logo
Men for what watch? Watch, watch and call. A tool that is used for timing on breitling replica the wrist. Men wear watches what kind, starting from the basic color and size, have their own right watches, you can follow the watch's color, shape, value, occasions to carefully match their own clothing. For the choice of rolex replica a watch, the first to look at and their identity are consistent with a rural old people wear watches, a bit unrealistic, even if there is, it would have been too ostentatious. A Multi Millionaire owner, wearing a few hundred dollars of high imitation table also lost their identity, and even make friends on their own business is not good. In the formal social occasions, watches are often regarded as jewelry, for usually only ring a jewelry can be worn by rolex replica uk men is respected. Some people even stressed that: "the watch is not only a man's jewelry, but also men's most important jewelry." In western countries, watches, pens, lighters was once known as adult men "three treasures", is every man even for a moment can not be away from the body.

Chào mừng các bạn! Mong bạn Đăng nhập. Xin lỗi bạn, tạm dừng việc đăng ký mới.►Nhấn hình ảnh nhỏ sẽ hiện ảnh lớn ‹(•¿•)›

Thông báo

Icon
Error

Tùy chọn
Xem bài viết cuối Go to first unread
song  
#1 Đã gửi : 09/05/2018 lúc 08:46:46(UTC)
song

Danh hiệu: Moderate

Nhóm: Registered
Gia nhập: 21-02-2012(UTC)
Bài viết: 24,173

Cảm ơn: 1 lần
Được cảm ơn: 2 lần trong 2 bài viết
Ánh sáng ngôn ngữ một lần trong xứ sở chiêm bao

Tản Văn Thi là tác phẩm thứ mười một của Nguyễn Thị Khánh Minh phát hành năm 2018. Sau những thi tập và hai tản văn Bóng Bay Gió Ơi và Lang Thang Nghìn Dặm thì đây là tập Tản Văn Thi. Trước đây, chúng ta thường được biết đến Nguyễn Thị Khánh Minh như là một Khánh Minh-Thi Sĩ.  Nhưng ngay bài tản văn đầu tiên ra mắt độc giả, tức là bài Theo Cảm Xúc Mà Đi… in trong tập Bóng Bay Gió Ơi, bài mà sau khi đọc xong, nhà văn Phan Tấn Hải không khỏi kinh ngạc và gọi đó là “một tản văn dị thường” như trong lời bạt cuối sách.
    Tôi thú thật cũng có cùng một cảm nhận như của anh Phan Tấn Hải đối với các tản văn của Nguyễn Thị Khánh Minh. Theo chỗ tôi hiểu một cách cụ thể, sự “dị thường” đó có lẽ chính là tác dụng của các tản văn Nguyễn Thị Khánh Minh lên tâm thức của người đọc.
    Tác dụng “dị thường” trong Tản Văn Thi của Nguyễn Thị Khánh Minh, theo tôi, có lẽ trước hết nhờ vào thái độ vô cùng cẩn trọng trong cách chọn chữ rất chuẩn xác để lột tả những nét riêng và chung của những cảm xúc phổ quát, thuần khiết, trong các mối liên hệ linh thiêng huyền nhiệm giữa người-với-người và người-với-thiên-nhiên. Nhờ thái độ cân nhắc, cẩn trọng, không vội vã này, mà các tản văn thi được Nguyễn Thị Khánh Minh viết ra đều đẹp, thi vị, thâm trầm, nhẹ nhàng, và là sự hòa nhiệm hôn phối tuyệt hảo giữa Văn và Thi.
    Nhưng ở tầng sâu hơn, sự phối hợp tài tình của những con chữ trong tản văn thi Nguyễn Thị Khánh Minh đã thành tựu một sự kiện “dị thường”: Nó trở thành con thuyền huyền thoại cổ tích, đưa độc giả đến xứ sở của những giấc mơ (rất riêng tư) và tác động thẳng đến tầng sâu vô thức của người đọc. Tại đó, ngôn ngữ ánh sáng gợi lại những giấc mơ xưa trong lòng ta, những thứ mà tưởng chừng đã vĩnh viễn bị chôn vùi trong những bôi xóa của một thời bá đạo gian ác lộng hành.

UserPostedImage 

Khoảnh Khắc Giấc Mơ, thực và mộng đan lẫn vào nhau. Nét đẹp huyền thoại, con thuyền cổ tích khi vượt qua ranh giới của mộng và thực đã gột rửa tất cả các định danh, dán nhãn, tên gọi của thói đời quy ước. Khi qua biên giới của giấc mơ, người ta không còn có cả một khuôn mặt, hay một tên gọi. Trong “xứ sở của giấc mơ”, chưa từng có ai nhìn rõ mặt mũi của chính mình bao giờ.
    Nếu tâm thức có một sự chuẩn bị trước, độc giả có thể sẽ được ngôn ngữ ánh sáng của Nguyễn Thị Khánh Minh dẫn đến gặp nhà thơ Mặt Trời.
    Tất cả bình đẳng trong ánh sáng chói lòa của nhà thơ Mặt Trời. Mọi thứ được phơi bày, bộc lộ, chói sáng, không giấu giếm:
 
 Lồng lộng nắng phương Đông, chắt chiu hết tinh khôi nhân ái rắc xuống cánh đồng thơ diễm ảo.
 
Ánh sáng tinh khôi nhân ái đó có khả năng “dị thường của nó”: cô lập, vô hiệu hóa cái Ác, làm cho tái sinh mầm hy vọng. Khoảnh Khắc Giấc Mơ đó (dù ngắn) cũng vừa đủ để vô hiệu hóa sự tàn phá khôn kham của những đêm hoang vu trên mặt đất.
 
Nói cách khác, những tản văn thi dị thường này có khả năng nuôi dưỡng niềm tin yêu, nó giúp ta trải nghiệm trở lại tất cả các “cảm xúc phổ quát” của những mối liên kết huyền nhiệm giữa một người-với-người và người-với-thiên-nhiên.  Sự tình này xảy chỉ trong một khoảnh khắc rất huyền nhiệm, Khoảnh Khắc Giấc Mơ, bài mở đầu của tập Tản Văn Thi. Xin hãy cẩn trọng, đọc cho thật chậm rãi, ta có gì đâu phải vội.
 
Tiếng chim ríu rít mách tôi sự trong trẻo ban mai trao lòng tin cậy. Bóng đêm mở nỗi sợ cho tôi tìm ra ánh sáng bờ vai nương tựa. Những vì sao tặng tôi cách nhìn ngây thơ trong sáng. Gió cho tôi đôi cánh và đường bay mơ ước con người. Bóng mây tan nhắc tôi mỗi phút giây ở lại bên mình yêu dấu. Tiếng cười bé thơ cho tôi nghe reo vui lời tâm kinh bát nhã.
 
Nơi kia nhà tôi. Mỗi ban mai thấy mặt trời lên. Nơi kia tình yêu tôi. Không ngừng khoảnh khắc phút giây hiện hữu. Nơi vòng tay tôi vẫn ấm lòng nhân gian bầu bạn cho dẫu từng nhịp quay thế giới đang chìm dần trong tối. Và may thay nước mắt còn rơi từng hạt sông chở niềm đau về biển.
 
Đó là bức tranh sắc mầu cuộc sống. Nên tôi quý những điều tôi đã nhận. Nên tôi tận lòng với những điều đang ở. Và tôi đem những điều không thể, phó thác vào chiêm bao. Mơ mộng. Mở con đường trú ngụ hơi thở tịch lặng nơi tôi được tỏa hết mình bằng ánh sáng của lời, dù chỉ một lần...
 
Trong sáng láng ấy tôi đã gặp nhà thơ Mặt Trời. Lồng lộng nắng phương đông, chắt chiu hết tinh khôi nhân ái rắc xuống cánh đồng thơ diễm ảo. Tôi thức giấc từ lời hát của một bông cỏ dại người ban tặng và mảnh vỡ trái tim tôi thành những hạt pha lê được nuôi sáng bằng lời thơ dâng hiến.
 
Tôi biết. Tôi sẽ được cất tiếng. Trong mùa thơ quyến dụ ấy với ngôn ngữ tình nhân. Ngôn ngữ tôi nghe một lần trong xứ sở chiêm bao. Khoảnh khắc giấc mơ tôi thực sống…
 
Trong mùa thơ quyến dụ ấy với ngôn ngữ tình nhân, chúng ta có nghe ra được chăng? Ta có nhìn thấy “Ánh sáng của Ngôn ngữ một lần trong xứ sở chiêm bao”?  “Xứ sở chiêm bao” đó ở đâu? làm sao vô được?
    Nếu muốn vào “xứ sở chiêm bao”, chúng ta hãy thong thả đọc lại bản chỉ đường của thi sĩ Nguyễn Thị Khánh Minh:
 
Biết chấp nhận “bức tranh sắc màu của cuộc sống”: hãy học cách trao lòng tin cậy, hãy giữ cái nhìn ngây thơ trong sáng.
Biết quý những điều đã nhận, tận lòng với những điều đang ở và đem những điều không thể phó thác vào chiêm bao.
Biết mơ mộng, biết trú ngụ hơi thở tịch lặng tâm hồn.
 
Đó chính là chiếc vé thông hành cho con thuyền cổ tích đi đến xứ sở của những giấc mơ, thiếu nó, chúng ta không thể nào mở ra con đường để mơ lại giấc mơ xưa cổ tích.
 
Mơ mộng. Mở con đường trú ngụ hơi thở tịch lặng nơi tôi được tỏa hết mình bằng ánh sáng của lời, dù chỉ một lần...
 
Vâng chính ánh sáng của lời (dù chỉ một lần) cũng đủ để chỉ con đường cho chúng ta đi vào “xứ sở chiêm bao”. Thành quả của các “tản văn thi dị thường” như trên chính là sự xác lập, và sự gìn giữ và dẫn tới một khoảng không gian bất khả xâm phạm ngay trong tự thân của mỗi chúng ta, một “xứ sở chiêm bao”.
    Đó là đồn lũy cuối cùng của Chí Thiện trước vòng phong tỏa của muôn trùng cái Ác. Sự “dị thường” của việc nhận ra “xứ sở chiêm bao” này là: cái Ác không còn khả năng làm ta nao lòng nữa. Sau khi đọc xong tản văn thi của Nguyễn Thị Khánh Minh, niềm tin nơi cái Chí Thiện của chúng ta được xác lập.
    Vì thế, tuy hình thức của bút pháp là tản văn thi, hiểu theo ý nghĩa phân kỳ, lang bạt, nhưng nội dung của các “tản văn thi dị thường” này của Nguyễn Thị Khánh Minh lại mang ý nghĩa của hội tụ.  Đó là “sự hội tụ” của một “xứ sở chiêm bao” không phân biệt sắc tộc, biên giới, giới tính, hay tôn giáo, và thậm chí không cả một khuôn mặt!
    “Sự hội tụ” này được thành tựu nhờ một sự chuẩn bị trước: biết chấp nhận bức tranh sắc màu của cuộc sống, biết trao niềm tin cậy, biết gìn giữ và chọn lựa cách nhìn ngây thơ trong sáng, biết quý những điều đã nhận, biết tận lòng với điều đang ở, và đem điều không thể phó thác vào chiêm bao, biết mơ mộng và quan trọng hơn hết: biết trú ngụ hơi thở tịch lặng tâm hồn. 
    Một tản văn thi nhưng lại có tác dụng hội tụ rất thần diệu như thế thì thật đáng để được gọi là “một tản văn thi dị thường”.  Một cách nào đó, với ngôn ngữ tuyệt mỹ và chuẩn xác của mình, Nguyễn Thị Khánh Minh đã làm Tản Văn Thi tỏa sáng con đường đi vào “xứ sở chiêm bao” cho cả chính mình và độc giả: con đường huyền thoại cổ tích của “xứ sở chiêm bao” với tất cả “quyến dụ của ngôn ngữ tình nhân”.
    Ánh sáng ngôn ngữ soi đường của các tản văn thi Nguyễn Thị Khánh Minh cũng còn được thấy trong bài Bầy Lá Non Thở Dài Trong Đêm, một tản văn thi mà tôi rất thích:
 
Đêm im, bầy lá non không hát nữa hồn nhiên, nghe trong cây tiếng thở dài khe khẽ, nghe không gian từng sợi nhỏ rung rung, và tôi nữa, một cành khuya đợi gió về thắp sáng.
 
Tôi có cảm tưởng là người ra vào “xứ sở giấc mơ” một cách không khó khăn, Nguyễn Thị Khánh Minh đêm nào cũng dong buồm về an trú trong “xứ sở giấc mơ” của chính mình. Nơi đó, tác giả hóa thân thành một “cành khuya đợi gió về thắp sáng”, nơi đó thấm đậm tình nhân ái, ánh sáng chói lòa, Nguyễn Thị Khánh Minh thương lắm, nửa bên kia của thói đời như mộng mà cứ tưởng là thật:
 
Muốn gửi về phía đêm hương hoa chớm mùa say đắm, ngõ chiêm bao rộ sắc thời gian. Muốn gửi về phía ngày hương khuya sâu mộng mị cho mai về nắng sống lại tươi mươi.
 
Ôi, làm sao nói cho thấu cái con người cơ khí, đã quá quen thuộc với cái trò “cò kè bớt một thêm hai” đó hiểu thấu được thế nào là “ngõ chiêm bao rộ sắc thời gian”.
 
Phía bên thói đời đó chỉ có im lặng, họ không biết mơ, họ rất sợ chuyện phải mất đi khuôn mặt:
 
Im lặng ơi, có phải không muốn nghe lời xôn xao của gió?
 
Cái Ác tràn lan, tràn cả vào miếu đền, tràn cả vào nghệ thuật:
 
Người nghệ sĩ đã không đàn thêm nữa, giọt âm thanh đọng lại bên thềm, thành bầy sương khóc thầm trong tối, xin đêm là đôi cánh chở tiếng nhạc về trong mỗi giấc mơ…
 
Trong bóng đêm nữ sĩ Khánh Minh từ “xứ sở giấc mơ” hằng đêm nguyện cầu kiên trung chờ đợi một ngày ánh sáng Chí Thiện sẽ xóa tan cái Ác ảm đạm này.
 
Bài Bầy Lá Non Thở Dài Trong Đêm này được tác giả viết vào tháng 3 năm 1978.  Đêm nay nữa là tròn 40 năm nguyện cầu:
 
Tôi vẫn chờ, thời gian giú mầu xanh trong tóc sẽ ngày mai chín nắng sum vầy sẽ tóc bay gọi bàn tay về nói nhỏ.
Tôi vẫn chờ dù lời hẹn có dài hơn năm tháng tôi vẫn chờ dẫu đêm nay đêm nhủ lòng trăng tận...
Trong tiếng thở dài hút khuya trong tiếng reo mầm nắng non đang nhú.
Tôi vẫn chờ, chắc sẽ không lâu…
 
Là một độc giả hậu bối, tôi thật sự xúc động trước những lời mộc mạc đơn sơ, nhưng thấm đậm tình nhân ái và chân thật của tản văn thi này. Bốn mươi năm, một nỗi chờ đợi thật kiên nhẫn và bao la!
    Đọc những tản văn thi trên tôi chợt có một ý nghĩ: ước gì các tản văn Nguyễn Thị Khánh Minh được đưa vào các bài tập đọc vỡ lòng của các em học sinh. Cũng như tôi đã từng học thuộc lòng bài tập đọc Tôi Đi Học của Thanh Tịnh. Tôi ước ao các em học sinh của các thế hệ mai sau sẽ biết đường vào “xứ sở chiêm bao” được Nguyễn Thị Khánh Minh tái hiện trong những “tản văn thi dị thường” mộc mạc nhưng thấm đậm tình nhân ái này.
    Tôi cam đoan chắc chắn rằng những tản văn, tản văn thi, của Nguyễn Thị Khánh Minh nếu được dịch sang các thứ tiếng khác, thì tác dụng “dị thường” này vẫn không hề thuyên giảm hay mai một. Vì nó là cảm xúc chung mà con người ai ai cũng có. Ai sống trên đời này mà không có một quê hương? Không có một người cha, người mẹ, bạn bè, người thân để thấu hiểu tác dụng của tình nhân ái?
    Giữa thời đại cái Ác đang lộng hành, lòng nhân ái căn bản chỉ còn tìm thấy trong các câu chuyện cổ tích, thì có lẽ nơi “xứ sở chiêm bao”, căn nhà của Chí Thiện đang ngự trị, phải chăng là “cái-quý-giá-nhất” trên thế gian này? Nó quý giá đến nỗi Bùi Giáng phải lặn lội trong sanh tử luân hồi từ ngàn xưa trở lại chỉ để trao tận tay cho chúng ta, phó thác cho chúng ta cùng nhau gìn giữ nó? Như là gìn giữ một “bảo bối” giữa sức tàn phá khôn kham của hư vô:
 
Đời xiêu đổ từ ngàn xưa anh trở lại
Giữa hư vô, em giữ nhé chừng này.
                                               – Bùi Giáng
 
“Chừng này” đó chính là “xứ sở chiêm bao”, vùng đất cấm bất khả xâm phạm đối với cái Ác. Vì nó, thật là xứng đáng cho chúng ta chờ đợi nuôi dưỡng thương yêu cả một đời. Tôi tự nghĩ, đối với Khánh Minh, người đã hiểu thấu được thế nào là “ngõ chiêm bao rộ sắc thời gian”, thì thời gian 40 năm cũng chỉ là một giấc mơ khác.
    Để có thể chờ đợi và gửi niềm tin yêu vào Chí Thiện trong suốt 40 năm giữa sự lộng hành của cái Ác, đòi hỏi một thái độ kiên nhẫn, không vội vàng, để sống trọn vẹn trong “phút mong manh giữa những từ” để chọn ra “đôi ba hạt lúa chín” như là những từ ngữ “hột chắc” thật chuẩn xác và có độ phổ quát cao để tỏa sáng một lần với lời của tình nhân:
 
…Sau vụ mùa
Tôi chỉ đem về nhà được đôi ba hạt lúa chín
Chút màu vàng của nó lấp lánh trên tay
Làm tôi đã vô cùng sung sướng…
Bài thơ hoàn tất, dù là một điểm hẹn quyến rũ,
Nhưng phút mong manh giữa những từ
Lại là lúc đóa hoa đang nở. Đang tỏa hương.
Tôi có gì đâu phải vội.
                    (Phút Mong Manh Giữa Những Từ – Ký Ức Của Bóng)
 
Chính vì không vội vàng, không bị quyến rũ bởi sự hoàn tất một tác phẩm, mà lời của Nguyễn Thị Khánh Minh lúc nào cũng như một “đoá hoa đang nở. Đang tỏa hương”. Hương vị Thi Ca và các cảm xúc được chuyên chở bằng ngôn ngữ Nguyễn Thị Khánh Minh trở thành các “cảm xúc đang là” trong lòng người đọc ngay trong phút này đây.
    Nói tóm lại, tính cẩn trọng, không vội vã để thẩm sát cho đến khi nào chạm đến cái nhìn thấu suốt các cảm xúc vi tế của tự thân và thái độ bình thản, kiên nhẫn, khiêm cung đối với cách chọn ngôn ngữ diễn đạt trọn vẹn nội dung các cảm xúc đó chính là yếu tố thành công của tác dụng “dị thường” trong ngôn ngữ ánh sáng Nguyễn Thị Khánh Minh. Điều này được độc giả tự cảm nhận trực tiếp trên các tác phẩm của Nguyễn Thị Khánh Minh.
 
Để kết thúc bài viết này, xin trân trọng kính mời quý độc giả cùng chậm rãi đọc tản văn thi Chiêm Bao Ánh Sáng.  Bài này được viết sau bài Bầy Lá Non Thở Dài Trong Đêm 40 năm. Cảm ơn thi sĩ về Ánh sáng Ngôn ngữ một lần trong “xứ sở chiêm bao”, qua đó con đường cổ tích đi đến xứ chiêm bao ấy được khơi mở ra cho những ai có tâm và có sự chuẩn bị trước để bước vào.
 
Bàn tay mộng vươn dài tôi không tới. Đường quanh co gặp nhau rồi lạ hoắc tuổi tên hỏi một câu nhập nhòa đi đến. Tôi lạ tôi quen thôi một lần tay bắt dẫu một thoáng phù du tan vào chiêm bao ánh sáng.
 
Hạt sương ngày nọ bờ cỏ bên nhau nhìn trăng đi mấy cõi thiết tha. Hạt nắng ngày mai mang hương thơm mặt trời chói lóa, ngày nghiêng vai rớt lá dặm dài. Lá thì thầm bốn mùa trao nhau biến hóa tử sinh. Như mơ. Một lần tôi ở lại.
 
Lời chào buổi sáng bung thêm ngày mới. Lời chúc bình an nhấn nút xanh chiều. Một món ăn vừa chín trên bếp ấm. Chữ cuối cùng một bài thơ vừa hoàn tất. Lời chúc ngủ ngon lộng lẫy giấc mơ dong buồm đi tới. Là lúc tôi biết mình đang ở trong giấc mộng rất đẹp của Hôm Nay.
 
Này người. Tôi đang du dương giấc mộng. Rồi một lúc nào đó thuận chiều sóng vỗ sóng tan, cơn mộng sẽ ngọt ngào vào biển rộng…
 
Bây giờ tôi mới hiểu vì sao câu trích của Hans Sachs, được Nguyễn Thị Khánh Minh chọn để mở đầu tập tản văn thi này: Tất cả cảm hứng thi ca đều chỉ là giải mã những giấc mơ (All poetic inspiration is but dream interpretation – Hans Sachs).
    Xin trân trọng giới thiệu với quý độc giả, Tản Văn Thi Nguyễn Thị Khánh Minh, như là Ánh sáng Ngôn ngữ một lần trong Xứ Sở Chiêm Bao.
 03.2018
Tô Đăng Khoa
___________
GHI CHÚ:

TẢN VĂN THI
Văn Học Press xuất bản, 5/2018
Tranh bìa: Chiều mưa dông tới @ Đinh Trường Chinh
Giá bán $15.00
Một tuyển thơ đẹp cả nội dung lẫn hình thức
Tìm mua trên Amazon. Xin bấm vào đường dẫn NÀY.

Sửa bởi người viết 09/05/2018 lúc 08:51:29(UTC)  | Lý do: Chưa rõ

khi  
#2 Đã gửi : 12/05/2018 lúc 10:01:10(UTC)
khi

Danh hiệu: Moderate

Nhóm: Registered
Gia nhập: 21-02-2012(UTC)
Bài viết: 338

Nguyễn Thị Khánh Minh: Những giấc mơ phương hoa sắc mầu

UserPostedImage

1.
Trong tuyển thơ Tản văn thi [Văn Học Press xuất bản, 2018], nhà thơ Nguyễn Thị Khánh Minh đã dùng một trích ngôn của Hans Sachs, một thi hào sinh sống vào thời Trung đại, “Tất cả cảm hứng thi ca đều chỉ là giải mã những giấc mơ.” Từ chìa khóa ở đây là “cảm hứng.” Nhờ đó, chúng ta biết chị không phải là nhà thơ Siêu thực, chị không sử dụng thủ pháp “lối viết tự động” để diễn đạt những thi ảnh và cảm xúc của giấc mơ trôi ra từ tiềm thức hoặc vô thức. Ngược lại, những giấc mơ của chị bắt nguồn từ một ý thức tự thân, từ những xung động ngoại giới, từ cuộc sống hiện thực, rồi bốn mùa xuân hạ thu đông chúng được giú bên trong một tâm hồn thi ca mẫn cảm, một cảm xúc tha thiết, để qua chữ nghĩa cách điệu nhưng đẹp nền nã, óng mượt nuột nà, chị đã gửi đến giới yêu thơ hôm nay một tác phẩm thơ đặc sắc, rất quý và rất hiếm.
 
Chẳng cần tìm kiếm đâu xa, ngay từ bài thơ đầu của tác phẩm, Khoảnh khắc giấc mơ, Nguyễn Thị Khánh Minh đã thố lộ cùng chúng ta nguồn cảm hứng cho những giấc mơ của chị. Nó là “tiếng chim ríu rít,” là “bóng đêm,”  là “ánh sáng,” là “bờ vai nương tựa,” là “những vì sao,” là “gió,” là “bóng mây,” là “tiếng cười bé thơ,” là
 
Nơi kia nhà tôi. Mỗi ban mai thấy mặt trời lên. Nơi kia tình yêu tôi. Không ngừng khoảnh khắc phút giây hiện hữu. Nơi vòng tay tôi vẫn ấm lòng nhân gian bầu bạn cho dẫu từng nhịp quay thế giới đang chìm dần trong tối. Và may thay nước mắt còn rơi từng hạt sông chở niềm đau về biển.
(Khoảnh khắc giấc mơ)
 
Chẳng thể nào nghĩ khác hơn, từ một thực tại linh động, từ cái mà chị gọi là “bức tranh sắc mầu cuộc sống,” chị đã nâng niu nuôi nấng cảm xúc rồi phó thác nó vào chiêm bao thơ mộng, và nhờ hơi thở bùa phép thi ca cho nó một đời sống mới, một siêu-thực-tại. Sự vật trong thơ Nguyễn Thị Khánh Minh như có một đời sống mới, bởi nó được chắt chiu đãi lọc bằng một cõi lòng “tinh khôi nhân ái,” bằng “những mảnh vỡ trái tim” để ước nguyện sau cùng của chị chỉ giản dị là những “hạt pha lê được nuôi sáng bằng lời thơ dâng hiến.” Chỉ trong một “xứ sở chiêm bao,” hay chính xác hơn trong một “khoảnh khắc giấc mơ” chị mới thực sống. Trằn trằn những giấc mơ nhức nhối khôn nguôi:
 
Có thể một xô lệch của thời gian, được không? Anh bước qua cây cầu và đi vào không gian giấc mơ? Giấc mơ em ở đó, không thời gian. Không ở đâu trong thế giới hiện hữu này. Cánh tay thực tại buông lơi, Giấc Mơ em gọi tên, người bạn rong chơi cùng em suốt mùa quá khứ, đập cùng em nhịp tim của phút giây, và là một mơ hồ vẫy gọi ở cuối chân trời. Giấc Mơ, nơi có thể giữ lại thời gian, cho em sống, ở lại, với tấm lòng mãi mãi Hôm Nay.
(Nơi bắt đầu mùa xuân)
 
Và chị miêu tả những giấc mơ ấy:
 
Tôi là kẻ đi nhặt những giấc mơ
Giấc mơ người ta quên khi xuống tầu thời gian
Giấc mơ người ta đánh rơi trong đêm
Giấc mơ bị đánh cắp trong ngày
Giấc mơ bong bóng bay
Giấc mơ còng gió
Giấc mơ bọt biển
Giấc mơ hạt cát
Giấc mơ chín
Giấc mơ non
Vô cùng. Những Giấc Mơ Xanh.
                       (Ai cần giấc mơ?)
 
Con người là sinh vật duy nhất biết cô độc và mộng mơ. Vì cô độc nên mới mộng mơ hay mộng mơ dẫn đến cô độc? Cả hai có nhất thiết đi đôi với nhau không? Câu trả lời xem ra chẳng cần thiết, bởi đằng nào chúng ta cũng chấp nhận đội trên đầu cái vòng kim cô ấy, nhưng nó là cái vòng kim cô dịu dàng, bởi không cô độc và không mộng mơ thì rất khó cho ra đời một tác phẩm nghệ thuật xem được. Beethoven sống suốt đời trong cô độc, và chàng mơ mộng đến độ tưởng tượng ra những Người Tình Bất Tử để chàng viết không biết bao nhiêu lá thư tình diễm tuyệt mà còn truyền tụng đến ngày nay. Nhưng chính nhờ thế chàng đã để lại cho hậu thế những khúc nhạc bất hủ, và chúng ta mãi mãi chịu ơn sự cô độc cùng tính mơ mộng của chàng.
 
Mơ hay mộng mơ không hẳn chỉ là một hành vi vớ vẩn vô nghĩa (hay vô bổ, nếu bạn muốn gọi như thế). Kì thực, nó chính là thao tác thẩm mĩ, một trò chơi của trí tưởng tượng, một trò chơi có giá trị tự thân, một nhu cầu sâu thẳm nhất của con người mà chúng ta càng lúc càng bỏ quên trong cuộc sống bình nhật vốn giành hết tâm trí và năng lực chúng ta. Không, đừng hiểu sai, tôi không nói đến chuyện mơ một ngôi nhà nguy nga, một chiếc ô tô lộng lẫy. Tôi muốn nói đến những giấc mơ phương hoa của Nguyễn Thị Khánh Minh. Hãy lắng nghe chị thủ thỉ:
 
Đêm im, bầy lá non không hát nữa hồn nhiên, nghe trong cây tiếng thở dài khe khẽ, nghe không gian từng sợi nhỏ rung rung, và tôi nữa, một cành khuya đợi gió về thắp sáng.
 
Muốn gửi về phía đêm hương hoa chớm mùa say đắm, ngõ chiêm bao rộ sắc thời gian. Muốn gửi về phía ngày hương khuya sâu mộng mị cho mai về nắng sống lại tươi mươi.
(Bầy lá non thở dài trong đêm )
 
Hay những giấc mơ sắc mầu:
 
Dường như nghe một mầu hoa hát tím trong mắt nhìn về phía hoàng hôn, trong thao thức con đường ấu thơ dịu nồng sắc tím, khi tìm về lại tím đến thiết tha.

Xin tím là ánh nhìn thương yêu, mỗi mỗi nỗi buồn là nụ hoa kỳ diệu... Xin tím hát tình ca đắm đuối, để niềm vui thao thức khôn nguôi, hạt thời gian xanh hoài phiến mắt, chút buồn kia sương sớm mong manh.
(Sắc tím)
 
Thời gian lúc ấy. Là mầu xanh rộng của trời. Mầu nâu ấm áp của con đường. Mầu tím của cánh hoa nở trong giấc ngủ. Mầu đỏ ối của chùm ổi trong bữa của bầy chim. Mầu nước mía quện rêu bờ ao. Chúng ta bên nhau ánh nhìn vỗ cánh...
(Ngày lúc ấy)
 
Những thi ảnh thật đẹp trong mơ tuần tự trôi về như những thước phim đầy mầu sắc và âm thanh. Nhà thơ đã vận dụng tất cả giác quan cùng trực quan để khám phá một thế giới mới, trong đó cảnh sắc và cá thể hòa nhập làm một như trong truyện thần tiên. Chỉ trong giấc mơ, tâm và cảnh mới có thể nhập lại như hiện hữu trong cùng một cầu vực tinh ròng, thuần khiết.
 
Bay theo gió mùa hè hương đồng lúa chín. Và tôi. Đã như thể một trong những cánh chuồn kim lá biếc. Tha sợi nắng li ti về trên cỏ tuổi thơ. Lấp lánh bảy sắc cầu vồng. Bắc nhịp.
 
Trải theo con đường đất nâu nhạc tim rơi trong từng khoảnh khắc. Tôi. Như thể thời gian đang giữ lại một mùa hạnh phúc. Ngày êm êm con nước chảy thức dậy cánh bèo tím. Chiếc cầu bắc ngang những buổi trưa hè. Tôi. Đã từng là giấc mộng anh kể.
 
Không gian lúc ấy đựng đầy hương ổi. Đàn chim hay đánh rơi xuống chỗ tôi ngồi những mảnh vỏ và hạt. Tôi nói. Ước mơ em ngọt và thơm như những trái ổi sẻ. Anh bảo. Anh muốn thành đàn chim về ăn quả...
(Ngày lúc ấy)
 
Giở gần như bất cứ bài thơ nào, bạn cũng thấy câu chữ với những hình ảnh và cú điệu như thế. Và nếu chú tâm thêm chút nữa, để ý năm tháng sáng tác ghi dưới mỗi bài thơ, bạn sẽ thấy những bài thơ này trải dài suốt một thời gian 40 năm trường. Bốn mươi năm mà không thấy sự khác biệt lớn lao nào về cảm quan nghệ thuật lẫn ý tưởng giữa những bài làm từ rất lâu và những bài gần đây, chứng tỏ nhà thơ đã trưởng thành rất sớm và nó cũng chứng tỏ một tâm hồn nhạy cảm.
 
Người nhạy cảm có thể khổ đau nhiều hơn kẻ không nhạy cảm, nhưng nếu thấu hiểu và đủ sức vượt qua những khổ đau ấy, hắn sẽ khám phá ra không ít cái đẹp bất ngờ đang chờ đón hắn ở bến bờ xán lạn phía bên kia, nơi hắn có thể rũ bỏ mọi ưu phiền để tìm cho mình một tâm tư tĩnh lặng, một cuộc sống đáng sống. Người nhạy cảm cũng là người tin tưởng vào chủ nghĩa yêu thương, một chủ nghĩa nhân đạo đích thực. Triết gia Ấn Độ Krishnamurti suốt đời rao giảng chủ nghĩa này. Ông kêu gọi con người chúng ta hãy phá bỏ bức tường thành kiến, truyền thống, tôn giáo, đạo đức giả, hủ tục… hãy trút bỏ lòng sợ hãi, dục vọng, tính đố kị, ích kỉ… để thực hiện một cuộc cách mạng, một cuộc cách mạng lấy yêu thương làm trung tâm, một love-centric revolution. Đọc thơ Nguyễn Thị Khánh Minh, tôi có cảm tưởng như nghe thấy lời của triết gia quyện lẫn bên trong những câu thơ của thi gia:
 
Yêu thương nhé, nghe nắng vừa lên, nói cùng hoa đang nở trắng trên cành, nói cùng lá cứ sống hết mình xanh, cho hừng đông tuôn trào sức sống. Trong ban mai những ước mơ trổ nụ, yêu thương ơi xin thức dậy cùng người…
 
Trong tiếng nhạc ngày về óng ả, mắt chim non vừa bỡ ngỡ bao la, cất tiếng gọi đầu tiên thơ dại, lá xôn xao quấn quýt những bàn tay, yêu thương ơi khoảnh khắc xum vầy đơn sơ thế xin một lần được cất cánh bay.
(Yêu thương ơi)
 
 
2. 
Thơ Nguyễn Thị Khánh Minh tràn đầy cảm xúc yêu thương, một tấm lòng yêu thương rất nữ tính. Chị chẳng những yêu thương mái nhà ấm áp của chị nơi có bờ vai cho chị ngả vào, có đàn con cho chị sẻ chia tình mẹ con, mà còn quý mến từng nụ hoa, từng lá cỏ, từng kỉ niệm, từng lời hát, từng hình ảnh, từng ánh mắt, từng nụ cười… Chị cất giữ tất cả trong chiếc hộp có thắt nơ thân ái của chị rồi thi thoảng đem ra nhẩn nha nâng niu ngắm nghía cho cõi lòng chùng xuống với những nỗi niềm trìu mến, thiết tha. Tôi hình dung như thế, bạn ạ. Chẳng biết bạn có cùng ý nghĩ như tôi?
 
Thơ Nguyễn Thị Khánh Minh bàng bạc tố chất nữ, ngay cả trong giây phút bâng khuâng, thậm chí hoang mang, lúc đứng trước một hiện thực phân chia có phần đen tối của thế giới ban ngày, chị cũng để hiển lộ tâm cảnh của một người nữ:
 
Sáng nay buồn buồn trông lên cái nhìn tôi không thể xa hơn nỗi sợ, sợ giấc mơ của tôi của anh của cánh diều trẻ thơ tan tác trong những phân chia ranh giới. Ranh giới đất trời ranh giới Đông Tây ranh giới thiện ác ranh giới tin ngờ ranh giới sống chết.
 
Có lẽ rồi chỉ còn mây đi qua được những biển cấm. Có lẽ rồi chính dòng nước kia cũng sẽ là rào chắn đường bơi của cá. Có lẽ rồi những mảng xanh chỉ còn vớt vát được nơi ánh nhìn của người mơ mộng.
(Ngó lên trời ngó ra biển)
 
Đây là điểm rất đáng được lưu ý trong thơ Nguyễn Thị Khánh Minh, bởi chúng ta có thể đặt tố chất nữ trong thơ chị vào ngôn cảnh của Bút pháp nữ để quy chiếu tầng ý nghĩa của tác phẩm lên một chiều kích mới mẻ, phức tạp hơn.
 
Lí thuyết Écriture féminine (Bút pháp nữ) đưa lên tiền cảnh sự quan hệ của ngôn ngữ để thấu triệt bản ngã ở khía cạnh tâm lí. Dựa vào những khám phá của ngành Phân tâm học về một khảo hướng làm thế nào con người hiểu thêm vai trò xã hội của mình, nó tìm cách lí giải phương án bằng cách nào người phụ nữ có thể đặt mình vào vị trí “khác” trong một trật tự biểu tượng phái nam để tái xác định sự hiểu biết về một thế giới hữu quan xuyên qua những thao tác giao thoa với cảnh giới ngoại tại.
 
Tôi bắt gặp thật nhiều những câu thơ của Nguyễn Thị Khánh Minh điển hình cho suy nghĩ Écriture feminine, như những câu sau đây:
 
Hãy chậm thôi, Hôm Nay đang cất tiếng… dẫu rực rỡ ban mai dẫu sụt sùi bóng tối. Xin rất bình yên lúc tan đi lúc ở lại vui chung. Tơ lòng ta buộc với bao la. An nhiên sương niềm ấy vô cùng…
(Những sợi tơ)
 
Mơ màng lời cầu kinh trong tiếng nổ. Mơ màng lời kêu gọi chống-chiến-tranh-tới-giọt-máu-cuối-cùng… Bảo-vệ-quê-hương-đến-giọt-máu-cuối-cùng… Ôi máu không ngừng chảy…
 
Ai cũng có quyền được sống. Ai cũng có quyền có một mảnh đất để sống. Và. Giết nhau khắp nơi…
(Ai đang nói gì thế)
 
Đêm. Từng đêm. Ai đã để ở đó những bó hoa tàn cột chân những trái bóng xanh đỏ những con thú nhồi bông hai mắt nút đen buồn bã. Cây chong chóng không gió nói chuyện về những em bé chỉ còn để lại cái tên. Viết vội. Dòng nước mắt cong queo khô đáy nến. Ngọn nến buồn nhất của đêm con mắt linh hồn ngơ ngác cháy nhấp nhô miếu đêm trôi dài tiễn biệt.
(Sống sót)
 
“Vị trí khác” là cụm từ chìa khóa để hiểu định nghĩa Bút pháp nữ. Từ đó, chúng ta có thể nói gì về “cái khác” trong thơ Nguyễn Thị Khánh Minh? Hiển nhiên, chị không làm “khác” bằng cách đắm chìm trong dục tính như Hồng Khắc Kim Mai dạo trước hay Vi Thùy Linh sau này. (Tuyệt đối không tìm thấy dấu vết dục tính nào trong thơ Nguyễn Thị Khánh Minh.) Chị cũng không làm “khác” bằng cách tự vẽ vòng tròn rồi bước vào đứng bên trong, ngạo nghễ (hay ngổ ngáo) thách đố thế giới bên ngoài như Nguyễn Thị Hoàng Bắc. Chị nhìn thế giới với con mắt bao dung, yêu những cái đẹp nhỏ nhoi, bình thường của nó, nhưng chị đau xót vì sự băng rã của nó, phẫn nộ vì cái xấu xa của nó, và chị van nài, cầu khẩn chúng ta hãy cùng chị thương yêu nó hơn. Chỉ có yêu thương mới đem lại chân lí. Hẳn chị phải nghĩ như thế. Nhưng chị yếu đuối, chị là phái yếu, chị đơn độc, thiếu kẻ đồng hành, và bởi thế chị chọn giải pháp đi vào giấc mơ để nói chuyện với chúng ta. Trong giấc mơ chị có thể nói những điều mà ngay kẻ “đường đường một đấng anh hào” bình thường ngoài đời không dám nói, và trong một trật tự biểu tượng phái nam, chị đã “làm khác” như thế. “Làm khác” để có thể nhìn thấy một viễn cảnh to rộng hơn, một chân trời ló dạng rõ hơn ở bên kia bến bờ hi vọng.
 
Bà nhà văn Flannery O'Connor bảo, “… Viết văn không phải là đào thoát khỏi thực tại, mà là nhảy thật sâu vào thực tại khiến hệ đời sống như bị chấn động bởi cơn sốc.” Nguyễn Thị Khánh Minh chẳng muốn gây “sốc” chút nào. Nhưng bà O'Connor  cũng nói thêm, “. . . Nhà văn là kẻ vẫn còn hi vọng trên cõi đời, kẻ không còn hi vọng không viết văn.” Về điểm này thì Nguyễn Thị Khánh Minh hoàn toàn tin theo, chị là kẻ vẫn còn hi vọng trên cõi đời.
 
Tôi sẽ theo con sóng nhỏ về biển xanh. Biển thanh bình hiền hậu. Xóa đi những giờ thiên tai. Người ơi. Nếu có tìm tôi. Phút thức khuya trên hàng dương liễu và con trăng mới mọc. Trên bước gió mở ngàn khơi nơi cuối cùng là phương đông ấm một mặt trời…
(Khoảnh khắc giấc mơ)
 
Khổ thơ này khép lại tuyển thơ, và cũng như bài thơ đầu cùng tên, nó gói ghém những giấc mơ của chị, và mở ra một hi vọng “nơi cuối cùng là phương đông ấm một mặt trời…” Một hi vọng nhỏ nhoi mà bao năm rồi vẫn hoài hi vọng.
 
 
3. 
Tản văn thi là một tuyển thơ lạ. Ngay cái nhan đề đã lạ rồi, nó cho người đọc biết đây là một kết hợp thú vị giữa tản văn và thi ca. Đừng quên Nguyễn Thị Khánh Minh là một cây bút viết tản văn xuất sắc. Tập tản văn Bóng bay gió ơi của chị ra mắt cách đây ít năm đã gây tiếng vang không ít. Tuy thế, dù là văn, trọng lực chữ nghĩa của chị hình như nghiêng về thơ nhiều hơn. Tôi nói thế không phải bởi chữ nghĩa tản văn của chị chau chuốt, óng ả như lời thơ, mà bởi ở bất kì loại thể  văn học nào, chị vẫn là con chim họa mi đậu trên rượng hoa trong bóng đêm hót về nỗi niềm cô độc của mình bằng tiếng hót ngọt ngào. Thi hào Anh Percy Bysshe Shelley hồi đầu thế kỉ XIX đã định nghĩa thơ như thế, và tôi thấy thật đúng nếu đem định nghĩa ấy gán cho Nguyễn Thị Khánh Minh. Văn hay thơ.
 
Thơ chị trong suốt, ong óng như một dải lụa, và đi thẳng vào lòng người. Chị ít sử dụng hoán dụ hay ẩn dụ trong câu chữ. Ở những nhà thơ tiền bối như Nguyễn Du, thơ là một đại lâm ẩn dụ. Chỉ  một câu thơ “Đài gương soi đến dấu bèo cho chăng” chàng Kim Trọng đem ra tán tỉnh Thúy Kiều đã thấy một hoán dụ (đài gương) và một ẩn dụ (dấu bèo) rồi. Dĩ nhiên, cái mà Milan Kundera gọi là “ý thức của sự liên tục” không cho phép chúng ta làm thơ như Nguyễn Du, cũng như thời nay không ai viết nhạc như Beethoven. (Chỉ làm trò cười cho thiên hạ, Kundera bảo thế.) Thay vì hoán dụ hay ẩn dụ, Nguyễn Thị Khánh Minh sử dụng sự vật hữu quan, khoác cho chúng một thi ảnh hay một thi tứ nào đó, rồi bằng thứ ngôn từ diễm ảo, vi tế nhưng không làm dáng, chị thổi bùa phép vào chúng để biểu đạt điều mình muốn nói.
 
Hãy chạy nhanh ra biển anh ơi. Cùng đàn chim đang tấu khúc ban mai rực rỡ. Trên bảng mầu mong manh chúng ta sẽ kịp chấm phá ánh nhìn tươi vui trước khi nét ban sơ này bị phá hỏng. Cùng với đàn sóng. Tan vào trong suốt đại dương trước khi chúng phai mầu khô cạn. Vươn dài đôi tay khát khao theo dòng chảy êm ả của con sông còn một bến hẹn biển xanh…
(Điều mơ mộng nhỏ)
 
Những thi ảnh “biển,” “đàn chim,” “tấu khúc ban mai,” “bảng mầu mong manh,” v.v… trong khổ thơ trên không hề mang một giá trị nội tại nào, chúng chỉ là những biểu tượng hữu quan, để từ đó chị thăm dò và khai mở tâm cảnh (mà trong trường hợp bài thơ này là nỗi lo sợ trước một thế giới loài người đang tàn tạ). Những biểu tượng tương tự xuất hiện thật nhiều trong thơ Nguyễn Thị Khánh Minh, hầu như bài thơ nào, khổ thơ nào cũng có. Biểu tượng không xuất hiện một cách ngẫu nhiên, tùy tiện. Chúng được nhà thơ khám phá chứ không phải sáng tạo từ vô thể. Thế rồi, cấu trúc biểu tượng được tạo dựng bằng cách phóng chiếu cảm xúc nội tại ra thế giới ngoại tại. Các biểu tượng nhờ thế như có linh hồn và đấy chính là bùa phép của nhà thơ, bởi nhà thơ – chỉ nhà thơ thôi – là kẻ có quyền năng “đi vào linh hồn của sự vật.”
 
Những nhà thơ theo truyền thống Tân-Plato như Baudelaire hay Poe xem thi ca là cái gì vượt qua thế giới hữu hình và có khả năng thấu hiểu được chính chân lí thánh hóa. Kết quả có thể khiến kẻ chưa khai tâm rơi vào cõi sa mù, hỗn mang, nhưng qua biểu tượng, nhà thơ khai thác được cái mà ngày nay chúng ta gọi là nguyên mẫu, và nhấn mạnh tính ẩn dụ của ngôn ngữ. Về điểm này, thi ca Việt có lẽ đã  nắm bắt được nguyên lí ấy từ buổi rạng đông, cách đây cả nghìn năm. Đọc lại hai câu thơ ngắn sau của Thiền sư Huệ Sinh thời Lý, “Tịch tịch Lăng già nguyệt – Không không độ hải chu”, chúng ta thấy sự vật hữu quan được nhà thơ sử dụng một cách tài tình để miêu tả cái trừu tượng. Những biểu tượng như “vầng trăng,” “Lăng già,” “con thuyền,” những sự vật hữu hình, đã được khoác chiếc áo ẩn dụ để bật mở những khái niệm trừu tượng ở tầng cao hơn như chân như, bản thể, thực tại, đại hồn, đại ngã… Thi ca Lý-Trần, đặc trưng của Thiền tông Việt Nam, đa phần đều dĩ tâm truyền tâm như thế cả, tức là nó có khả năng chắp đôi cánh thoát ra khỏi sự ràng buộc của thế giới hữu hình, không bị giới hạn bởi không-thời-gian, mà, bằng biểu tượng và trực quan, phóng chiếu thực tại lên siêu-thực-tại.
 
Biện biệt dài dòng như vậy, chẳng qua chỉ để nhích đến một suy nghĩ chủ quan: Tuy câu chữ của Nguyễn Thị Khánh Minh không chứa đựng nhiều ẩn dụ, nhưng mỗi khổ thơ trong thơ chị, thậm chí mỗi bài thơ, qua ngôn ngữ, là một ẩn dụ lớn.
 
Nguyễn Thị Khánh Minh không nệ chữ mặc dù thi thoảng chúng ta bất chợt bắt gặp những biện pháp tu từ như bả mây dập dồn, hạt lệ dai, cái nhìn đầu tiên của loài cuội, nắng ngọt vai. Và nhiều nữa, trong suốt tập. Theo tôi thì chủ ý chính của nhà thơ chỉ giản dị là tiếp lực khả năng biểu cảm của ngôn từ hầu có thể biểu hiện những cảm xúc, cảm quan, cảm thức vốn nằm ngoài đường biên của ý thức hằng ngày. Nguyễn Thị Khánh Minh cũng không sử dụng biện pháp juxtaposition một cách tới hạn, có nghĩa là chị không đặt liền kề những thi ảnh tréo ngoe, tương phản, chẳng ăn nhập gì với nhau để bật mở một hiệu ứng bất ngờ nào đó giữa những con chữ, như nhiều nhà thơ khác ưa chuộng (Thường Quán chẳng hạn). Sự thật, Nguyễn Thị Khánh Minh rất cẩn trọng với câu chữ. Các từ nằm bên nhau tưởng như tình cờ nhưng đọc kĩ mới thấy dụng tâm của nhà thơ. Nghệ thuật phối từ đạt tới mức độ chín muồi, điêu luyện. Kho từ vựng của chị cũng là rất phong phú. Nhờ đó người đọc có cảm tưởng chị làm thơ như lấy đồ trong túi (nhưng thật ra không phải thế đâu, lao tâm khổ tứ lắm!) Thơ của chị là khúc nhạc với những mô-típ liên ý nghĩa, được viết với nhịp tiết Allegro con moto. Luôn luôn chuyển động. Câu chữ dồn dập. Ý tưởng cuồn cuộn. (Tôi đang nghĩ đến một khúc nhạc của Mozart.) Và chính bởi thế, chúng ta tuyệt đối không nên đọc thơ chị với tốc độ đọc một bản tin “xe cán chó,” một điều chúng ta thường xuyên phạm phải trong cuộc sống hôm nay.
 
 
4. 
Nếu bị ai hỏi trong tuyển thơ Tản văn thi của Nguyễn Thị Khánh Minh, tôi thích bài thơ nào nhất thì có lẽ tôi sẽ lúng túng không biết trả lời sao. Chẳng lẽ trả lời ba phải là bài nào cũng thích? Vâng, sự thật là gần như bài nào cũng thích, nhưng thú thật cùng bạn, thích nhất với tôi có lẽ là bài Buổi sáng cùng chim nhại.
 
Sự hiện hữu của một con chim biết nói và nhất là khí hậu ma mị của bài thơ làm tôi liên tưởng đến bài Con quạ (The Raven) của thi hào Edgar Allan Poe.
 
Con quạ là một khúc thơ tự sự của Poe, ngôn từ cực kì cách điệu, xuất hiện lần đầu năm 1845, thuật chuyện người đàn ông thương nhớ vợ (hay người yêu) tên Lenore mới qua đời. Một đêm nọ, trong lúc chàng đang vật vã than thở thì một con quạ đen bay qua cửa sổ vào phòng và đậu trên đầu pho tượng nữ thần Pallas. Con quạ không chịu bay đi và trong cơn đồng thiếp chàng nhấc ghế lại nói chuyện với con quạ. Chàng than thở về nỗi buồn của chàng và hỏi nó đủ thứ chuyện nhưng nó chỉ trả lời một câu cộc lốc “Nevermore” như một điệp âm ma quái, ghê rợn tại cuối mỗi khổ thơ. Cuộc nói chuyện kéo dài và chàng đi từ trạng thái buồn rầu, phiền não đến chỗ thác loạn thần kinh rồi ngã sóng sượt dưới sàn nhà.
 
Bài thơ dày đặc ẩn dụ và ám dụ, ma quái, buồn thê thiết, và hơn thế kỉ rưỡi nay nó giữ chỗ đứng trên kệ sách như một trong những bài thơ hay nhất của nhân loại. Thi hào Stéphane Mallarmé dịch sang tiếng Pháp với minh họa của không ai khác hơn danh họa Édouard Manet. Tổng thống Abraham Lincoln thuộc lòng bài thơ. Đội banh football của thành phố Baltimore lấy tên Baltimore Ravens để vinh danh Poe vì có thời ông sinh sống nơi đó.
 
Bài thơ Con quạ của Poe bắt đầu bằng tiếng gõ cộp cộp lên cánh cửa phòng người đàn ông đang nhớ thương người yêu, bài Buổi sáng cùng chim nhại của Nguyễn Thị Khánh Minh cũng bắt đầu bằng tiếng gõ cộp cộp của con chim nhại lên mặt kính của sổ:
 
Con chim cổ trắng. Đậu trên cành cây gai. Bên ngoài cửa sổ. Gió cào trên mặt gương. Tôi gõ vào cửa kính. Nó đáp lời, cộp cộp, xòe đuôi lên: Sao gọi tôi là chim, sao gọi tôi là chim. Hỡi người đang ngồi trong hộp kính? Tiếng cộp cộp vỡ tung những mảnh sáng.
 
Sự tương tự chấm dứt nơi đó. Với Con quạ, người ta không hề thấy một tia dấu vết hi vọng nào, sự tuyệt vọng hình như càng lúc càng tăng, trái ngược với bài thơ của Nguyễn Thị Khánh Minh, nỗi niềm cô độc như được vỗ về bằng đường bay muôn dạng của con chim nhại để nhận thấy rằng tia sáng hi vọng vẫn còn. Một ẩn dụ hiếm hoi tìm thấy trong bài thơ, đó là “hộp kính.” Hiển nhiên, nó mang chức năng biểu hiện sự mất tự do, nhưng đừng hiểu đấy là một nhà tù giam hãm thân xác. Phải đọc tiếp câu chữ bài thơ, chúng ta mới nhận ra sự mất tự do là do chính chúng ta đã không dám thốt lời yêu thương, không dám để yêu thương làm kim chỉ nam đưa đường chỉ lối mà cứ để ngôn từ ma muội dẫn dắt vào mê lộ:
 
Trong cái mỏ của loài tự do những cọng rơm ngôn từ cựa quậy. Nó làm tôi ngứa miệng. Tôi nhớ chiếc hộp kính nơi tôi hít thở mỗi ngày. Tôi nhớ câu tôi thường nghe. Tôi nhớ câu tôi thường nói.
 
Xanh mở mắt trời. Gió bung hết những cánh cửa keo kiệt của thời gian. Chạm vào đường biên mơ hồ của vô tận. Tiếng đập mê man thiên đường tôi đôi cánh. Chế giễu một loài hai chân cực kỳ ngây thơ, cái gì cũng đặt tên cái gì cũng giải nghĩa cái gì cũng dùng lời.
 
Chỉ khi nào học được bài học của con chim nhại, nhìn ra đường bay tự do của nó, thấu hiểu lẽ thường hằng của cuộc nhân sinh, tính vô thường của sự vật, yêu cái đẹp nhỏ nhoi của đất trời, cảm tạ ân nghĩa được sống bình thường, ở một nơi có “chiếc ghế tình yêu,” “nơi tôi sẽ được nói, mỗi ngày, yêu anh,” “nơi tôi sẽ được nghe, mỗi ngày, yêu em,” “với nắng ngọt vai của mặt trời sắp lặn,” thì lúc đó ta mới thật sự thoát ra khỏi cái “hộp kính” ghê rợn kia mà hòa nhập vào cuộc sống phương hoa muôn sắc mầu này. Bởi chân lí không ở đâu xa mà nằm trong chính mỗi chúng ta.
 
Hình như suốt tuyển thơ, nhà thơ chỉ muốn nói có thế.

Trịnh Y Thư

Ai đang xem chủ đề này?
Guest
Di chuyển  
Bạn không thể tạo chủ đề mới trong diễn đàn này.
Bạn không thể trả lời chủ đề trong diễn đàn này.
Bạn không thể xóa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể sửa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể tạo bình chọn trong diễn đàn này.
Bạn không thể bỏ phiếu bình chọn trong diễn đàn này.

Powered by YAF.NET | YAF.NET © 2003-2024, Yet Another Forum.NET
Thời gian xử lý trang này hết 0.379 giây.