Tôi đang viết về con đường có cái tên của một nhà cách mạng yêu nước theo chủ nghĩa Quốc gia: Hồ văn Ngà. Thời Pháp có tên là Hamelin. Nó là một con đường nhỏ, không dài lắm, hai bên là những hàng me sum suê tỏa bóng mát, nằm ngang sau con đường lớn Trần hưng Đạo gần rạp hát Đại Nam. Hai con đường nằm dọc theo là đường Yersin và Calmette băng sang bên kia cầu là quận tư . Cuối đường, bên phải là chợ Cầu ông Lãnh gần trường tiểu học nam là trường Trương Minh Ký sau này đổi tên là trường Nguyễn Thái Học, bên kia đường là trường tiểu học nữ Tôn Thọ Tường sau này có nhiều tên như sau 1954 là Phan văn Trị, thời Việt Nam Cộng Hòa có tên là Cô Giang, sau 1975 có tên của nhà lãnh đạo đảng Cộng sản Đức Ernst Thaimann . Đi ngược đoạn cuối đường Hồ Văn Ngà về phía chợ Saigon bây giờ gọi là chợ Bến Thành phía bên trái là khu biệt thự nguy nga của chú Hỏa, một thương gia người Hoa giàu có với câu chuyện và bộ phim ma nổi tiếng “Con Ma Nhà Họ Hứa”.
Điểm đặc biệt là con đường có một dãy gồm bảy căn làm nghề sản xuất và bán đàn. Các chủ nhân là bà con làng Đào Xá di cư vào Nam năm 1942. Họ quây quần, xây dựng và cùng nhau phát triển nghề làm đàn truyền thống của ông cha từ làng quê miền Bắc. Một điểm đặc biệt khác, nó là nơi gặp gỡ các tao nhân mặc khách yêu nhạc, các giới nhạc sĩ nổi tiếng trong đó có một người tôi muốn viết về ông đó là nhạc sĩ Lâm Tuyền.
Trước khi viết về nhạc sĩ, tôi kể thêm một chút về các tiệm đàn ở thành phố Saigon trước 75 vì các tiệm đàn này ông đều quen biết. Ông mở một lớp dạy nhạc tại nhà. Ông thường xuyên đi mua đàn cho học trò tập dượt. Tiệm đàn đầu tiên ở con đường Hồ Văn Ngà là tiệm Đông Thành. Tiệm nhỏ, sản xuất ít, chuyên bán lẻ, khách hàng lai rai toàn là khách quen. Bác trai họ Tạ tên Lung người làng Đào Xá. Hai bác hiền, dễ tính, lương thiện.
Hồi bé, không dám đi chơi xa, tôi hay lén vào nhà bác Đông Thành, trốn ở góc cái bàn gỗ nhỏ để ngồi xem sách thay vì ở nhà phải phụ má làm việc nhà. Má gọi ơi ới ngoài cửa hàng, tôi nghe được chạy về. Có khi hai bác phải nhắc “Má mày gọi về kìa”. Tôi quý hai bác vì bác chẳng bao giờ đuổi và thông cảm với con bé hàng xóm mê sách.
Bên cạnh là tiệm của người em trai bác tên Tung. Bà con trong làng đều gọi là bác Quảng Thành. Bác Quảng Thành giàu có hơn bác Đông Thành nhưng hai gia đình không thuận hòa, anh em ruột sống cạnh nhau nhưng ít qua lại . Bác có hai căn hai bên, “ép” căn nhà của ba má tôi ở chính giữa. Thời trước 75, đối với họ hàng và bà con làng Đào Xá, bác và ba tôi được xếp vào loại khá nhất vì hai ông đều có xưởng sản xuất đàn, có dàn thợ đông khoảng vài chục người và hai cửa hàng bán lẻ chuyên bán đủ các loại nhạc cụ. như đàn tân, cổ nhạc, mandoline, trống , đàn điện...
Cả hai ông đều xuất thân từ làng Đào Xá nghèo khổ, di cư vào Nam sinh cơ lập nghiệp, làm giàu nhờ “nhất nghệ tinh nhất thân vinh”. Cả hai đều có tài kinh doanh và chịu khó làm ăn. Nhắc đến bác Quảng Thành tôi không quên hình ảnh bác có thói quen chửi, đánh, nắm tóc bác gái mỗi khi hai người gây lộn trước cửa nhà, hàng xóm phải chạy vô can . Bác trai là người ăn nói bặm trợn, hay chửi thề, nhiều thủ đoạn mánh lới trong nghề như phá giá đàn, chiêu dụ thợ của ba tôi về làm cho bác hoặc đến các đại lý quen của ba tôi cho giá rẻ cướp mối hàng. Tuy còn nhỏ nhưng ngày đó tôi ghét bác lắm vì bác là đối thủ cạnh tranh trong nghề đàn với ba tôi nên tôi không bao giờ bước chân vào nhà bác.
Kế đó là tiệm đàn Phùng Đinh của ba tôi. Kế tiếp là tiệm của con trai bác Quảng Thành lấy tên hai người con là tiệm đàn Phúc Trung chuyên sản xuất và bán đàn điện, ampli, trống… Cách đó năm căn là tiệm đàn Phùng Mai, em họ của ba tôi. Chú làm ăn thất bại vì bài bạc nên sang cửa hàng cho bác Phùng Sáng và Phùng Chế là anh họ với ba tôi. Qua một con hẻm là tiệm đàn của bà cô tôi, tiệm đàn Việt Thanh.Vài căn nữa cuối dãy bán đàn là tiệm của bác tôi, Phùng Bổng, tiệm đàn Việt Hồng.
Bà con họ hàng cùng làng, cùng nghề, cùng hàng xóm láng giềng sống với nhau cho đến nay đã ba thế hệ bể dâu, ngoại trừ bác Quảng Thành, ai cũng tương nhượng nhau, khách ai người nấy hưởng. Đến thế hệ thứ ba, các gia đình phiêu bạt tứ tán khắp nơi, con cháu không đứa nào theo nghề này nữa.
Sau một chín bảy lăm, dãy hàng đàn chuyển về con đường mới là đường Nguyễn Thiện Thuật. Họ là những người công nhân, nhờ sự cần cù chịu khó làm ăn và dành dụm, họ trở nên khá giả, có cơ hội mua nhà, làm chủ các tiệm đàn nhỏ như tiệm đàn Xuân Thành của chú Sô, tiệm Lê Nhâm của bác Nhâm. Nơi đây có tiệm đàn Đức Thắng là tiệm lớn và lâu đời.
Ngoài các tiệm đàn ở đường Hồ Văn Ngà còn một vài tiệm đàn khác mà nhạc sĩ Lâm Tuyền đều quen biết và ghé qua mua đàn như tiệm đàn Đức Thắng ở đường Nguyễn Thiện Thuật. Ông bà là đồng nghiệp với ba tôi.Tôi biết ông bà Đức Thắng vì thỉnh thoảng ông đi xích lô xuống nhà tôi mua đàn về bán lẻ. Ông bà di cư năm 1954, trở nên giàu có nhờ thời chiến tranh, lính Mỹ sang Việt Nam ồ ạt, phong trào nhạc trẻ phổ biến khắp nơi. Ông bà chuyên sản xuất, bán, sửa và cho thuê các loại đàn điện, trống, ampli cho các ban nhạc và club Mỹ.
Ngoài tiệm đàn Đức Thắng nổi tiếng còn có tiệm đàn Đông Hưng ở đường Hiền Vương của bác tôi là Phùng Đính cùng làng Đào Xá, tiệm Mỹ Tín ở đường Tụ Do. tiệm Văn Trang ở đường Lê Văn Duyệt ..cũng là những bạn hàng của ba tôi.
Có chuyện vui là hồi nhỏ chàng học sinh Chu Văn An Đào Ngọc Phong thỉnh thoảng ông chú ruột họ Đào chủ tiệm đàn Đức Thắng nhờ cháu Phong xuống tiệm đàn Phùng Đinh mua đàn và đèo bằng xe đạp về cho chú bán . Cô học trò tiểu học trường Tôn Thọ Tường Kim Anh thời ấy đâu biết cậu học sinh này là ai? Nhờ duyên văn nghệ trong nghề đàn mà ông chú tiệm đàn Đức Thắng sau này trở thành thông gia với ông chủ tiệm đàn Phùng Đinh.
Sau này, dãy hàng đàn đường Hồ Văn Ngà đã đi vào quên lãng, chỉ còn lại hai căn nhà của ba má tôi để lại là dấu tích một thời vàng son của nghề đàn Đào xá. Các tiệm đàn khác của bà con họ Phùng đã sang tên đổi chủ. Thế hệ thứ nhất mất đi, thế hệ thứ hai bán nhà để chia tài sản của cha mẹ để lại, thế hệ thứ ba không nối tiếp nghề đàn. Chủ mới đa số là người miền Bắc vào Nam lập nghiệp .Con đường Hồ văn Ngà bây giờ trở thành đường Lê Thị Hồng Gấm chuyên bán…giầy.
Tôi viết lại hình ảnh của con đường bán đàn Hồ văn Ngà ngày xưa vì con đường này ăn sâu vào kỷ niệm thời thơ ấu của tôi với nhạc sĩ Lâm Tuyền.
Trong ký ức của tôi, nhạc sĩ Lâm Tuyền lúc ấy còn trẻ lắm và không đẹp trai chút nào.Ông có nước da ngâm đen, sạm nắng, mặt lỗ chỗ những vết sẹo rỗ thật dầy mà sau này tôi mới biết do bệnh đậu mùa gây nên. Điểm đặc biệt nhất của ông là giọng Bắc rổn rảng, lớn tiếng nói lẫn tiếng cười. Ông là người có phong cách hào hoa phong nhã, đầu tóc bôi “bri-dăng-tin” bóng loáng, giầy cũng bóng như tóc của ông, nếp quần thẳng băng, mùi nước hoa thơm phức. Ông hay mặc những chiếc áo sơ mi ngắn tay màu sặc sỡ có hình chim cò, sông nước, cây dừa của xứ Hawaii. Những chiếc áo chim cò này rất thích hợp với tiếng đàn guitar Hawaii chuyên nghiệp và độc đáo của ông.
Guitar Hawaii còn gọi là đàn Hạ Uy Cầm có hình dáng phình ra như trái bầu, cần đàn có một miếng sắt nâng sáu sợi giây đàn lên cao khoảng nửa đốt ngón tay. Khi chơi đàn, người chơi đặt cây đàn trên đùi, tay trái dùng ba ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa kềm một cục sắt trơn gọi là cục “bloc” hay là “bar” đẩy tới hay đưa lui, đè mạnh hay lướt nhẹ trên phím đàn. Tay phải dùng ba ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa để móc giây đàn bằng loại dụng cụ gọi là “móng” làm bằng sắt hay bằng đồi mồi.
Tiếng đàn Hạ Uy Cầm phát ra âm thanh độc đáo , âm điệu du dương, lả lướt, lên bổng xuống trầm, nhẹ nhàng, bềnh bồng như sông nước của bãi biển Hawaii là nhờ chiếc “bloc” này. Vì thế , đây là loại đàn rất khó sử dụng, khác với đàn Tây Ban Cầm dùng các ngón tay trái ấn trên phím đàn, các ngón tay phải lướt, búng hoặc móc sáu sợi giây Mì, La, Re, Sol, Si , Mí.
“Guitar Espagnol” là tiếng Pháp, tiếng Mỹ gọi là “Spanish Guitar”, tiếng Việt gọi là đàn Tây ban cầm vì đàn phát xuất từ xứ Tây ban nha. Đa số người chơi đàn thích đàn Tây ban cầm vì âm điệu của nó phong phú, phổ biến và đơn giản không phải dùng “bloc” hay móng. Dù sao mỗi tiếng đàn có những âm điệu hay riêng. Bạn nào có dịp đi Hawaii sẽ được nghe tiếng đàn Hạ Uy Cầm du dương và ngọt như đường mía của các vũ công trong điệu múa bụng “hula” thật là hấp dẫn. Đàn này dân bản xứ ở đảo Hawaii gọi là ““ukulele” cũng là họ hàng với đàn “lap steel guitar” có sáu hay mười giây.
Thầy Lâm Tuyền dạy đàn Tây ban cầm là chính nhưng Thầy chơi đàn Hạ uy cầm rất điệu nghệ.Thầy là một trong những thầy dạy Hạ uy cầm hiếm hoi và nổi tiếng ở đất Sài gòn lúc bấy giờ.
Hồi đó, thầy Lâm Tuyền thường đi mua đàn cho học trò bằng xe xích lô. Xe thường đậu trước cửa tiệm đàn đầu tiên là tiệm của bác Đông Thành. Khi xuống xe, ông vào tiệm của bác Đông Thành trước, sau đó ông đi rảo một vòng, thử hết các cây đàn ở các cửa tiệm đàn ở đường Hồ Văn Ngà. Ông chọn kỹ lắm. Cây nào ưng ý ông để đó. Lát sau, ông trở lại lấy đàn và trả tiền. Ông lang thang mất cả buổi chiều. Mỗi lần mua ít nhất cũng vài ba cây . Lũ trẻ con chúng tôi thường tụm năm tụm ba theo ông đi hết tiệm này sang tiệm khác để nghe ông thử và chơi đàn .Có khi người qua đường hiếu kỳ dừng lại hoặc vài người thợ đàn trong tiệm cũng tò mò bước ra, lắng nghe tiếng đàn Hạ uy cầm lả lướt của ông. Đứng bên ông, mùi nước hoa thơm phức. Nhìn ông, mái tóc đen bóng, đôi giày láng cón, áo sơ mi chim cò sặc sỡ, bàn tay cầm chiếc “bloc” vuốt trên phím đàn, đôi mắt mơ màng xa xăm như tưởng nhớ về những kỷ niệm nào. Lúc đó, trước mắt tôi ông là người nghệ sĩ tài hoa thật đáng hâm mộ.
Có một điều là các tiệm bán đàn, vì quý trọng giới nghệ sĩ đều để cho ông một giá cả đặc biệt và mặc cho ông tha hồ la cà thử và chọn những cây đàn tốt và ưng ý nhất. Dù mua hay không, các chủ tiệm đàn đều vui vẻ không phàn nàn đã mất thì giờ tiếp ông.
Tôi lớn lên đang học lớp mười hai chuẩn bị thi Tú Tài hai, vì tò mò và ưa thích tiếng đàn độc đáo này nên tìm cách đến nhà ông để xin học. Ông đến mua đàn khi tôi còn học tiểu học ở trường Tôn Thọ Tường..Tôi lớn lên thì ông cũng bắt đầu già đi, tài năng theo tuổi tác dần dần mai một, học trò thưa thớt, nhà cửa sa sút, vẻ hào hoa phong nhã ngày nào không còn nữa thay thế bằng sự mệt mỏi, eo sèo, quay quắt vì sinh kế hàng ngày. Ngoài việc dạy đàn, ông còn chơi nhạc thêm ở các vũ trường. Ông bà sống trong căn nhà nhỏ khiêm tốn trong một con hẻm ở khu lao động hình như là đường Cao Thắng . Cô nhà trông lam lũ, quần ống thấp ống cao, lăng xăng dưới bếp ra vẻ một bà nội trợ chứ không có chút gì là tiểu thư khuê các vợ của một nhạc sĩ tài hoa mơ mộng và lãng mạn như ông. Nhà nhỏ và bừa bộn. Những tập nhạc, đàn lớn, đàn nhỏ để lung tung không còn lối đi.
Nhìn cảnh sống của gia đình ông lúc đó tôi nghiệm ra một điều giới nghệ sĩ như ông thường nghèo. Ông sống hoàn toàn bằng đồng lương dạy đàn thì không thể nào khá được trừ phi có bà vợ buôn bán giỏi giang hay làm một nghề gì đó kiếm ra tiền để phụ giúp ông chồng. Cô nhà có ông chồng nhạc sĩ quen cách sống chưng diện đẹp bề ngoài , tiêu xài rộng rãi, lên xe xuống ngựa và lúc nào cũng “mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây” nên đời sống vật chất của ông có phần khó khăn.
Sau 75, có vài lần gặp, thầy Lâm Tuyền lúc này gầy đi nhiều, áo sơ mi bỏ ngoài quần, tóc tai bờm xờm, mang đôi dép lẹp kẹp. “Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu!”.Thời oanh liệt không còn nữa nhưng muốn học đàn Hạ uy cầm chỉ có Thầy còn dạy loại đàn này.
Tôi còn nhớ ngày đó đến xin học đàn, tôi gọi Thầy bằng chú, biết tôi là con của anh chị Phùng Đinh, Thầy rất quý, tận tâm chỉ dạy.Tại lớp học này, tôi đã mê man được nghe Thầy chơi những bản nhạc do Thầy sáng tác tuy không nhiều như bài Khúc Nhạc Ly Hương, Nhắn Người Viễn Xứ, Tiếng Thời Gian, Tơ Sầu, Trở Về Dĩ Vãng, Lặng Lẽ. Bài nào cũng hay trong đó tôi thích nhất bài Hình Ảnh Một Buổi Chiều.
Ngày đó, mỗi lần mua bản nhạc tôi đều chạy ra nhà xuất bản Tinh Hoa đường Trần Hưng Đạo gần nhà, chủ nhân là chú Lê Mộng Bảo người Huế. Chú Bảo là anh của nhạc sĩ Lê Mộng Nguyên, tác giả bài hát Ai Lên Xứ Hoa Đào. Bản nhạc Hình Ảnh Một Buổi Chiều in hình cô ca sĩ ngoài bìa rất đẹp, tôi không nhớ tên. Cô có mái tóc màu nâu vàng và sáng như râu ngô. Bản nhạc có lời đề tựa của Dạ Chung : “Anh không giữ trong tay một kho tàng hay danh vọng nào cả mà chỉ giữ có hình ảnh môt buổi chiều khi nắng vàng nhuộm mái tóc em”. Sau này tôi mới biết Dạ Chung là tên tài tử kiêm đạo diễn Hoàng Vĩnh Lộc.
Với lứa tuổi học trò nhiều mơ mộng, lúc đó tôi rất thích những bản nhạc viết về những buổi chiều như bài Chiều Tím: “Chiều tím, chiều nhớ thương ai,người em tóc dài, sầu lên phím đàn…”, bài Hoài Cảm : “Chiều buồn len lén tâm tư, mơ hồ nghe lá thu mưa, rạt rào tựa những âm xưa, thiết tha ngân lên lời xưa”.Bài Nắng Chiều :“Qua bến nước xưa lá hoa về chiều. Lạnh lùng mềm đưa trong nắng lưa thưa”, bài Lời Buồn Thánh :“Chiều chủ nhật buồn, nằm trong căn gác đìu hiu”.Bài Serenade :“Chiều buồn nhẹ xuống , đợi người tình tìm đến, người thấy run run trong chiều phai…”.
Hình như tâm hồn các văn, thi, nhạc sĩ đều có chung sự rung động hay cảm xúc bâng khuâng, nao lòng khi chiều xuống. Đó là khoảng thời gian tâm tư lắng đọng theo thời khắc chuyển tiếp từ ánh sáng vào bóng tối, từ ngày sang đêm. Người nhạc sĩ xúc động khi nhìn những tia nắng chiều yếu ớt chiếu vàng trên mái tóc người yêu, ông viết lên những mơ ước, hoài bão của ông và niềm thương nhớ gửi đến cho nàng.
Bài Hình Ảnh Một Buổi Chiều là nỗi buồn không nguôi khi ông nhớ đến người con gái có mái tóc óng ánh vàng vào một buổi chiều thu:
“Đàn chim tung cánh xa khuất mờ
Chiều thu lưu luyến màu thương nhớ
Nhớ mái đầu ai nhuộm nắng vàng
Buồn biết bao giờ cho hết nguôi
Người nhạc sĩ mang ước vọng hải hồ, ra đi quên đời, lòng luôn luôn hướng về chốn xa xôi với nỗi oán sầu man mác :
Lòng ta ai oán man mác sầu
Nhìn xa xôi nhớ thầm mong ước
Như sóng trùng dương theo cánh buồm
Là lúc quên đời không tiếc thương…
Ước mơ phiêu lưu, tung hoành vẫn ôm ấp cho dù phải trải qua những đau thương cay đắng của cuộc đời:
Bao năm qua ta sống giang hồ xa quê nhà
Nơi xa xôi bao ý phiêu lưu dâng cho đời:
Người nghệ sĩ vẫn sống mở lòng, tha thứ, bao dung với đời với người cho dù bị đời và người bỏ quên:
Dù bao nhiêu cay đắng
Đến làm nát lòng ta tan nát rồi không đoái hoài
Dù bao nhiêu sóng gió quyết đem chí tung hoành
Sống quên hết bao hận bên lòng
Hồn tha hương vương vấn bóng người khuất ngàn mây
Ai biết lòng ta mỗi khi chiều tàn
“Hình Ảnh Một Buổi Chiều” vẫn là một nỗi buồn và thương nhớ vô tận:
Nhìn ai say đắm man mác sầu
Lòng ta tha thiết tình thương nhớ
E ấp ngàn câu trong mắt buồn
Người biết ta sầu muôn ý nao
Miền xa mây núi xanh ngát màu
Hồn bơ vơ lúc hoàng hôn xuống
Khi nắng vàng phai trên núi đồi
Là lúc ta buồn bao kiếp nguôi.
Khi tôi đến học Thầy Lâm Tuyền, “sì-căn-đan” giữa Thầy với cô ca sĩ Mộc Lan một thời được báo chí đăng tải đã chìm lắng.Cô nhà nổi tiếng rất ghen. Không ghen sao được khi có một ông chồng nhạc sĩ tuy không đẹp trai nhưng tài hoa và cốt cách phong nhã như Thầy. Ca sĩ Mộc Lan lớn tuổi hơn Thầy và là người hát bài Trở Về Dĩ Vãng hay nhất có lẽ vì Thầy sáng tác bài này riêng cho cô. Những tác phẩm của Thầy lúc bấy giờ được xếp vào loại nhạc trữ tình, lãng mạn, cổ điển , lời và nhạc truyền cảm, lắng đọng tâm tư người nghe, được các ca sĩ hàng đầu như Anh Ngọc, Thái Thanh, Mộc Lan, Minh Trang, Tâm Vấn trình diễn ở phòng trà hay trên đài phát thanh.
Tôi học nhạc với Thầy đủ để chơi được bản nhạc Chiều Quê của Hoàng Quý rồi nghỉ học luôn vì lý do phải học thi . Mấy tháng học đàn với Thầy là những kỷ niệm khó quên.Thầy đã chỉ cho cách cầm “bloc” cách nhấn dây, cách lướt dây, cách sử dụng ngón để móc dây tạo thành âm thanh du dương độc đáo của tiếng đàn. Điều đáng ghi nhớ là Thầy dạy cho người học trò niềm yêu thích âm nhạc, biết lắng nghe tiếng nói không lời của bản nhạc và khi chơi đàn, biết gửi trọn tâm hồn mình vào trong lời và nhạc. Hai chữ “hồn nhạc” tôi học từ Thầy.
Tôi còn nhớ trước khi đi vào kỹ thuật của bài nhạc, Thầy để thì giờ nói về cái đẹp hiền hòa của một chiều quê ở miền Bắc xa xôi, nơi đó có nắng chiều, có khóm trúc, có sáo diều, có chim hót, có lúa vàng, có khói lam chiều, có hàng cau, có trăng khuya, có vạc tiếng kêu và có những con người hiền lành sống êm đềm, hạnh phúc, thần tiên. Người chơi đàn phải biết nắm bắt ý nghĩa của lời nhạc và khi chơi nhuần nhuyễn rồi phải diễn tả được ý tưởng đó qua tiếng đàn:
Quê nhà tôi chiều khi nắng êm đềm
Chạy dài trên khóm tre đàn chim ríu rít ca
Bao người ra ngồi hay đứng bên thềm
Đợi chồng con mắt trông về phía trời xa
Sáo diều êm nào khác lời thơ
Lúa vàng reo ngàn muôn sóng nhấp nhô
Ôi chiều quê,chiều tha thiết êm đềm
Nhìn xem tơ khói vương chờ giây phút mến thương
Trông người ra ngồi hay đứng bên thềm
Chuyện trò chung với nhau đời sống thần tiên.
Bài Chiều Quê là bài tủ của tôi và là bài Thầy “gò” ngón đàn của tôi rất kỹ.Tôi chơi bài này không đến nỗi tệ.Thế rồi cuộc đời như khúc sông cuốn mình trôi theo dòng đời bất tận. Chuyện học hành, thi cử, chuyện yêu đương của người con gái mới lớn, những mơ ước, hoài bão, những suy ngẫm về thân phận con người trong thời chiến tranh, những dâu bể, tang thương của đất nước, dân tộc và thân phận con người sau biến cố ba mươi tháng tư làm tôi quên đi những tình cảm nhẹ nhàng, êm đềm thuở còn đi học trong bài Chiều Quê và tôi quên luôn ông Thầy đã dạy vỡ lòng cho tôi bài nhạc Hạ uy cầm đầu tiên.
Tôi được biết Thầy mất âm thầm và lặng lẽ ở Việt Nam năm một chín chín bảy trong sự khó khăn và bệnh tật. Cuộc đời của Thầy giống như con tằm sau khi đã nhả hết những sợi tơ vàng đẹp lóng lánh cho đời, còn để lại là những bản nhạc đẹp và buồn như cuộc đời Thầy.
Ca khúc Hình Ảnh Một Buổi Chiều gắn liền với tên tuổi người nhạc sĩ. Với lời hay, ý đẹp, âm điệu du dương, ca khúc để lại trong lòng những người yêu nhạc biết bao nỗi niềm thương nhớ.
Bài viết kính tặng Thầy Lâm Tuyền , người nhạc sĩ tài hoa nhưng phận bạc với những hoài bão không bao giờ thực hiện trong cuộc đời.
Phùng Annie Kim