Người đàn bà còn trẻ lắm, khó đoán tuổi. 20 hay 30? Gái quê mà được cái may mắn không quá lam lũ, cực nhọc, sẽ kéo dài thời hoa niên. Không phấn son, không se sua, không chưng diện, hiền khô, dịu dàng, trong veo. Gái một con trông mòn con mắt.
Cô ta ngồi trên chiếc phản gỗ gõ đen nhánh, láng lẩy, tay róc cau lảy lảy. Thật nhanh và cũng thật đều, như cái máy. Cách chiếc phản vài ba bước, người đàn ông, chồng, ở trần, mặc quần xà lỏn, đứng cầm tao nôi ru em nhè nhẹ. Em bé chưa đầy năm nằm trong chiếc nôi đan bằng tre, mây. Trời nóng, đứa bé vẫn được đắp kín nửa người bằng một chiếc khăn lông ố màu. Nó mở mắt nhìn trần thao láo, tay chân đạp chọi liên tục, miệng nút cái nấm vú của bầu sữa đã cạn phát ra những tiếng chùn chụt. Khi nấm vú chệch ra khỏi miệng, nó gù gù trong cổ họng nghe như tiếng chim cu gáy xa xa.
“Ngủ đi, ngủ đi, thằng chó.” Anh chồng có vẻ sốt ruột. “Tau còn phải cho heo ăng.”
Hai con heo trong chuồng nghe thấy thế, liền ré lên điếc tai, điếc óc. Chị vợ dịu dàng nhìn chồng, lẩm bẩm:
“Tứng từng. Noái khôn phải noái, hay thiệc. Ba hắng noái chữ nữa đi, ba hắng ơi.”
Chuồng heo nằm kế nhà bếp trong đó hai con heo một ốm một mập đang chạy lui chạy tới, đuôi xoắn tít, mỏ dướng lên cao, tru tréo đòi ăn. Đó là giống heo cỏ lông trắng, có vài miếng vá màu đen trên lưng, trên mông. Hai con heo cùng một lứa. Lúc anh chồng mới mua về nuôi, chúng lớn bằng nhau, còn bé bỏng lắm, bụng chưa phệ. Chỉ sau mấy tháng, một con lớn xổi, lớn gấp hai lần con kia nhờ tạp ăn. Cũng cùng được ăn uống chung một máng, thức ăn là thân cây chuối xắt mỏng, hoặc rong, bèo, trộn với cám, nấu lên cho nóng. Đổ thêm vào nước vo gạo. Đó là món ăn chính. Món ăn phụ thì hằm bà lằng. Bất cứ cái gì, chúng cũng ăn tưới. Vỏ trứng, vỏ tôm, vỏ cua, vỏ chuối, vỏ khoai, xương cá, chột nưa, ... Một con táp táp xộc xộc, nuốt rột rột, vừa ăn vừa đưa vai, đưa bụng lấn con kia, mà con kia thì cứ chúi mỏ vào máng nút nước, bỏ cái. Anh chồng hai ba lần kêu người tới bán con heo kén ăn, chẳng ai thèm mua. Không lẽ bắt làm thịt, đành phải nuôi tiếp. Mà cũng nhờ có nó, con kia càng giành ăn, càng mau lớn.
Để có phân bón, chuồng heo được trải một lớp khá dày gồm rơm, rạ, lá chuối khô, vài mo cau, trên đó hai con heo tha hồ lăn lộn, ngủ nghê, ỉa, đái. Dơ dáy. Mùi hôi hám quen thuộc lẩn vẩn đây đó suốt ngày đêm. Thiếu cái mùi đặc biệt đó, chắc chắn hai con heo nhớ, mà chủ nó cũng nhớ. Sau một thời gian, lớp rơm rạ ấy biến thành phân đủ ngoai, thì được dọn sạch, mang ra vườn sau, chất thành một đống, chờ dịp bón vườn cau. Lớp rơm rạ mới được thay vào, sạch sẽ, thơm tho. Heo vui mừng, hớn hở hẳn lên, đuôi càng ngoắt tíu tít, miệng càng kêu éc éc. Cùng với mùi hôi hám, tiếng heo kêu cũng tạo thành âm thanh quen thuộc, thân thương.
Bên trên chuồng heo là một giàn tre cho gà ngủ ban đêm, cứ gọi là chuồng gà. Mái tranh sơ sài, liếp tre hở hang không rào kín. Có khi nửa khuya gà kêu toáng loạn. Anh chồng vùng dậy, chạy tới. Sạt một tiếng, một con chồn phóng ra khỏi chuồng gà. Con chó nhà chạy đuổi theo một đoạn ngắn. Con chồn biến mất trong lùm cây đen. Con chó bèn thị uy gâu gâu thêm mấy tiếng trước khi theo chủ vô nhà, tới ổ con cúi, quay quay, xong bò lên nằm, lim dim mắt.
Một mệ gà đang ấp trứng trong ổ rơm, ngày nào cũng được chị vợ cho ăn lúa xép, bắp hột, cơm cháy. Thỉnh thoảng vảy cá, ruột cá. Chị cẩn thận đặt bên cạnh ống tre chẻ làm đôi dùng để đựng đồ ăn một cái gáo dừa nhỏ chứa nước uống. Con gà mệ tuy thế cũng đôi lúc rời ổ nhảy ra khỏi chuồng, xuống sân, ra vườn, nhón chân, vươn mình, đập cánh, rồi liếc mắt nhìn quanh, trước khi chúi đầu xuống đất tìm thêm vài thức ăn lạ. Bụng còn đói chắc, hay thèm ngọn cỏ non, chiếc lá rau, con sâu, con trùn. Rồi rùng mình cho thoải mái, quay mỏ rúc vô nách rỉa lông, rỉa cánh, rồi vội vã nhảy lên chuồng ấp trứng tiếp. Nó chăm ấp trứng đến rạc cả người. Nó đã đẻ và ấp nhiều lứa trứng rồi, con của nó cũng đã đẻ, đã ấp, nên nó được gọi là gà mệ, hay mệ gà. Mệ là mẹ của mẹ. Ôn là ba của ba. Lông hơi xơ xác, mồng không còn đỏ tươi như thuở còn thanh xuân, thân hình có phần còm cõi.
Những con gà mái khác đi theo con gà trống đầu đàn kiếm ăn từ sáng sớm cho đến khi tắt mặt trời mới mò về chuồng. Mò? Đúng. Ham kiếm ăn cả ngày hết vườn nhà qua vườn hàng xóm gần, hàng xóm xa. Vịt còn có khi vui chơi, thư giãn, gà luôn luôn bận bịu vì miếng ăn. Cho đến chạng vạng, gà mới mò về, mắt không quen cái cảnh tượng tranh tối tranh sáng, nhớn nhác, cái đầu thụt vô thò ra, hai chân bước thấp bước cao, tìm chuồng.
Gà chỉ được chị vợ cho ăn ngày một lần. Ít thôi. “Cơm mô cho đầy miệng chó, ló mô cho đầy miệng gà.” Khoảng xế trưa, chị một tay nách một trẹt lúa xép, bắp mọt, sắn chang băm nhỏ, ra đứng giữa sân, tay kia bốc từng nạm thức ăn đó vãi ra quanh mình, miệng chu lại hô to “cu ... cu, cúc ... cúc, cu ... cu ... cù ... cù ... cù...” Thế là gà ào ào tuôn về. Có con vừa chạy vừa đập cánh để gia tăng tốc độ. Thỉnh thoảng có con bay bổng lên khỏi mặt đất. Những con khác thấy thế tỏ vẻ khâm phục hay sợ sệt cũng nên, sợ bọn ấy vừa hóa phép biến thành diều hâu chăng, vội ngừng chạy, thu mình nép xuống đất, miệng rú lên những tiếng kêu nho nhỏ “báo động cho đồng đội”, rồi chồm người chạy tiếp.
Mấy đàn chim sẻ từ những bụi hóp, bụi tre, cây khế, cây nhãn quanh nhà cũng lũ lượt bay tới, nhưng chỉ mon men nhảy chóc chóc đằng xa. Chúng không dám chen chân với đám gà hung dữ. Chỉ một thoáng, đồ ăn hết nhẵn. Tuy thế, con gà trống đầu đàn cũng kịp giở trò nịnh đầm, bươi móc đâu ra được vài ba hột lúa, hột bắp, mổ lấy mà không nuốt vô bụng, trái lại lên giọng kêu gọi những con gà mái, gà tơ đến, rồi nhả thức ăn trong mỏ ra mời mọc, rồi sè một bên cánh, nghiêng mình quay quanh một con gà mái nào nhanh chân tới trước. Cái kiểu sè cánh chạy quay quay trông chẳng khác một chàng đấu bò Tây Ban Nha hai tay dương tấm vải đỏ vờn vờn trước đầu con bò tót. Nhưng con gà trống có mục đích khác. Nó muốn xâm phạm tiết hạnh của con gà tơ đấy mà. Con gà mái tơ chỉ lạng mình một cái là tránh được ngay, vội cúi đầu đưa mỏ “thốt, thốt” cái của ngon từ mỏ con gà trống, rồi chạy đi nơi khác. Con gà trống lại giở cái trò đó với vài con gà mái khác, cũng công toi.
Hết sạch đồ ăn, đàn gà đứng chần chờ một chốc xem có được cho ăn thêm gì không, rồi tản mác dần. Con gà trống bèn vỗ cánh, nhón chân, vươn cổ gáy một tràng ăn mừng chiến công hụt, và đi mất dạng cùng với những con gà còn sót lại cuối cùng.
Có khi chị nhìn theo đàn gà, thở dài. Chị có cái tật vui buồn thất thường, bất chợt. Và nghĩ thầm, Rứa là bầy gà lại đi bươi bươi, móc móc, hai cấy chưng cào cào và cấy mỏ thốt thốt bậng bịu kiếm ăng khôn hở. Tội nghiệp. Vịt sướng hơng diều. Có mệt thì co một chưng đứng chơi ngó trời ngó đấc, dư mấy con dê đứng nửa chừng dốc thắc leo mắc ngó xa xuôi, hay hoặc mò xuống hoái kiếm tôm kiếm tép trong rong, trong bèo, hay hoặc đi lệt bệt xuống ao bơi lội, nghe tưởng dư tiếng bầy dê giẫm chưng trong buổi sớm mai sương xuống dư mưa, che hết mọi thứ, khôn thấy dê mô cả chỉ nghe tiếng nó bước, hay hoặc ngụp lặng dưới nước dững bữa trưa nắng cháy lưng. Mà cũng lạ, chỉ biếc con dê một lầng khi đi thăm cậu mợ ở Nam giao đã lâu lắm, Nam Giao đường đi lên dốc xuống dốc liềng liềng, núi đồi lổm nhổm khắp nơi, mà cứ dớ con dê hoài. Chắc là vì lầng thứ dứt trong đời thấy dê đứng thắc leo trên dốc đứng mà khôn bổ. Mà mình lại là tuổi coong gà, tuổi dậu. Đời mình về lâu về dài chắc là cũng khôn được thong dong. Phải chi có tuổi con vịt. Hay hoặc tuổi con heo cũng được. “Tuổi hợi nằm đợi mà ăng.” Ô, khôn được rồi. Heo khi đủ nặng, đủ béo, bị thọoc huyếc ngay. Cầu trời cho mình được dư ri cũng được cho tới khi về với ôn mệ. Mà khi mô thì về với ôn mệ. Chợt nghĩ tới đó, chị rưng rưng nước mắt, ngó quặt ra ngoài cươi.
Tuy thế cái sân chưa vắng hẳn. Khi không còn một còn gà nào nữa, mấy con chim sẻ bạo dạn nhảy cà tưng ra giữa sân nghiêng đầu nghe ngóng, mỏ không ngớt chiêm chiếp đòi ăn. Quả nhiên, chỉ một chốc sau, chị thương tình trở lại sân mang theo một dúm gạo trong lòng bàn tay, miệng không cúc cúc ... cu cu ... nữa, sợ gà trở lui. Chỉ vẫy nhẹ tay một cái. Đàn chim sẻ bay tới sà xuống trông giống những “chiếc lá rụng nghiêng”, tung tăng mổ mổ. Vui mắt quá, chị thầm nghĩ.
Chị quay đi vô nhà bỗng dưng quên mọi ý nghĩ buồn rầu, lòng nhẹ lâng lâng. Sực nhớ, miệng lại lẩm bẩm, Tứng từng, tứng từng. Ba hắng hay thiệt.
Kế đến là nhà bếp. Gọi là nhà bếp nhưng đúng ra chỉ là cái chái nhỏ, thấp, nơi đó có ba cái bếp lửa. Mỗi bếp gồm ba viên gạch đâu vào nhau. Bếp thứ nhất dùng để nấu cơm; bếp thứ hai kho thức ăn, có khi chiên, xào; bếp thứ ba dành cho nồi cám heo. Cơm nấu trong cái om đất, chụm bằng lửa rơm, ăn mới ngon, trên cái bếp thứ nhất. Đồ ăn được nấu trong cái quánh trên cái bếp giữa, như cá, thịt, canh, chụm bằng nè, hoặc nhánh cây khô. Bếp thứ ba ngoài cùng nấu nồi cám heo mới cần củi.
Anh nhiều lần kín đáo dòm vợ kho nấu. Chị một mình vừa nấu cơm, vừa kho cá hoặc luộc rau, hoặc nấu canh, vừa coi chừng nồi cám heo. Hai tay thoăn thoắt với đôi đũa trui, gạt tro lửa rơm ùn lên thành đống nơi bếp thứ nhất; lấy ống tre thổi phù phù vào nồi cám heo cho lửa mau bắt ở bếp thứ ba; vớ đôi đũa tre trở khúc cá cho vàng da và chín đều và tay kia thì đẩy đẩy mấy que nè, nhánh cây khô nơi bếp thứ hai. Canh chừng lửa cho vừa vặn trong ba cái bếp cùng một lúc. Đặc biệt là bếp lửa rơm, cái om cơm mau sôi, mau cạn. Nếu không khéo, cơm dưới cháy trên sống giữa nhão. Khói lên ùn ùn làm cay hai con mắt của chị, và mồ hôi tuôn ra ướt đẫm cái áo cánh, và hai gò má đỏ dậy lên như hai cục than hồng. Anh chồng đứng xa nhìn vợ nấu nướng, lim dim mắt, cười vu vơ.
Ngôi nhà tranh một gian hai chái. Gian giữa dành cho bàn thờ Phật, tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Chái bên phải bày một bộ ngựa gõ ít khi được dùng đến; chái bên trái có một cái giường tre của hai vợ chồng. Bên trên gần nóc của gian giữa, là cái tra dùng để chứa các thứ lặt vặt như dao, rựa, xà beng, nông cụ, và một cái bồ nhỏ đựng lúa. Cái tra cao, cách nền nhà đất nện gần ba thước. Mùa lụt nước vô nhà cũng không thể nào lên tới cái tra, không thể lọt vô bồ lúa. Thẳng góc với chái trái là nhà ngang, trong đó có cái phản nhỏ để ngồi róc cau, cái lò sấy cau, bộ bồ sề. Không có bàn ghế; ăn uống ngồi trên phản. Do đó khi có dịp đi vào một tiệm ăn nào đó - hiếm lắm, anh thì có được một lần trải qua, chị chưa bao giờ - gọi là đi kéo ghế. Tiếp đến là chuồng heo, chuồng gà, nhà bếp như đã nói. Bà con lối xóm hoặc người quen có tới chơi, thăm viếng, cũng vô nhà ngang thay vì chái phải với bộ ngựa gõ.
Ngôi nhà nhìn xéo xuống con hói nhỏ, nhiều rong bèo. Đó là nguồn thực phẩm vô tận của heo. Nhưng heo thích ăn thân chuốt xắt hơn; thịt heo do đó cũng trắng trẻo, thơm tho hơn. Nhưng đâu có đủ thân chuối cho nó ăn hoài.
Con hói cũng là nơi sinh hoạt khá tấp nập vào buổi trưa, buổi chiều. Mấy o con gái trong làng ngồi trên bến đá ven bờ hói giặt giũ, vo gạo, rửa chén đọi, làm cá, chặt thịt. Có khi giặt chiếu, cuốn tròn chiếc chiếu lại, đưa cao lên khỏi mặt nước, rồi đập mạnh xuống, tạo ra những tiếng kêu vang dội cả một vùng. Lũ trẻ con đứng lom khom lẫn sau những bụi tre hay gốc dừa câu cá rô, cá mại, cá cấn. Cá rô lớn bằng ba ngón tay chụm lại, câu sướng tay lắm, nó cắn mồi rồi lội nhanh dưới nước làm căng sợi dây câu, làm rùng rùng cái cần câu; cá mại chỉ to như ngón tay cái thôi, gặp “cá mại bà” to hơn, ăn béo ngậy; còn cá cấn thì nhỏ bằng đầu ngón tay út, màu sắc rực rỡ, vãy óng ánh xanh đỏ tím vàng, chuyên rúc rỉa phá mồi. Bọn con trai lớn hơn có thú vui khác, chúng nó trần truồng bơi lội bì bõm, hoặc nghịch phá giữa dòng hói. Thỉnh thoảng, một ông già gầy gò đội nón lá rách bươm ngồi co ro trên lá thuyền nhỏ như không thể nào nhỏ hơn, hai tay cầm hai mái chèo tí hon trông giống như hai con dao phay ve vẫy lượn lên lượn xuống con hói, cất rớ tôm, tép.
Hầu hết những gia đình trong cái xóm nhỏ đó đều làm nghề bửa cau.
Riêng láng giềng bên trái của anh chị lại làm nghề khác. Nghề xắt thuốc, bán thuốc. Chồng xắt thuốc. Vợ gói lại những lát thuốc đã được xắt hình tròn, méo, mỏng thành nhiều gói trong những miếng lá chuối tươi để thuốc dịu, hay vấn thuốc trong giấy quyến thành điếu sâu kèn, hay sắp những lát thuốc lên trên một cái nia nhỏ. Xong đem ra chợ Phổ bán.
Dân làng, đàn ông cũng như đàn bà, hầu hết đều hút thuốc vấn. Hút không hết điếu thuốc, hoặc muốn để dành, thì phần thuốc lá còn lại được dán lên chỗ nào thuận tay. Dễ dán lắm. Khỏi cần keo, hồ. Chỉ có việc đưa mẩu thuốc dư đó, nơi đầu thừa giấy, cho lướt qua cái lưỡi thè ra để nó vừa ướt, rồi dán. Những khi hết thuốc, không kịp mua hay không có tiền để mua, họ lột mấy miếng thuốc đã dán trên cột nhà, trên khung cửa, dưới chân phản, chân ngựa, có khi “cắc cớ” dán lên chiếc nón lá đang đội trên đầu, xong đút vô miệng ngậm, tới bếp lửa gắp cục than hồng nhỏ xíu thắp thuốc. Hít hà được mấy hơi.
“Miếng trầu làm đầu câu chuyện”. Thêm điếu thuốc, câu chuyện đậm đà hơn. “Nào khi ra đi/Trầu ăn thuốc hút”. Nhiều khi cơn thèm nổi lên, không có ai để trò chuyện cũng phì phà điếu thuốc cho đỡ buồn. Về sau, thời buổi văn minh mà, đàn ông ai có tiền bạc dư dả thì mua thuốc Tây hút. Mua nguyên bao hoặc mua thuốc lá lẻ. Điếu thuốc Tây hai đầu tròn bằng nhau. Phải hút cho càng hết điếu thuốc càng tốt, phỏng miệng cũng hút, đỡ tốn, vì không thể dán mẩu thuốc còn lại để dành. Mấy bà, mấy o trái lại rất bảo thủ, chỉ hút thuốc lá vấn sâu kèn. Không o nào dám hút thuốc Tây, sợ bị coi là đồ con gái hư. Y phục cũng thế. Đàn ông còn quần cụt, quần tây, áo sơ- mi. Đàn bà, con gái, luôn luôn áo dài, quần dài cổ truyền. Bước ra khỏi nhà là phải áo dài, kể cả mấy o buôn thúng bán mẹt.
Việc xắt thuốc rất đơn sơ, ngộ nghĩnh. Trước hết lá thuốc. Thường là lá thuốc Cẩm Lệ nổi tiếng, tức là thuốc trồng ở làng Cẩm Lệ, Quảng Nam. Lá thuốc được phơi, phóng, ướp bằng nước sền sệt sắc từ cọng lá thuốc, rồi được cuốn tròn và chặt, đường kính khoảng hai phân tây, nối tiếp nhau thành một cuộng dài khoảng một mét, trông giống như khúc dồi heo khổng lồ. Và khoanh lại thành khoanh tròn. Tiếp theo là cái bàn xắt thuốc. Một bửng gỗ vuông mỗi bề hơn hai gang tay, dày khoảng năm phân tây, đặt thẳng góc với một cái bệ gỗ vững chắc bên dưới. Ở giữa bửng gỗ đó có đục một cái lỗ hình tròn đường kính cũng khoảng hai phân tây, cho vừa với cuộng thuốc. Lắp vào cái bệ và sát cạnh với bửng gỗ là con dao sáng loáng hình bán nguyệt lớn hơn hai bàn tay đâu lại. Con dao có hai cái cán ở hai đầu.
Có lẽ anh láng giềng đã hành nghề xắt thuốc từ thuở bé. Anh ngồi nghiêng người suốt ngày cạnh bàn xắt thuốc. Trong khi bàn tay trái chỉ đẩy cuộng thuốc qua cái lỗ tròn trên cái bửng, bàn chân trái kẹp chặt một đầu cán dao, kềm chặt luôn cái bệ bên dưới, thì tay phải phải vận động nhiều và mạnh - cầm cứng cán dao đầu kia, ép sát lưỡi dao vào bửng gỗ, dập xuống kéo lên không ngớt, xắt lia lịa vào phần cuộng thuốc vừa mới thò ra khỏi lỗ tròn nhờ bàn tay trái đẩy. Những lát thuốc rất mỏng tròn hoặc bầu dục rơi nhanh và đều xuống cái trẹt đặt bên dưới. Cả người anh ta, vì thế, biến thành dị dạng. Hai ống chân như hai ống sậy, vai lệch, cánh tay và bàn tay trái nhỏ tong teo so với cánh tay phải gân guốc, bàn tay phải to đùng. Khoảng vài mươi phút xắt xong một khoanh thuốc lá. Khoanh khác được mang tới ngay.
Anh chị không có láng giềng bên phải. Phía bên phải của ngôi nhà là con đường hẻm chạy song song với con hói nhỏ dẫn ra ngôi chợ của làng, có tên là chợ Phổ.
Thật ra làng Nam Phổ, hồi đó, có năm thôn, còn gọi là giáp, nối dài theo thứ tự Tây, Nam, Thượng, Trung, Đông. Về sau có thêm Phổ Trì, tiếp theo là làng La Ỷ xinh đẹp nằm nơi khúc quanh của sông Hương, bên lở bên bồi. Về sau nữa, tên làng lại đổi khác. Mỗi giáp có cái đình riêng. Cái đình chung của làng là Đình Cả khá lớn; trước đình, bên kia con đương nhựa đen, có ao sen hình bán nguyệt nằm kế lũy tre lá ngà cao và rậm, kêu kẽo kẹt suốt ngày đêm. Cái chợ chung của làng là chợ Phổ, thuộc địa phận của Giáp Nam, hay Phổ Nam. Cư dân của Phổ Đông, xóm Rột, thường đi chợ Nọ, gần hơn. Từ trụ sở huyện lỵ Phú Vang nhìn ra con đường nhựa nói trên (con đường này chạy dài xuống Thuận An), đi qua chiếc cầu gỗ bắc ngang một nhánh sông Hương, là đến chợ Nọ. Chợ Nọ thuộc làng Dương Nổ. Chợ Nọ nghe vui tai, phải khôn mạ hắng? Rứa tui đố có chợ mô tên là chợ Tê hay khôn?
Ngôi nhà chính cùng với nhà ngang bao bọc hai cạnh của cái sân đất nện hình vuông. Ở một góc sân có cái bể cạn. Cạnh đó là một bụi bông trang lá dày xanh đậm, hầu như lúc nào cũng cho ra hoa đỏ thắm. Lá rất xanh, hoa rất đỏ. Bốn cây cau được trồng quanh bể cạn. Trên mỗi thân cau đều được cột chặt vào một mo cau uốn thành hình cái phễu chỉa vào gần mặt bể nước. Huế nhiều mưa. Nước mưa từ những tàu lá cau trên cao sẽ theo thân cây chảy ròng ròng xuống phễu, và từ đó chảy róc rách xuống bể cạn. Mùa mưa, bể cạn đầy. Trên mặt nước, mấy cánh bèo tí hon lúc la lúc lắc dưới cơn mưa, mấy cọng rêu xanh nhạt chìm chìm, nổi nổi, đàn cá mặt trăng nhỏ hơn cây tăm xỉa răng lăng quăng, luýt quýt. Bên trên mặt nước, thỉnh thoảng vài ba con chuồn chuồn kim lượn qua lượn lại. Chuồn chuồn kim nhỏ như cây kim may. Muốn làm quen với cá mặt trăng hả? Và khi nắng hửng lên, những con chim sẻ rất dạn dĩ, vì có “quen biết” với chị, nhảy nhót, vui chơi trên thành bể. Ngồi róc cau trên phản, chị thường nhìn mông ra bể cạn, lòng thư thái.
Trước mặt nhà, một bụi chè tàu làm bình phong. Sau nhà, vườn cau xanh biếc, mát mẻ, ngay hàng thẳng lối. Dọc theo những gốc cau là những con mương hẹp, cạn, thỉnh thoảng được chuyển nước vào. Cau được trồng khá gần nhau, nhờ vậy đến mùa thu hoạch, anh chồng chỉ cần trèo lên cây cau đầu tiên, cắt buồng cau xong khỏi phải mang xuống gốc, dùng dây thòng buồng cau xuống cho chị vợ đứng bên dưới đỡ lấy. Rồi cứ thế cắt tiếp. Một cây cau trong thời kỳ trẻ trung có thể trổ ra bốn, năm buồng. Xong, anh kéo dây lên, nghiêng mình đu chuyền qua cây cau khác, cắt những buồng cau khác. Cứ thế cho đến khi thu hoạch xong cây cau cuối cùng trong vườn, anh mới trụt xuống.
Muốn trèo cau dễ dàng, dùng cái nài giống như cái chiếc còng số 8 để đưa hai bàn chân vào. Cái nài giữ hai ống chân và cho hai bàn chân xòe ra ôm lấy thân cây cau; bên trên hai tay cũng ôm lấy thân cau; rồi hai chân đạp đẩy người lên, hai tay thì kéo; trèo, trèo. Vật liệu làm nài: cọng giữa của tàu lá chuối vừa khô, dai, đập dập, uốn cong thành vòng tròn, cột lại hai đầu. Bẻ quặt thành hình số 8.
Rải rác dăm ba cây chuối, một cây khế chua, mấy khóm rau thơm, rau húng, tía tô, nhiếp cá, rau khoai, và một cái giàn bằng tre cho leo lên vài dây bầu mé này, vài dây bí mé kia. Và đặc biệt, một cây nhãn, anh chị gọi là cây “dỡng”, tựa dày, hột nhỏ, rất ngọt, rất ngon.
Cau là nguồn sống quanh năm. Hết cau nhà, hai vợ chồng hái cau thuê, bửa cau thuê, người Bắc gọi là bổ cau, cho hàng xóm, hoặc cho những làng gần, làng xa. Có khi anh chị đi đến tận Mỹ Lợi cách nhà nhiều dặm đường, không đi xe, tốn tiền, đi bộ mà thôi, rồi lên đò qua mấy khúc sông. Cau Mỹ Lợi cũng khá ngon, nhưng không ngon bằng và không có tiếng tăm như cau Nam Phổ. Đây cau Nam Phổ: mỏng vỏ, nhỏ xơ, tơ lòng, trong ruột.
Chuối dành để cúng kỵ; khế, bắp chuối sứ, xắt mỏng để ăn chung với những món rau xanh. Trái khế còn được dùng làm khế xăm ngâm trong nước mưa đựng trong chiếc vại sành.
Nhưng cây nhãn mới đặc biệt. Mỗi năm nó cho một lứa trái; hai vợ chồng không dám ăn từ khi có đứa con trai đầu lòng. Hay nói đúng hơn chỉ ăn mót mấy trái long ra khỏi chùm, nằm trong cái lồng làm bằng mo cau có đục mấy lỗ thông hơi. Không có cái lồng, chim chóc sẽ quấy phá những chùm nhãn mơn mởn, và gió sẽ đu đưa làm rụng những trái nhãn chín tới, thơm lừng.
Vừa sinh đứa con, vợ bàn với chồng rằng cây nhãn phải là của riêng của “thằng chó”. Mỗi mùa có bao nhiêu nhãn bán hết, và “không được rớ tới” số tiền bán nhãn. Số tiền đặc biệt đó dành cho “thằng chó” khi lớn lên mua quần áo, sách vở, viết mực, những gì liên quan đến việc học hành của nó. Hai vợ chồng thương “thằng chó” lắm, nhịn ăn nhịn tiêu, cố gắng cho nó sau này sẽ đi kiếm năm ba chữ lận lưng làm vốn. Họ mong “thằng chó” nên người. Hay hơn thế nữa, thành tài.
Chị quá trẻ so với chồng. “Ba hắng” hơn “mạ hắng” trên 20 tuổi, cha mẹ đã qua đời, để lại một vườn cau nhỏ, và vài sào ruộng trên cánh đồng ngoài, nghĩa là bên ngoài lũy tre chắn ngang làm biên giới. Khác với cánh đồng ngoài, cánh đồng trong thuộc vào loại thượng đẳng điền, đất tốt, có dòng suối uốn quanh, sản xuất loại gạo thơm phức. Anh đã có một đời vợ. Vợ bị thương hàn chết sớm cùng cái bào thai nằm trong bụng mẹ. Năm năm sau anh mới cưới chị, năm kế tiếp sinh con. Thương và chiều chị như “chiều vong”. Chị “hiền khô”. Không phải vì được chồng thương mà “leo lên đầu, lên cổ” chồng mà ngồi, trái lại cũng thương chồng vô cùng, dịu dàng, kín đáo. Chị thường nói, Tui cũng thương ba hắng hung lắm, mà ba hắng mô có biếc. Và chị cũng thường tự hỏi, Hồi mới về, tui sợ mình hơng sợ cọp. Mình gầng bằng tuổi cha tui, bặm xị, dữ dằng. Rứa mà có khi mình chui cấy đầu bờm xờm vô bụ người ta có khác chi thằng chó khi đoái đoài bú. Lầng lầng hết sợ. Mà thương thì thương hơng.
Rồi cười. Ít khi bằng miệng mà bằng mắt, hai con mắt lóe ra những tia ấm áp, xôn xao, khuôn mặt bỗng sáng tỏa lên. Tay phải cầm dao, chiếc dao cau cán dài đến gần hai gang tay, lưỡi cũng dài và sắc lẻm. Cái cán dài được kẹp vô hông khi róc cau. Ngón cái của bàn tay trái ấn mạnh lên chủm cau, những ngón còn lại nâng lòng trái cau xoay nhanh. Lưỡi dao từ bàn tay phải róc vỏ trái cau, róc róc lia lịa như máy. Vỏ cau xanh, mỏng, rơi lả tả xuống cái nia lớn đặt bên dưới.
"Răng, răng. Ba hắng lại noái chữ đó hả."
Liếc mắt tình tứ nhìn chồng, chị nói tiếp:
"Tứng từng, tứng từng. Noái không phải noái, thức cười quá."
"Ở đó mà cười với khóc! Mà trửng với giỡng. Róc cau nỏ lo róc cho kịp, lại còong liếc liếc người ta. Coi chừng đức tay chừ."
“Ăng noái vô duyêng,” chị lẩm bẩm. “Noái khôn phải noái, vừa ngủ vừa róc cũng mô vô nấy. Diều khi róc cau suốc đêm, ngủ ngồi khi mô khôn biếc, cái lưng nghiêng qua nghiêng lại nghiêng tới nghiêng lui, dư mụ Tám lên đồng. Muống bổ sấp bổ ngửa. Cặp mắc thì dắm trít, hơi thở phì phì như nồi cơm đương cạng. Mà cũng biếc khi mô róc xong một trấy, lấy ngay trấy khác róc liền liền.” Nói thì thầm một mình. “Cho kịp chơ. Còong phải cắc chủm, rồi bửa, rồi sắp lên bồ, sề, sấy, rồi đếm từng thiêng, vô bao, rồi gánh tới dà mụ Đội. Trễ hẹng mụ chưởi cho túi mặc túi mũi. Mà thiệc ra mụ chưa chưởi mình, mụ thương, mà thấy mụ chưởi người khác mình cũng đủ tảng thầng hồn.” Quay qua nói với chồng. “Nên phải dờ ba hắng ru thằng chó. Tui mà ru hời ru hởi một chút thôi là hắng ngủ liền. Mà cũng dờ hắng khôn chịu ngủ, tui mới được nghe ba hắng noái chữ.”
Anh tính mở miệng, chị khoa tay chận:
“Khoang cái đã, tui chưa noái hết. Noái khôn phải noái, đức tay răng được mà đức. Muống chọc tui hả? Tui chọc lại cho mà coai.” Bỗng chị lên giọng to hơn, con chó mới lớn nằm ngủ trong cúi mở choàng mắt nhìn chị, đuôi ve vẫy nhè nhẹ. Chị cười:
"Duyêng nợ tứng từng. Hay thiệt. Hay dức trong bài noái chữ." Đỏ mặt. "Mà ba hắng ưa tứng từng thì có."
"Mạ hắng lại dắc chừng đó hả? Được, tui dớ mà. Túi ni hỉ."
Người đàn bà la toáng:
"Khôn phải, khôn phải mô. Vô duyêng. Tui học lui học tới chưa thuộc nên dờ ba hắng noái lại. Thằng chó théc chưa? Ba hắng nói chữ lại từ đầu tới đuôi cho tui nghe đi."
Nói thì thầm, Mình biếc diều câu hò ru em, ‘Seng xa hồ nên chi seng khô hồ cạng. Lựu nọ xa đào nên chi lựu ngã đào nghiêng. Vàng cầm trên tay rớt xuống khôn phiềng. Xa người bạng cũ biết mấy niêng cho hết buồng.’ Làm răng mà hay cho bằng ba hắng noái chữ. Tề, tề. Diều khi coong dỏ hàng xóm đứng sau bụi chè tàu rình nghe trộm. Hắng coai bộ muống mặng mà với ba hắng. Khôn sợ. Cứ vô đây nghe cho vui, có chị có em, tui khôn gheng mô.
Người đàn ông hả họng cười khoái chí, lòi cái răng mẻ chưa có tiền đi bịt bạc.
“Noái lại từ đầu thì noái lại. Sợ chi.” Lên giọng ê a như ông thầy pháp tụng kinh:
Mầng một bức thơ
Gởi về bổn hạc
Trước thăm da dạc
Sau viếng tình dơng
Duyêng nợ tứng từng ...
Người đàn bà cười khúc khích:
“Đọ, đọ. Tứng từng, tứng từng.”
“Cứ chậng họng người ta hoài. Không noái nữa.”
“Thôi, thôi, ba hắng bớc giậng. Tui xin một chữ ngồi yêng.”
“Ngồi yêng răng được. Ngồi róc cau mau mau lên đi chơ.”
Người đàn bà dạ dạ. Người đàn ông nheo mắt cười lại, ê a tiếp, giở cái giọng thảm thiết:
Duyêng nợ tứng từng
Thủy chung dư dức
Chẳng qua chuyệng cực
Đôi đứa đôi phương
Chị vợ chớp chớp mắt:
“Tội nghiệp quá.”
“Tội chi mà tội. Tội lội xuống sông. Mai mốt có chồng tội lội lên. Mà để yêng cho người ta noái. Hể chậng họng một lần nữa, một lầng nữa thôi, dức định không nói nữa mô. Dớ đó nghe.”
Đạo ngãi tình thương
Trăm năm tạc dạ
Nào ai ở chạ
Trời đất chứng tri
Chị buột miệng:
“Rứa mới đáng là bậc ... chi chi hè.”
“Thôi không noái nữa.”
Chị vợ hốt hoảng:
“Tui lại lỡ miệng ba hắng ơi. Tui dức định khôn dám hó hé một tiếng nữa mô. Ba hắng bớc giậng, bớt giậng. Cho tui dờ.”
“Có chắc không?”
“Chắc chơ răng khôn chắc.”
Anh liếc mắt một cái sắc lẻm, tiếp tục ê a, giọng càng não nuột hơn:
Nào khi ra đi
Trầu ăng thuốc hút
Vắng mặc một chút
Thương dớ ba ngày
Nào khi thiếp đó chàng đây
Châu rơi ước áo ...[1]