài hơn 100m đã được móc cứng sau và trước thuyền, kèm vào đó là hai sợi dây khác dùng để móc giàn lưới sắp sửa bủa xuống biển đón đàn cá trắng đang nhởn nhơ bơi lội dưới làn nước trong xanh thăm thẳm . Chúng tôi đã sẵn sàng bắt một mẻ cá lớn để chốc nữa trở vào bờ dâng cho nhà nước đổi lấy từng ký gạo sống dần mòn qua ngày . Đó, đời sống của con người nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa là thế
.
Bỗng một tiếng la từ sau lái : Tàu vượt biển đến, hãy kéo neo lên để chạy cho mau, kẻo chúng đến cướp dầu, cướp ghe . Nhưng đã trễ rồi, vì không thể nào trong chốc lát triệt nổi hai cuộn neo thật dài, thêm vào đó là lưới đang hứng đầy cá, mà con tàu lạ thì từ xa chạy xăm xăm đến với một tốc lực tối đa . Đấy là một loại thuyền đánh cá kiểu Bắc Việt, toàn thể sơn màu đen nên nhìn rất cũ kỹ, dài khoảng 8m, trên thuyền lố nhố những người đang hò hét vẫy gọi, trông giống cảnh ăn hàng của các phim hải tặc . Con thuyền quá mỏng manh và cổ lỗ nên không có gì bảo đảm lắm cho chuyến vượt biển xa xăm mà mọi nguy hiểm như sóng gió, giông bão đang chực chờ, hơn nữa mùa gió Bấc đã đến, biển hay động bất ngờ, chỉ cần một trận cuồng phong nhỏ cũng đủ chôn vùi tất cả bao nhiêu người trên thuyền vào bụng cá . Nhưng nhìn những khuôn mặt cương quyết, chai lì của những người đang đứng trên thuyền đối diện, tôi cảm thấy thán phục cho những tâm hồn biết chết trước mắt nhưng vẫn cứ liều lĩnh, mạo hiểm dấn thân vào biển cả muôn trùng để tìm tự do
Ôi tự do cao quý đến thế sao ? Biết chết vẫn lăn xã vào, biết tù đầy khổ ải nhưng cũng cứ bền gan tranh đấu, biết địch mạnh ta yếu mà vẫn cứ âm thầm chịu đựng để chờ ngày quật khởi . Hèn chi tại Nam VN trước tháng 4-75, chỉ vì “độc lập hay là chết “ mà đã có hơn một triệu thanh niên nam nữ, hơn 20 năm chịu banh thây để giữ lấy nó. Bây giờ thì một làn sóng người ồ ạt, bỏ tất cả để dấn thân vào cõi chết, chỉ mong mỏi tìm ra con đường sống để nhìn thấy tự do thật sự.
.
Rồi con tàu lạ cũng tới, tiếng be gỗ chạm vào nhau nghe chói óc, tiếng người la ơi ới, tiếng kéo cò lên đạn gây thành những âm thanh hỗn độn, kỳ quái nghe hay hay .
-“Cho chúng tớ xin ít dầu, gạo và nước để ra đi, chúng tớ không thể quay về với đưọc, giúp chúng tớ đi anh em ơi” . Thật là thảm thiết, thật là cay đắng, nẻo đường sống của bọn người quyết lòng tháo gỡ gông cùm của giặc thù là thế đó . Tôi nhìn kỹ từng khuôn mặt, đều là bạn bẻ cũ thuộc tỉnh/tiểu khu Bình Thuận cả . Người đứng trên mui để chỉ huy tổng quát là Ng-Đ-M, cùng tôi học Triết ở Đại Học Văn Khoa SG. Trước mũi là Thưọng sĩ Ng-Đ L phục vụ tại Chi Nhánh 2 TMNN., Tài công là Trung sĩ I ĐPQ VS và thuyền trưởng là Thiếu Uý CSQG NĐK. Tất cả đều là khách hàng đắc giá của Công An Thuận Hải cả, thảo nào họ dám dùng con thuyền nhỏ này để vượt biên .
Theo lời M, họ đã khởi hành đêm 19-10-1978 sau khi ba vị chủ ghe đồng nhận được trát của công an thị xã Phan Thiết mời đến để điều tra về vụ vượt biên mới đây có liên quan đến họ . Vì tin đến quá đột ngột nên tất cả số dầu dự trữ dành cho chuyến vượt biên sắp tới không thể đem xuống ghe được, cũng không thể mang nhiều gạo, thuốc và thức ăn vì sợ đồn biên phòng số 4 kiểm soát sẽ bại lộ . Nên cuối cùng Ban Chỉ Huy thuyền PTM 1109 quyết định đi liền với số nhiên liệu và thực phẩm dành cho 1 ngày làm cá đúng theo cấp số ấn định, nhưng cương quyết mang theo hai khẩu súng cũ đã chôn giấu từ lâu cùng đồ nghề dành cho chuyến vượt biên thế thôi . Như vậy họ đã quyết định ra đi với 40 lít dầu, 10 kg gạo và lòng tin tưởng tuyệt đối vào Chúa sẽ giúp họ thành công . Đúng 5 giờ 30 ngày 20-10-1978, con thuyền trên lại quay về bờ biển Phan Thiết và đâm ngay vào bãi Thương Chánh tại Vĩnh Phú, để vớt người như chương trình dự liệu, giữa lúc tiếng chuông nhà thờ Vĩnh Phú rền vang báo hiệu đợt lễ đầu, trong kh[ bọn du kích và công an phường canh gác bãi tắm đã lục tục kéo nhau về ăn cơm . Sự liều lĩnh đã đem lại kết quả khả quan nhưng vì thời gian quá ngắn nên chỉ cứu thêm được một số anh em và người nhà, để rồi vĩnh viễn rời xa quê mẹ, con thuyền sẽ điên cuồng lao vào đất chết .
Đêm đó thuyền đã xông xáo khắp nơi để xin dầu, gạo, nước ngọt dành cho chuyến hải hành, thuyền suýt đụng độ với 2 chiếc mành quốc doanh có trí súng đại liên làm anh em một phen mất vía .
Tiếng của thằng bạn làm tôi bừng tỉnh : “C còn chần chờ gì mà không nhảy sang đây để đi với tụi tớ, cậu thường ao ước tìm tự do lắm mà . Hãy đi đi, trời còn đó, đất còn đó và vợ con chúng ta cũng còn đó, nếu còn sống thì lo gì không gặp lại người thân. Vâng bạn tôi nói đúng lắm, tôi phải ra đi, đây là một cơ hội bằng trời mà tôi hằng mong đợi, tôi phải đi để sống và còn sống là còn tất cả.
.
Tôi nhảy sang con thuyền lạ giữa tiếng la khóc của những đứa em, giữa những vòng tay thân tình cật ruột giữ lại . Nhưng tôi đã cắn răng cắt đứt tình cảm gởi gấm vợ con trên kinh tế mới cho má tôi, rồi gục mặt ra đi,
.
Theo chương trình dự liệu, chúng tôi còn phải đi mua thêm dầu gạo và nước uống đủ để đi thẳng đến Mã Lai Á, vì không hy vọng ra đến hải phận quốc tế sẽ được tàu vớt . Bởi thế cần phải được chuẩn bị đầy đủ, ăn ít cũng được nhưng dầu và nước thì không thể thiếu được . Do đó thay vì trực chỉ ra hải phận, chúng tôi bắt buộc phải mạo hiểm đến gặp các thuyền bạn để xin dầu và kết quả thật khả quan : Dầu được 300 lít, gạo 50 ký, nước ngọt 2 thùng lớn còn thức ăn thì không cần, tuy vậy cũng tạm sống .
Vì sợ các thuyền quốc doanh bị lấy dầu quay vào bờ báo cho đội tuần duyên nên chúng tôi đành phải ngụy trang, thay vì chạy chúng tôi neo lại trên phần chà thường đến làm cá giả vờ đang hành nghề, cho tất cả đàn bà con gái trẻ em và những người không phận sự xuống khoang thuyền, chỉ để 7 người trai tráng ở lại lo công tác, súng thì lên đạn sẵn đầy đủ để quyết tâm chống chọi nếu bất trắc ập đến . Nhưng mọi lo lắng đều qua, 4 giờ chiều ngày 20 tháng 10-1978, chúng tôi chặt đõi, vĩnh viễn xa rời quê hương để ra đi tìm tự do . Hỡi ơi, phút cuối cùng sao nghe lòng quyến luyến và hờn tủi chi lạ, biết bao giờ mới được quay về để nhìn những thâm tình đang tuyệt vọng đợi chờ..
Từ Phan Thiết muốn đi Mã Lai Á, chúng tôi phải qua Côn Đảo và khoảng đường độ 1200 hải lý, với tốc độ của loại máy Kubota, cộng thêm sức nước chảy xuôi và cánh buồm, ước lượng phải mất 6 ngày đêm . Vì muốn bảo trì máy móc hầu tạo sự an toàn cho chuyến đi, mỗi ngày bắt buộc phải cho nghỉ máy 2 giờ, thời gian này thay thế bằng buồm, di chuyển tối đa chỉ trừ gặp bão mới phải neo lại mà thôi, dụng cụ đi biển cũng tạm đủ, gồm một địa bàn bộ binh, một ống dòm của pháo binh và một bản đồ vẽ tay thêm vào đó là kinh nghiệm nhiều năm đi biển của tài công, cựu Trung sĩ I V.S, chúng tôi vững lòng tin sẽ đến được bờ đất hứa .
Buổi chiều đầu tiên vui chi lạ, mặc dù thuyền vẫn chạy cặp theo bờ biển nhưng anh em ở dưới khoang cũng được cho lên để thở xả hơi, một nồi cơm trắng không độn đang nghi ngút khói ăn với cá vừa mới đánh được hôm qua, không khí và sự thân mật của những người cùng chung cảnh ngộ làm mọi người cảm động muốn khóc . Xa xa, bên trong từng dẫy núi liên tiếp lướt qua, kìa là Ba Hòn, Tà Cú, Mũi Đèn, Hòn Bà, Phước Hải rồi Vũng Tàu, bao nhiêu địa danh, bao nhiêu tế bào của Mẹ, chúng tôi cứ mãi lặng nhìn để ghi sâu vào tâm khảm vì biết chắc rằng chỉ trong khoảng khắc khi con thuyền lướt sóng ra hải phận thì chẳng bao giờ chúng tôi còn nhìn lại được nó .
Buồn lắm, những trở ngại và thử thách đầu tiên đã qua, các em và các cô không quen đi biển cũng bớt nôn ọe. Trời lại đẹp và biển lặng một cách đáng yêu . Đúng 20 tiếng lướt sóng chúng tôi bắt đầu cho mũi thuyền hướng về 180 ly giác, trực chỉ hướng Bornéo, ra ngay hải lộ quốc tế rồi từ đó sẽ bẻ mũi ghe về hướng 220 ly giác để về Mã Lai Á . Theo hải trình này thuyền sẽ không gặp Côn Đảo và Thái Lan . Nhưng đời đâu có bằng phẳng và dễ dàng như thế. Và đúng 3 giờ chiều ngày 23-10-78 thuyền chúng tôi bắt đầu gặp tai họa, một máy bị hỏng, dầu không bơm được, máy bơm nước cũng hư và phía trước mặt là Côn Đảo với 2 ống khói trắng toát .
Dùng ống dòm chúng tôi có thể thấy được đỉnh của ngôi giáo đường . Nguyên nhân có sự lạc hương này , chỉ vì tài công V.S trong lúc lái ghe đã nhìn hai ống khói màu trắng tưởng lầm Côn Đảo là một chiếc tàu buôn. Bởi thế đã đổi hướng chạy đến . thì cũng đã lỡ rồi,. Ngay lập tức buồm được kéo lên, thợ máy Hòe cố gắng sửa lại bơm dầu và tất cả thanh niên phải thay nhau tát nước
Tai họa bắt đầu giáng xuống với những trận gió lớn làm biển động mạnh với từng đợt song dữ . Bao nhiêu bi thãm dồn cùng một lúc dành cho chúng tôi. Đây là Trường Sa, nơi giao liên của hai con nước vùng biển Đông Hải và vịnh Thái Lan, nên sóng rất lớn . Nhưng việc gì đến sẽ đến, giờ thì phải chạy, kẻo đồn canh của bọn công an trên đảo thấy được thì chúng tôi một là sẽ vào bụng cá hai là vào Côn Đảo nằm thiên thu .
Mưa xối xả như trút nước, làm giảm tầm quan sát của địch, V.S cho lên ga tối đa 1500, con thuyền lao như điên giữa tiếng gió gào thét, cánh buồm căng cứng gần muốn đứt lèo, sóng bủa tứ tung trên mạn thuyền, tất cả đều ướt át như chuột lội nước, lạnh dói và run sợ . Đêm đó không ai ngủ được cả, mọi người đều lo lắng và theo dõi nhiệm vụ không ai nói với ai một tiếng nào cả . Ban chỉ huy thuyền thì mãi miết chụm đầu vào mặt chiếc địa bàn để canh lại cho được hướng đi, nước trong khoang thuyền được thay nhau tát ra ngoài, và rồi mưa lại tạnh, gió bớt thổi và chung tôi đã ra khỏi vùng biển bảo tố lúc 6 giờ sáng ngày 24.10-1978 khi mặt trời đã bắt đầu mọc, báo hiệu một ngày đẹp đẽ đang trở lại với vạn vật, chấm dứt thãm họa đã hành hạ chúng tôi suốt 15 giờ qua …
Từ giờ thuyền chúng tôi đã ra khỏi hải phận VN và đang ở trên hải lộ quốc tế. Mỗi lần nhớ lại đêm bảo tố kinh hoàng trên biển , tôi vẫn thấy sợ và càng thương ông NĐK lúc đó, cứ luôn miệng cầu nguyện Thưọng Đế giúp đỡ cho chúng tôi qua khỏi tai họa khốc liệt kinh hoàng..không ai trên thuyền lúc đó nghĩ rằng mình còn sống sót với cơn bão cấp 10,
.
Giờ thì tất cả mọi người đều có quyền lên boong thuyền để thở không khí, trời đất mênh mông, biển cả miên man, con thuyền không khác chi chiếc lá vàng trôi giạt vô hạn định, trôi mãi, trôi mãi, tôi bâng khuâng tự hỏi, đời tôi rồi mai này cũng sẽ như con thuyền này xuôi ngược không biết đâu là bờ bến thế thôi .
Chúng tôi đang sống ngày thứ tư trên biển, gạo sắp hết, nước cũng gần cạn và dầu chỉ còn độ 100 lit . Ban chỉ huy ra lệnh tiết kiệm để sống cầm hơi nếu thuyền không tìm được bến . Trong ngày thứ tư này, chúng tôi 3 lần thấy tàu lớn, đã làm tín hiệu S.O.S, đổi phương hướng để xin cầu cứu, nhưng các con tàu kia đã vô tình bẻ lái bỏ trả chúng tôi lại với biển nước mông mênh . Cuối cùng lúc 12 giờ khuya đêm thứ 5 thuyền chúng tôi đã cập được vào giàn khoan dầu của Anh Quốc (trong hải phận Mã Lai Á) thế là chúng tôi đã tìm được đất sống .
.
Hỡi ôi đã 5 ngày qua, sống lầm lũi giữa biển khơi mịt mù mây nước, hôm nay mắt lại được nhìn thấy những ngọn đèn biểu hiện của cuộc sống . Đèn bốn hướng, đèn mông mênh, cả một vùng trời trước mặt toàn đèn, chúng tôi muốn thét to lên để tỏ sự sung sướng của những con người về từ đất chết, ai cũng vui cười hồ hởi . Làm sao diễn tả cho hết từ tâm của những người làm việc trên chiếc tày dầu Anh Quốc mang số EG 8721 mà chúng tôi đã gặp . Họ đã tiếp tế cho chúng tôi đầy đủ nào dầu, nước ngọt, gạo, thuốc lá, bánh ngọt, sữa v.v..đồng thời cho chúng tôi hướng sắp đến và khuyên nên đi Tân Gia Ba đừng đi Mã Lai Á . Chúng tôi rời chiếc tàu trên mà không khỏi ngậm ngùi và cám ơn đấng tối cao đã dành mọi ưu ái cho chúng tôi trên chuyến đi này.
.
Những ngày sau cùng không còn gì trở ngại, đồ tiếp tế đã có, anh em lại được chia sớt để ăn uống, biển cũng rất lặng, ban đêm trăng sáng vằng vặt cộng sự thoải mái cho mọi người và rồi đúng 3 giờ sáng ngày 26-10-1978 thuyền chúng tôi bỏ neo tại bờ biển làng Merang thuộc bang Trengganu, Mã Lai Á . Sau đó chúng tôi được thuyền đánh cá Mã Lai Á hướng dẫn vào vàm sông Mérang, được phép lên bờ nghỉ ngơi, lập thủ tục, giao thuyền và vật dụng cho cơ quan chánh quyền địa phương để rồi đúng 7 giờ tối cùng ngày, một chiếc xe đến chở tất cả mọi người về thị trấn Trengganu, nhập vào cộng đồng những người tị nạn đã đến từ những nơi khác để ngày 27-10-78 xuống tàu đến tạm cư tại đảo Pulau Bidong . Thuyền chúng tôi chính thức mang số 100 tại trại này.
Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng 4-2018
MƯỜNG GIANG