13) Như Tranh Vẽ Trên Hư Không
Theo tác giả, “Lời dạy như huyễn của Thiền Tông đã xuất hiện từ những năm đầu khi Đức Phật mới đi hoằng pháp. Mở đầu nhóm Kinh Tập là Kinh Sn 1.1 - Uraga Sutta. Kinh Sn 1.1 gồm 17 bài kệ, lập lại câu “tất cả thế giới này là không thật” tới 5 lần trong 5 bài kệ mang số từ 9 tới 13.” Vì thế giới này không thật cho nên Phật dạy phải buông bỏ. Và Đức Phật đã lập lại 17 lần nhóm chữ “rời bỏ được cả bờ này và bờ kia” trong 17 bài kệ của Kinh Sn 1.1. Như vậy bờ Mê cũng bỏ mà bờ Giác cũng bỏ đúng như một đoạn trong Bát Nhã Tâm Kinh, “Vô trí diệc vô đắc”. Như vậy tất cả những gì mà chúng sinh đang nhìn thấy đây đều do chúng sinh tự vẽ ra. Nó loạn sinh ra và loạn diệt mất giống như tranh vẽ giữa hư không.
14) Không Cửa Để Vào, Không Lời Để Nói
Chương này “Viết về Thiền, phần lớn sẽ ghi một số lời dạy của Đức Phật trong pháp Thiền Tông, còn gọi là Thiền Đông Độ, hay Thiền Đạt Ma, hay Thiền Tổ Sư, và riêng tại Việt Nam còn gọi là Thiền Trúc Lâm.” Dù nói là không cửa (vô môn quan) nhưng vẫn lấy giới- định-huệ để lìa tam độc (tham, sân, si) và vẫn dạy niệm Phật. Vì “không cửa” cho nên một ông tăng không thể ôm một chồng kinh điển để vào cửaThiền. Vì “không cửa” cho nên lối ngộ Thiền hoàn toàn khác nhau. Mỗi vị tăng ngộ Thiền một cách khác. Thế nhưng tuy “cách” tức hoàn cảnh có khác nhưng tất cả đều phải ngộ “tông chỉ Phật”.
15) Huệ Khả Cầu Pháp Đọc Từ Tạng Pali
Trong chương này chúng ta cần biết người tu Thiền có thể đạt được Niết Bàn ngay bây giờ không? Hay phải đợi chết đi mới có? Tác giả trích dẫn lời dạy của Đức Phật để nói rằng, “Niết Bàn hữu dư là với các vị tuy đã đoạn tận lậu hoặc nhưng còn thấy có pháp để tu; trong khi đó, Niết Bàn vô dư là các vị vẫn sống trong đời này (chứ không phải đã chết) nhưng không thấy căn-trần-thức nào để tu nữa.”
Đây là sự khác biệt có tính quyết tử giữa đạo Phật với các đạo thờ thần là phải chết đi thì mới thấy Thiên Đàng. Trong khi theo Phật thì ngay bây giờ và tại nơi đây (here now) cũng có thể đạt tới Niết Bàn mà Niết Bàn thì còn cao tột hơn cả Thiên Đàng. Thiên Đàng vẫn còn Ái-Dục mà Ái-Dục lại sinh khổ đau. Còn Niết Bàn là đã tuyệt trừ mọi khổ đau, phiền não và sinh tử luân hồi.
16) Tin Phật, Tin Pháp, Tin Tăng
Trong chương này tác giả nhận định về thời đại cách mạng truyền thông và điện tử như sau,”Những lời bình luận ngắn và ác ý trên mạng xã hội cũng có sức mạnh đẩy một số ca sĩ nổi tiếng vào trầm cảm, có khi tới mức tự sát. Những hình ảnh sửa đổi, giả mạo, gán ghép khi phóng lên mạng đã trở thành vũ khí bôi nhọ mới. Những lời quy chụp vô căn cứ đưa lên YouTube lại được nhiều người tin tưởng và hùa theo chửi mắng. Không chỉ là quân đội nước này với nước kia, chính người đời thường với kỹ năng công nghệ cũng có thể gài bẫy nhau, hại nhau cả trăm đường. Chỉ một vài bản tin nhỏ, có khi được viết một chiều và không nói hết sự thực, ngay hôm sau đã trở thành những cú xì căng đan chấn động xã hội. Nạn nhân có thể là cả một dân tộc, như khi bản đồ Biển Đông bị vẽ lại và phổ biến khắp thế giới mạng. Nạn nhân cũng có khi là nữ ca sĩ Nhật Bản hay Đài Loan, có khi là chư tăng Việt Nam hay Nam Hàn, và rất nhiều trường hợp tương tự. Trong một thế giới khắp trời là mưa bom, mưa đạn, mưa bàn phím… như thế, nhiều người trong chúng ta thấy bất an.” Và trong đời sống của Phật tử và tăng ni, “Một số Phật tử kém kỹ năng gạn lọc sự thực, lại tin vào các tà sư đang thuyết tà giáo trên YouTube, và TV. Nhiều Phật tử không bận tâm gì tới pháp nghĩa, trong khi bị “hút hồn” vì các phương tiện phim ảnh đang làm cho hình ảnh các Thầy đẹp hơn, làm cho giọng nói các Thầy truyền cảm hơn, làm cho các bản nhạc Thiền ca dễ làm say đắm lòng người hơn.”
Trước sự thực quay cuồng của thời kỳ mạt pháp như vậy chúng ta phải làm sao? Theo tác giả thì không còn cách nào hơn là an trụ ngay chính tâm mình bằng chánh kiến, chánh tư duy và chánh ngữ, “Hãy giữ lòng kiên cố thanh tịnh, tin vào Phật, tin vào Pháp, tin vào Tăng. Hãy thấy rằng ngay trong khoảnh khắc này, khi chúng ta tỉnh thức, quan sát và nhìn thấy tâm mình không tham-sân-si, đó chính là đang Thấy Phật, là đang sống trong thời Chánh Pháp.”
17) Phụ Nữ Trong Chánh Pháp
Trong chương này tác giả bàn tới chuyện phụ nữ có thể chứng quả, có thể tu thành Phật được không. “Đối với một người đã giác ngộ, sẽ không còn thấy nữ tính và nam tính nữa. Với một số vị thường quán bạch cốt, sẽ thấy thân mình và người chỉ là một nhóm xương khô đang đi đứng nằm ngồi. Khái niệm nữ tính và nam tính biến mất được nêu ra trong Kinh SN 5.2, khi nữ A La Hán Soma trả lời Ma Vương bằng bài kệ: “Nữ tính không tạo ra chút gì khác biệt, khi tâm định tĩnh, khi tri kiến hiển lộ không ngưng đối với người nhìn đúng được Chánh Pháp. Đối với người có thể khởi tâm ‘Tôi là một người nữ’ hay ‘Tôi là một người nam’ hay ‘Tôi là bất cứ gì’ – thì chỉ thích nghi cho Ma Vương nói chuyện.”
Các luận sư Đại Thừa nói rằng người nữ có thể tu thành Phật. Tuy nhiên, Kinh Tạng Pali nói rằng người nữ không thể thành Phật, cụ thể là trong Kinh MN 115, bản Việt ngữ là Kinh Đa Giới do Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch. Nhưng Đại sư Anālayo tin rằng Kinh MN 115 trong Tạng Pali đã bị chư tăng đời sau chèn thêm ý kỳ thị nam nữ vào. Kinh Tạng Pali, bản Việt ngữ do HT Minh Châu là Kinh Rắn Đen AN 5.230, so sánh loài rắn đen với phụ nữ. Kinh này như sau: “Này các Tỷ-kheo, có năm nguy hại này trong con rắn đen.Thế nào là năm? Phẫn nộ, hiềm hận, có nọc độc, lưỡi chia hai, làm hại bạn. Ở đây, này các Tỷ-kheo, nọc độc của nữ nhân là như sau: Này các Tỷ kheo, nữ nhân phần lớn hay tham đắm. Ở đây, này các Tỷ-kheo, lưỡi chia hai của nữ nhân là như sau: Này các Tỷ-kheo, nữ nhân phần lớn nói hai lưỡi. Ở đây, này các Tỷ-kheo, nữ nhân làm hại bạn như sau: Này các Tỷ-kheo, nữ nhân phần lớn ngoại tình!”
Trong chương này tác giả trích dẫn một công án Thiền liên hệ tới một Thiền sư ni Nhật Bản. Thiền sư ni tên là Kakuzan Shido (1252- 1306). Bà là người sáng lập ngôi chùa Tokeiji, nơi này cũng đón nhận và chăm sóc phụ nữ bị bạo lực, nơi này được mệnh danh là nơi tạm trú đầu tiên cho phụ nữ bị lạm dụng trên thế giới.
18) Khi Thiền Ni Chiyono Chứng Ngộ
Chương này tác giả dịch nguyên bài viết “The Enlightenment of Chiyono” của Anne Dutton, của sách “Zen Sourcebook: Traditional Documents from China, Korea, and Japan. Đây là cuộc đời ly kỳ và gian khổ của một cô gái con nhà quý tộc quyết tâm học Phật và chứng ngộ. Về sau, Chiyono được gọi là Ni trưởng Nyodai. Khi người ta tới hỏi pháp, Thiền ni này luôn luôn trả lời, “Đức Phật người có khuôn mặt là mặt trăng.” Thiền ni Chiyono đã gặp Thiền sư Wu-hsueh và đã nhận ấn khả truyền tâm, trở thành người nối pháp. Pháp danh của Thiền ni là Mujaku Nyodai. Thiền ni là người tài trợ cho ngôi Chùa Rokuon-ji tại thị trấn Kitayama ở kinh đô Kyoto, trong tinh Yamashiro, nơi bây giờ được gọi là Kinkakujoi. Bài thơ của Thiền ni Chiyono khi bừng ngộ là:
Với này và kia, tôi đã tận lực.
Và rồi đáy thùng bể văng ra.
Khi nước chảy tuôn trào.
Mặt trăng không nơi để trụ.
Bài kệ này, với trí tuệ lu mờ, nhưng tôi có thể hiểu là khi vô minh tan vỡ (đáy thùng bể văng ra) thì vạn hữu đều giả dối, cũng giống như mặt trăng nơi đáy thùng chẳng còn.
19) Tỉnh Thức Rực Rỡ: Đọc sách “Vivid Awareness”
Chương này tác giả giới thiệu và tóm lược tác phẩm “Vivid Awareness: The Mind Instructions of Khenpo Gangshar” của đại sư Khenchen Thrangu, dựa vào bản Anh dịch của David Karma Choephel, ấn bản 2011, nhà xuất bản Shambhala. Sách này nói về một Thiền pháp của Kim Cang Thừa. Lý do chọn sách này vì qua đây có thể hiểu được và vào được Thiền Tông, tức là Thiền Trúc Lâm của Việt Nam. Pháp thiền của Đại Sư Khenchen bao gồm cả Thiền Mahamudra (Đại Ấn) và Dzogchen (Đại Viên Mãn). Muốn vào được pháp môn này, “Trước tiên, phải tin vào nghiệp, tức là tiến trình nhân quả. Có bốn loại nghiệp. Thứ nhất, là nghiệp gặp ngay trong kiếp này. Thứ nhì, là nghiệp gặp khi tái sinh ở kiếp kế tiếp. Thứ ba, nghiệp gặp trong nhiều kiếp sau. Thứ tư, nghiệp có thể xảy ra và cũng có thể không xảy ra trong tương lai, tùy vào nhân duyên. Do vậy, phải biết phân biệt thiện pháp và bất thiện pháp để làm lành, lánh dữ; cách đơn giản là, cần giữ giới luật. Có nghĩa là giữ cả ba nghiệp – thân, khẩu, ý – đều thanh tịnh.”
20) Kinh Phật Nói Gì Về Vong Linh?
Mở đầu chương này, tác giả nói rằng, “Trong nước đang sôi nổi về chuyện thỉnh vong, giải trừ oan gia trái chủ tại ngôi Chùa Ba Vàng, tỉnh Quảng Ninh. Bài này không có ý trực tiếp góp tiếng thảo luận về những sự kiện người viết không theo dõi đầy đủ. Chủ đề bài này nêu ra là: Kinh Phật trong Tạng Pali nói gì về chuyện vong linh? Đây là một đề tài gây sôi nổi, được nhiều học giả tôn túc tìm hiểu, thảo luận.”
Tác giả trích dẫn Kinh Châu Báu (Ratana Sutta). Kinh này có trong Kinh Tập (ký số Sn 2.1) hiện có nhiều bản Anh dịch. Theo đó, thành phố Vesali bị nạn dịch, gây chết chóc, đặc biệt với người nghèo. Vì xác chết nằm la liệt, các vong hung dữ bắt đầu quậy phá thành phố; kế tiếp là bệnh truyền nhiễm chết người. Vì gặp cả ba nỗi lo về đói, về vong dữ, và về dịch bệnh, cư dân tìm tới, xin Đức Phật, lúc đó ngài đang ở Rajagaha, cứu giúp.”Tại nơi đây, Đức Phật đọc bài Kinh Châu Báu cho ngài Ananda, dạy ngài về cách nên hướng dẫn và cùng với cư dân Vesali đi quanh thành phố, tụng kinh này để dùng như oai lực bảo vệ cư dân Vesali. Ngài Ananda làm theo lời dạy, rải nước tịnh thủy từ bình bát riêng của Đức Phật. Do vậy, các ác vong được nhẹ nghiệp, nạn dịch bệnh giảm.” Như vậy theo Kinh Châu Báu thật có vong linh không siêu thoát và cũng cần phải cứu độ vong linh.
Tác giả còn dẫn chứng thêm Nhóm Chuyện Petavatthu bao gồm 51 bài, kể về các trường hợp khác nhau, cho thấy ác nghiệp sẽ dẫn tới tái sanh vào cõi “quỷ đói” (ngạ quỷ peta). Đó là trường hợp mẹ của ngài Indacanda, “Này cô nàng lòi cả xương sườn, gầy guộc, nàng là ai mà đứng ở nơi đây, lõa lồ, có vóc dáng xấu xí, ốm o, nổi đầy gân?”
Nàng quỷ đói trả lời, “Tôi là mẹ của ngài trong những kiếp sống khác trước đây, đã bị sanh vào cảnh giới ngạ quỷ, bị gánh chịu sự đói khát.” Rồi chuyện của cô vợ của ngài Nandasena trong kiếp trước, làm nhiều điều ác, thác sinh vào cõi ngạ quỷ với thân hình đen đủi, có vóc dáng xấu xí, thô kệch, có dáng vẻ ghê rợn, có mắt đỏ ngầu, có răng hô, không phải loài người. Cuối cùng, nhờ chư thánh tăng hiệp lực cầu xin mà các ngạ quỷ này thoát sinh lên một cõi khác đẹp đẽ và an lành hơn.
21) Sống, Chết, Tái Sinh, Trung Ấm
Theo tác giả, sinh và tử, tái sinh và trung ấm, cách nào để cúng vong… đó là các quan tâm lớn của Phật tử Việt Nam. Bài viết này sẽ dựa vào Kinh để khảo sát những vấn đề đang được Phật tử quan tâm và thảo luận. Thế nhưng trí thức phương Tây (Hoa Kỳ và Châu Âu) tin theo Phật giáo, nhiều người chọn thái độ xem Phật giáo đa dạng như món ăn trên bàn tiệc, tùy ý lựa chọn. Thậm chí, nhiều vị tự nhận lập trường thế tục (secular), xem Phật giáo chỉ như triết lý sống, gạt bỏ cả chuyện tái sinh, bất kể Đức Phật nói trong kinh rất nhiều về luân hồi. Trong khi đó, một số trí thức phương Tây chỉ chọn Thiền như để bổ sung vào tôn giáo đã có của họ. Các câu hỏi được đặt ra:
-Hỏi: Có nên cúng tế, làm các nghi lễ bố thí cho người chết hay không?
-Phật đáp: “Này Bà-la-môn, nếu có tương ưng xứ, thời có lợi ích, không có lợi ích nếu không có tương ưng xứ.”
-Hỏi: Cúng tế người chết có phải vô ích?
-Phật đáp: “Này Bà-la-môn. Giả sử ông vì những thân tộc quen biết mà bố thí, nhưng họ không sanh vào trong chốn ngạ quỷ và lại cũng không có những người quen biết khác sanh vào chốn ngạ quỷ, thì việc bố thí do lòng tin, tự mình sẽ được phước.”
-Hỏi: Có bao giờ gặp lại người đã chết như khi họ còn sống?
-Phật đáp: Không gặp lại được. Đức Phật luôn luôn hối thúc tu hành khẩn cấp và chớ nên giữ nỗi buồn xa lìa người thân. (Kinh Snp 3.8)
-Hỏi: Có phải khi đã chết, không ai làm hồi sinh được?
-Phật đáp: Đúng vậy. Khi đã chết, không ai làm hồi sinh lại được. Đức Phật dạy rằng thân người là quý và quan tâm lớn nhất là phải tu giải thoát. Kinh Pháp Cú viết: “Sống 100 năm trong đời mà không nhận ra Niết Bàn, không bằng một ngày trong đời của người nhận ra Niết Bàn.
-Hỏi: Có trung ấm (giữa đời này và đời sau) không và cách nào để vượt dòng sanh tử?
-Phật đáp: Có trung ấm, tức khoảng giữa đời này và đời sau, gọi là giữa hai đời, nhưng kinh không nói thời lượng trung ấm. Cách vượt thoát sanh tử là lìa chấp trước, không dính mắc. (Mà tu theo Tịnh Độ gọi là “nhất tâm bất loạn”, hay chuyên chú niệm Phật.)
-Hỏi: Có phải chúng sanh trong cõi trung ấm lang thang vất vưởng như văn học dân gian thường nói?
-Phật đáp: Không nhất thiết, bởi vì tất cả đều từ hạnh nghiệp mà ra.
22) Nghiệp Và Giải Nghiệp Theo Chánh Pháp
Trong chương này tác giả đặt vấn đề, “Xây nhiều chùa lớn, dựng nhiều tượng Phật khổng lồ có thể giải nghiệp hay không? Cầu nguyện siêng năng, cúng tiền nhiều cho đại tăng có thể giải nghiệp hay không? Đó là những câu hỏi đang được nhiều Phật tử quan tâm. Kinh Phật dạy có nhiều cách giải nghiệp. Sau đây là trích dịch một số kinh liên hệ tới nghiệp và giải nghiệp.”
Cầu nguyện chỉ là vô ích. Nghiệp lành, phước đức không thể tới từ kinh cầu nguyện hay ước muốn. Kinh AN 5.43 viết: “Năm phước này được chờ đón, ưa chuộng, vui thích, và khó đạt được trong cõi này. Năm phước nào? Trường thọ… nhan sắc… vui sướng… vị thế (xã hội)…tái sanh vào cõi trời… Bây giờ, ta nói với các ngươi, năm điều đó không đạt được qua cầu nguyện hay ước nguyện.” Vậy thì làm sao để giải nghiệp? Con đường rốt ráo để giải nghiệp là tu theo Bát Chánh Đạo. Đức Phật dạy rằng, “Này các Tỷ-kheo, thế nào là con đường đưa đến nghiệp đoạn diệt? Đây là con đường Thánh đạo Tám ngành, tức là chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là con đường đưa đến nghiệp đoạn diệt.”
Còn việc xây chùa khổng lồ cho chư tăng có công đức lớn ra sao? Kinh sắp dẫn sau đây có vẻ như Đức Phật muốn nói cho hoàn cảnh hiện nay tại Việt Nam, nơi nhiều chùa lớn đang xây. Đức Phật nói, xây chùa khổng lồ cho chư tăng bốn phương cũng không thể có công đức bằng khởi tâm tịnh tín quy y Phật Pháp Tăng.
Theo tôi hiểu, xây chùa, cúng dường chư tăng/ni mà mình chẳng khởi tín tâm, chẳng khởi tâm lành, chẳng thực hành hạnh bố thí cho tất cả các chúng sinh khác…thì công đức cũng chẳng bao nhiêu. Trong Kinh Kinh AN 9.20 bản dịch của HT Thích Minh Châu nói rằng, “Có ai với tâm tịnh tín qui y Phật, Pháp Tăng, và có ai với tâm tịnh tín chấp nhận học pháp, từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ không đắm say rượu men, rượu nấu... Và có ai với tâm tịnh tín, chấp nhận học pháp... từ bỏ không đắm say rượu men, rượu nấu, và ai tu tập từ tâm giải thoát, cho đến trong khi khoảnh khắc vắt sữa bò, bố thí này quả lớn hơn vị bố thí 84,000 con voi, giường nằm loại sang, 84,000 thiếu nữ xinh đẹp và 84,000 con bò sữa…”
Nói tóm lại theo tôi hiểu, chuyển hóa tâm lành là cách giải nghiệp hay nhất. Chứ nếu phải có tài sản cúng dường thì mới giải được nghiệp thì những người nghèo đời đời kiếp kiếp bị nghiệp đeo đuổi mãi sao?
23) Xây Chùa Và Xây Đạo Tràng
Trong chương này tác giả có cái nhìn thực tiễn, nghĩ đến cuộc sống của người dân ở những vùng xa xôi không có gì hấp dẫn du khách, dù là người trong nước. Tác giả viết, “Các làng xã nơi góc núi vắng, người dân có thể đang mong đợi các ngôi chùa lớn để có thể tạo ra việc làm cho nhiều người, kể cả anh chạy xe ôm, chị bán nước mía… Không cần bao nhiêu kỹ năng, nhưng là việc làm suốt đời; đó là hy hữu trong thời robot.”
Không xây chùa lớn mà xây chùa nhỏ xíu làm sao hấp dẫn du khách? Một vùng đất hoang vu mà không có kiến trúc khổng lồ mỹ thuật thì giá trị cũng rất thấp. Chính ngôi Chùa Tam Chúc đã làm cho mảnh đất “Tiền Lục nhạc - hậu Thất Tinh (Hồ Thất Tinh) trở thành nên thơ, hữu tình và linh thiêng.
Tuy nhiên tác giả nhắc nhở, ở đâu cũng có đạo tràng tu học- dù là rừng núi, hang động hay sân đá bóng hay nhà ở của chính mình. Còn khi xây chùa mà không có đạo tràng tức không phải là nơi tu học thì rồi sẽ hỏng. “Nếu không chùa, mà có đạo tràng… rồi tới lúc sẽ hưng thịnh lại được. Nếu có chùa, và có cả đạo tràng… sẽ là tuyệt vời.”
24) Vượt Qua Mười Hai Xứ
Trong chương này tác giả nhắn nhủ, “Phật giáo là pháp xuất thế gian, pháp để thoát khổ, pháp để xa lìa ba cõi, không phải pháp thế gian chỉ thuần để thư giãn hay chữa bệnh, tuy rằng vẫn có vô lượng hiệu ứng phụ giúp người trần nhẹ gánh.”
Mười hai xứ bao gồm sáu nội xứ (Lục Căn) và sáu ngoại xứ (Lục Trần). Chính mười hai xứ này nó trói buộc chúng ta trong phiền não, khổ đau và sinh tử luân hồi. Làm sao vượt qua được Mười Hai Xứ? Tác giả trích dẫn lời chư Tổ để nói rằng, “Hễ thấy các pháp rỗng rang không thể nắm bắt như tiếng đàn tỳ bà, lập tức mười hai xứ sẽ tịch tịnh, không có gì cần phải mài giũa nữa (chẳng cần phải công phu khổ hạnh nữa).”
25) Đọc Sách “Essence of the Heart Sutra” của Đức Đạt Lai Lạt Ma Đời Thứ 14
Đức Đạt Lai Lạt Ma giải thích Kinh Đại Trí Tuệ Bát Nhã xuất hiện nhiều thế kỷ sau Đức Phật, nhưng ngài cũng ghi rằng, “Chúng ta có thể nói rằng kinh điển Đại Thừa không do Đức Phật lịch sử dạy cho công chúng trong ý nghĩa quy ước. Thêm nữa, có thể rằng kinh điển Đại Thừa, như các kinh trong hệ thống Trí Tuệ Viên Mãn (Bát Nhã Ba La Mật), đã được dạy cho một nhóm vài vị mà Đức Phật xem là thích nghi nhất để học giáo pháp này.” (trang 47). Dĩ nhiên, một số bạn có thể cho rằng Tâm Kinh là hậu tác. Nhưng nếu bạn đọc kỹ, sẽ thấy tư tưởng Tâm Kinh đã có rất sớm trong nhóm Kinh Tập của Tạng Pali, khi Đức Phật mới thuyết pháp.”
Bản Tâm Kinh tiếng Hán Việt thường tụng ngắn hơn bản tiếng Anh trong sách EHS, nguyên dịch ra từ Tạng ngữ. Phần diễn giảng về bộ kinh Đại Trí Tuệ Giải Thoát của Đức Đạt Lai Lạt Ma vô cùng uyên bác cần phải đọc nguyên chương mới hiểu hết ý nghĩa của nó. Theo tác giả, “Bát Nhã Tâm Kinh cần được nghiền ngẫm, tư duy từng lời giải thích của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Nơi đây, Tâm Kinh, cốt tủy của Phật pháp, đã được giải thích minh bạch. Hễ ai giữ được cái nhìn rỗng rang như thế (Chiếu kiến ngũ uẩn giai không), tất nhiên là giải thoát.”
26) Đọc Thơ Cụ Mộc Đạc, Nghĩ Về Phật Giáo Dân Gian
Đây là chuyện của ông cụ hàng xóm mê thơ. Cụ thường ký tên là Mộc Đạc Ngụy Vạn Lim trên các tác phẩm, đã từng có nhiều tác phẩm thơ, trong đó mới nhất có thi tập nhan đề “Truyện Thơ Nàng Kiều Thời Đại-Phóng tác 2019. Trong thơ này, nơi các dòng1417-1420 cụ Mộc Đạc viết:
Ngán thay cho cái lưới tình.
Mười hai bến nước, nhục vinh đâu lường.
Cầu xin Phật độ Trời thương.
Mai này tránh được đoạn trường đắng cay.
Nhà thơ Mộc Đạc khởi đầu tập thơ Kiều Thời Đại bằng những dòng:
Trăm năm trăm cuộc biển dâu
Đời người mấy lượt qua cầu đắng cay
Nhìn xem sự thế bấy nay
Trải bao nhiêu chuyện tỉnh say nhục nhằn
Giầu sang bỗng hóa cùng bần
Quyền uy phút chốc tay chân buộc ràng
Tình người lắm sự trái ngang
Sự đời lắm việc đa đoan, xoay vòng
Nhiều khi thật rất đau lòng
Nhiều khi cũng lại nức lòng thế nhân
Cụ Mộc Đạc đã dựa vào Truyện Kiều của Nguyễn Du để sáng tác tập thơ:
Sài Gòn có một họ Hoàng
Nổi danh phú quý đứng hàng thượng lưu
Hoàng ông túc trí đa mưu
Hoàng bà tính toán đủ điều khôn ngoan
Gái trai con cái một đàn
Mỗi người một vẻ đoan trang mỹ miều
Cô đầu tên gọi Thúy Kiều
Mày ngài mắt phượng diễm kiều thướt tha
Là một hiện thân của Phật giáo dân gian, cụ vẫn đang đi đứng nằm ngồi, cũng y hệt như hàng chục triệu đồng bào tôi nơi quê nhà, vẫn đang vui buồn, đang cười nói, và đang làm thơ hàng ngày, trong khi bình tâm chờ ngày ra đi. Rất mực hy hữu tuyệt vời.
Lời Kết:
Đây là một cuốn sách bao gồm những vấn đề lớn và thiết thực của Phật Giáo như cư sĩ Tâm Diệu- người điều hành Thư Viện Hoa Sen đã viết trong phần giới thiệu sách, “Nếu quý độc giả ưa thích đọc kinh Phật mà không có nhiều thì giờ, ưa thích những đối chiếu về giáo điển bằng các ngôn ngữ khác nhau, tiếng Anh, tiếng Việt hay muốn tìm kiếm một phương pháp tu tập thích hợp với sở thích và hoàn cảnh riêng của mình; hiển nhiên đây là một tác phẩm không thể bỏ qua, gần như tất cả những gì Cư sĩ Nguyên Giác viết xuống đều rất mực trân trọng, có sức thuyết phục cao qua việc lấy kinh chứng kinh và sử dụng nhiều nguồn tư liệu khả tín khác nhau.”
Xin trân trọng giới thiệu.
California ngày 20/1/2020
Thiện Quả Đào Văn Bình
Cước chú: Sách do Ananda Viet Foudation xuất bản, Amazon phát hành
Toàn bộ sách đọc miễn phí ở đây:
https://thuvienhoasen.or...244/de-ngo-tong-chi-phat