logo
Men for what watch? Watch, watch and call. A tool that is used for timing on breitling replica the wrist. Men wear watches what kind, starting from the basic color and size, have their own right watches, you can follow the watch's color, shape, value, occasions to carefully match their own clothing. For the choice of rolex replica a watch, the first to look at and their identity are consistent with a rural old people wear watches, a bit unrealistic, even if there is, it would have been too ostentatious. A Multi Millionaire owner, wearing a few hundred dollars of high imitation table also lost their identity, and even make friends on their own business is not good. In the formal social occasions, watches are often regarded as jewelry, for usually only ring a jewelry can be worn by rolex replica uk men is respected. Some people even stressed that: "the watch is not only a man's jewelry, but also men's most important jewelry." In western countries, watches, pens, lighters was once known as adult men "three treasures", is every man even for a moment can not be away from the body.

Chào mừng các bạn! Mong bạn Đăng nhập. Xin lỗi bạn, tạm dừng việc đăng ký mới.►Nhấn hình ảnh nhỏ sẽ hiện ảnh lớn ‹(•¿•)›

Thông báo

Icon
Error

Tùy chọn
Xem bài viết cuối Go to first unread
song  
#1 Đã gửi : 10/05/2018 lúc 08:12:27(UTC)
song

Danh hiệu: Moderate

Nhóm: Registered
Gia nhập: 21-02-2012(UTC)
Bài viết: 24,684

Cảm ơn: 1 lần
Được cảm ơn: 2 lần trong 2 bài viết
UserPostedImage
Nhà báo Trương Duy Nhất (trái) và nhà thơ Trần Vàng Sao (phải) tại Huế tháng 2/2016
Blog Trương Duy Nhất

Tôi nghe tin ông qua đời với một chút bùi ngùi, một chút thương tiếc nhưng cũng có cả một chút vui mừng cho ông. Bùi ngùi bởi tiếc một bậc tài hoa, thương tiếc bởi tiếc một con người tử tế và dễ bao dung đến mức khó tin, và mừng vui cho ông bởi từ nay ông được tự do, những ai đến viếng ông thì con cháu ông ghi sổ, ông không phải ngồi hí hoáy ghi chép…!
Tôi biết ông khá muộn màng, gặp ông đúng hai lần tại nhà ông và hai lần ấy để lại cho tôi ấn tượng khá mạnh. Lần thứ nhất, tôi và một người em (nhà văn, sống ở Huế, tôi xin giấu tên) đến nhà thăm ông ở phường Vĩ Dạ, sau một cơn mưa mùa xứ Huế. Nhà ông có một cây vú sữa khá to và lâu năm trước sân. Vào nhà ông, ấn tượng mạnh nhất vẫn là khoảng sân rộng có tiếng chim gù, cây vú sữa và những bức tranh Đạt Ma của ông vẽ.
Lần đầu thăm ông, tôi cảm nhận hầu hết các bức tranh Đạt Ma do ông vẽ đều có nét mặt rất Trần Vàng Sao. Sau khi trò chuyện thân mật, tôi hỏi ông đang vẽ Đạt Ma hay là đang vẽ chính ông. Ông chỉ cười, nói nửa giỡn nửa thật rằng Đạt Ma đang vẽ ông cũng đúng…
Sau một lúc trò chuyện, tôi chuyển đến ông một chút quà do người anh em bên hải ngoại gửi tặng ông và không quên xin ông chép cho một bài thơ mới nhất. Ông nói lâu lắm rồi không làm thơ, chỉ vẽ, mà chỉ vẽ Đạt Ma thôi, làm thơ khổ quá!
Khi tôi ra về, ông không quên hỏi tên tôi lần nữa và mở cuốn sổ ra ghi đầy đủ: Ngày… tháng… năm… anh… đến thăm vào lúc …h, ngồi chơi chừng…h rồi về…  Anh người từ… đến… Nội dung nói chuyện…”. Nhìn cuốn sổ dày cộm và chi chít chữ kia, tôi hỏi ông có mấy cuốn sổ như vậy. Ông nói mình không nhớ nổi, cứ cuốn này đầy lại phải ghi cuốn khác.
Người em nhà văn ở Huế phân trần “Đôi khi ông cẩn thận đến mức mình phát chán. Nhưng thực sự khó cho ông, bởi con của ông đều làm chủ tịch phường, làm chức này chức nọ, vì vấn đề chính trị của chúng, ông phải chấp nhận hi sinh nhiều thứ thôi!...”.
Lần thứ hai, tôi đến thăm ông vì một lẽ khác, tôi muốn tìm hiểu câu chuyện về Huế Mậu Thân 1968, tôi đến tìm ông. Lần này tôi đi với một anh bạn nhà thơ khá nổi tiếng trên đất Huế và khá thân với ông. Nói cách khác, anh này là bạn vong niên của ông.
Lần thăm thứ hai này, có vẻ như ông mệt mỏi và yếu hơn lần thứ nhất mặc dù thời gian chỉ cách nhau chưa tròn năm. Ông nói chuyện không còn hoạt bát và có vẻ như ông rất ngại nói đến những chuyện nhạy cảm. Khi tôi hỏi về chuyện Mậu Thân, trong đó gồm cả Hoàng Phủ Ngọc Tường lúc đó đang ở đâu, thì ông lắc đầu, nói thôi đừng nhắc chuyện cũ chi thêm buồn và mệt lắm. Ông kể sang chuyện đốt cỏ tranh trên rừng để lấy muối và nhử chồn, nhử thỏ.
Nhưng trước lúc tôi về, ông không quên nói lại lần nữa “Lúc đó hình như Tường nó ở trên căn cứ, chắc là không tham gia đổ máu đâu. Nhưng mà cứ nào thì mình không rõ chứ chỗ cứ mình thì không thấy Tường… Mình tin là Tường nó tội lắm, nó là nhà thơ, không thể giết người được!”.
Thực ra, tôi cảm nhận được trong sâu thẳm ông muốn nói gì, bởi ông là nhà thơ có ánh mắt biết nói và nói rất rõ. Nhưng ông không muốn bạn bè tổn thương, ông cũng chẳng muốn nhắc đến bất kì chuyện gì của quá khứ, ai làm sai thì lương tâm tự vấn mà tự đau khổ, dằng vặt… Ông từng nói vậy.
Và đương nhiên, khi tôi ra về, ông vẫn không quên lấy sổ ra ghi họ tên người thăm đầy đủ, sau đó lại nói về cây vú sữa trong sân nhà rồi tiễn khách. Vấn đề tự do của ông mà tôi nói rằng tôi có chút vui mừng vì ông được tự do khi qua đời cũng nằm ở cái cuốn sổ này. Ông chưa bao giờ có tự do ngay trong cả gia đình.
Trừ người vợ tảo tần của ông ra, dường như chung quanh ông là một hệ thống chính quyền thu nhỏ, các con của ông làm chức sắc địa phương, có người làm chủ tịch phường. Và ông không được phép nói gì thêm kể từ sau Bài thơ của một người yêu nước mình. Bởi ông làm cha, ông không thể ngồi viết những câu thơ khiến cho nồi cơm và cái ghế của con ông bị hất đổ. Và ông vẽ, ông vẽ như một sự ký thác linh hồn. Có lẽ vì vậy mà ông vẽ Đạt Ma khá là giống ông.
Có thể nói rằng hai chữ tự do theo nghĩa trọn vẹn của nó đối với cuộc đời Trần Vàng Sao là quá xa xỉ  và hoang đường. Ông bị mất tự do trên mọi nghĩa. Và cuộc đời ông, có lẽ chỉ có vợ ông và những câu thơ là hiểu và gần với ông nhất!
Và hình như, ngoài những người tìm đến thăm ông như một tri âm, trong giới văn nghệ nhà nước cũng lắm kẻ đến để bá vai, quàng cổ, chụp hình cùng ông và không quên diễn một tư thế để thấy mình cao hơn ông một chút hoặc mạnh mẽ, trẻ trung hơn ông một chút… Cái “một chút” đó không biết để làm gì nhưng người ta thường làm vậy. Chính vì vậy mà khi ông qua đời, có lắm người khi ông sống cũng chẳng thân thiết chi, nhưng nghe tin ông mất là trưng ngay một tấm ảnh chụp chung với ông cùng vài lời thương tiếc. Đương nhiên có người thương tiếc ông thật, cũng có người không biết có thật tình thương tiếc ông không!
Bởi tôi nghi ngờ điều này khi họ khoác cho ông một chiếc áo dũng cảm, dám nói dám làm. Không, Trần Vàng Sao không phải là một người như họ mô tả đâu! Ông cũng sợ nhiều thứ, ông sợ ngay cả những bài thơ của ông và ông chịu mất tự do, ngay cả việc uống cà phê với bạn bè, ông cũng hạn chế uống và mỗi lần uống, ông tranh thủ hít thở như đang nuốt lấy nuốt để bầu tự do thoáng qua. Và những lúc như vậy, nói chuyện là một cực hình đối với ông.
Tôi mới gặp ông có hai lần thôi nhưng sao tôi dám nói về ông nhiều vậy? Bởi hai lần gặp ấy, tôi chứng kiến mọi thứ, kể cả việc mời ông cùng ra phố uống cà phê và khi đưa ông về, ông nói là dạo này hơi hụt tiền nên chẳng dám cà phê, tôi lại nhờ ông chép tặng tôi bài thơ để tôi gửi nhuận bút cho ông. Chỉ là cái cớ thôi! Và gặp nhau cũng chỉ là cái cớ, làm thơ cũng là cái cớ, viết văn cũng là cái cớ và sống cũng chỉ là cái cớ để thấy mình tự do trong phút chốc với thiên thu!
Theo Blog Viết từ Sài Gòn (RFA)
song  
#2 Đã gửi : 10/05/2018 lúc 08:43:01(UTC)
song

Danh hiệu: Moderate

Nhóm: Registered
Gia nhập: 21-02-2012(UTC)
Bài viết: 24,684

Cảm ơn: 1 lần
Được cảm ơn: 2 lần trong 2 bài viết
Nhà Thơ Trần Vàng Sao Từ Trần

UserPostedImage
Nhà thơ Trần Vàng Sao. (Ảnh: Tạp chí Sông Hương)


Nhà thơ Trần Vàng Sao vừa ra đi, theo tin từ nhiều báo trong nước.

Báo Tuổi Trẻ ghi rằng nhà thơ Trần Vàng Sao - tác giả của thi phẩm 'Bài thơ của một người yêu nước mình' - đã trút hơi thở cuối cùng lúc 14h45 phút ngày 9-5-2018.

Nhà thơ Trần Vàng Sao tên thật là Nguyễn Đính, sinh năm 1941 (Tân Tỵ), quê quán ở thôn Vĩ Dạ, TP Huế.

Báo Dân Việt ghi nhận về bê5nh lý: Nhà thơ Trần Vàng Sao - tác giả của thi phẩm 'Bài thơ của một người yêu nước mình' đã vĩnh viễn đi xa sau thời gian bị tai biến nặng, hưởng thọ 78 tuổi.

Theo Tự Điển Bách Khoa Mở Wikipedia, nhà thơ Trần Vàng Sao tên thật là Nguyễn Đính (sinh 1941), là một nhà thơ Việt Nam.

Năm 1961 ông thi đỗ tú tài rồi vào Đại học Huế, tham gia các phong trào đấu tranh của sinh viên cùng thế hệ với Hoàng Phủ Ngọc Tường, Trần Quang Long, Ngô Kha. Từ 1965 đến 1970, ông lên chiến khu và công tác tại Ban Tuyên huấn Thành uỷ Huế, viết báo với các bút danh Nguyễn Thiết, Lê Văn Sắc, Trần Sao. Năm 1970 ông được đưa ra miền Bắc an dưỡng, chữa bệnh. Ở nơi đây, ông có viết nhật ký gồm những suy nghĩ của ông về cái gọi là "hậu phương xã hội chủ nghĩa" và sau đó bị tố cáo, đấu tố và cô lập đến nỗi ông có cảm giác không còn được coi là con người mà đã thành "một con vật, một con chó, theo như Hồi ký "Tôi bị bắt (Nhớ lại những năm tháng tôi bị bắt rồi được thả ra và sống như tù)" sau này của ông.

Sau khi Việt Nam thống nhất (tháng 4 năm 1975), Trần Vàng Sao tình nguyện về quê công tác nhưng không được chấp nhận; ông tự trở lại Huế làm liên lạc ở xã, sau đó được bố trí công tác tại Phòng Văn hóa thành phố Huế rồi được điều về làm liên lạc ở xã Hương Lưu (nay là phường Vỹ Dạ), Huế cho đến khi nghỉ hưu năm 1984.

Ông hầu như không cho xuất bản thơ nhưng vẫn nổi tiếng với "Bài thơ của một người yêu nước mình" ký bút danh Trần Vàng Sao sáng tác tháng 12 năm 1967 và được chọn trong 100 bài thơ xuất sắc nhất Việt Nam thế kỷ 20.

Năm 2008, Nhà xuất bản Giấy Vụn đã cho in tập thơ "Bài thơ của một người yêu nước mình" của ông.

Các tác phẩm của nhà thơ Trần Vàng Sao là:

-- Hồi ký Tôi bị bắt (1976)

-- Cương lĩnh chính trị diễn ca

-- Bài thơ của một người yêu nước mình (19-12-1967)

-- Người đàn ông 43 tuổi nói về mình (1984)

-- Buổi trưa giữa đường tôi ngồi núp mưa (1990).

--  Gọi tìm xác đồng đội (2012).

Báo Tuôỉ Trẻ kể rằng: Bài thơ của một người yêu nước mình là tác phẩm của Trần Vàng Sao được sáng tác vào tháng 12-1967 và được chọn là 100 bài thơ xuất sắc nhất Việt Nam thế kỷ 20.

Trong những năm cuối đời, nhà thơ Trần Vàng Sao cũng vẽ tranh, thường là dùng mực Tàu vẽ hình Bồ Đề Đạt Ma trên giấy dó.

Trong các bài thơ nổi tiếng của Trần Vàng Sao có bài “Bài thơ của một người yêu nước mình”  có phong thái đặc biệt, trích như sau:

...Tôi yêu đất nước này rau cháo
Bốn ngàn năm cuốc bẫm cày sâu
Áo đứt nút qua cầu gió bay
Tuổi thơ em hãy giữ cho ngoan
Tôi yêu đất nước này lầm than
Mẹ đốt củi trên rừng cha làm cá ngoài biển
Ăn rau rìu rau éo rau trai
Nuôi lớn người từ ngày mở đất
Bốn ngàn năm nằm gai nếm mật
Một tấc lòng cũng trứng Âu Cơ
Một tiếng nói cũng đầy hồn Thánh Gióng...
Theo Việt Báo
Ai đang xem chủ đề này?
Guest
Di chuyển  
Bạn không thể tạo chủ đề mới trong diễn đàn này.
Bạn không thể trả lời chủ đề trong diễn đàn này.
Bạn không thể xóa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể sửa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể tạo bình chọn trong diễn đàn này.
Bạn không thể bỏ phiếu bình chọn trong diễn đàn này.

Powered by YAF.NET | YAF.NET © 2003-2025, Yet Another Forum.NET
Thời gian xử lý trang này hết 0.128 giây.