Ôn lại một số đặc điểm trong lịch sử tị nạn Việt Nam từ 1975
Bài báo Washington Post ngày 3 tháng 3, 1987, tường thuật buổi họp báo của tác giả tại Thượng viện Hoa Kỳ. (Hình: tác giả cung cấp)
Tháng Tư 1975, sau khi chiến thắng Việt Nam Cộng Hòa và kết thúc cuộc nội chiến 20 năm, cộng sản miền Bắc đã mau chóng giải tán Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam và Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam, đổi tên nước là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam và áp đặt chế độ độc tài toàn trị trên cả hai miền đất nước. Chính sách bóc lột và trả thù tàn ác của cộng sản đối với nhân dân miền Nam là nguyên nhân chính đã khiến trên hai triệu dân phải bỏ hết tài sản và sự nghiệp để chạy ra nước ngoài cũng trong 20 năm liên tiếp với khoảng 300,000 người thiệt mạng trên đường mạo hiểm tìm kiếm tự do.
Theo các con số của Liên Hiệp Quốc, cho tới khi quốc tế chính thức chấm dứt chương trình tị nạn Việt Nam năm 1995, tổng số người ra đi lên tới 2,164,000 người, liệt kê theo từng loại như dưới đây:
Đợt 1 (cuối tháng Tư 1975): 140,000
Đợt 2 (1975-1979): 327,000
Đợt 3 (1980-1989): 450,000
Đợt 4 (1990-1995): 63,000
Số người gốc Hoa bị đẩy về Trung Quốc: 260,000
Chương trình ODP (1979-1995): 624,000
Số người chết hay mất tích trên đường tị nạn: 300,000
Trong tổng số 2,164,000 kể trên, ngoài 140,000 người được chính phủ Mỹ di tản trong đợt đầu và 624,000 đi theo diện ODP, có khoảng 840,000 người đã vượt thoát bằng đường biển hay đường bộ trong ba đợt sau tới các trại tạm trú ở Hong Kong và một số quốc gia Đông Nam Á. Trong số này, 750,000 được nhận định cư tại Mỹ và các nước khác. Như vậy, số người không được công nhận là tị nạn và bị kẹt lại ở các nước tạm dung (first asylum countries) là 90,000, nhưng trên thực tế năm 1995 chỉ còn lại khoảng 40,000. Điều đó cho thấy là trong sáu năm từ Hội nghị quốc tế Geneva lần thứ 2 về tị nạn Đông Dương (1989) đến năm Liên Hiệp Quốc chính thức chấm dứt các chương trình tị nạn (1995), đã có khoảng 50,000 người hồi hương do tình nguyện hay bị cưỡng bách. Số 40,000 còn lại phải tiếp tục trở về nước, hầu hết bị cưỡng bách hay không chống đối (non-objectors), trước khi trại tị nạn cuối cùng được đóng cửa năm 1997.
So với các nhóm tị nạn và di dân tới Mỹ và các nước khác trong thế kỷ 20, lịch sử người Việt gốc tị nạn (1) có ít nhất năm đặc điểm:
(1) Việt Nam có số dân tị nạn bỏ nước ra đi đông nhất và phải trải qua những tình trạng bi thảm nhất thế giới trong thế kỷ 20 với số người bỏ mình trên đường tìm tự do lên tới khoảng 300,000 người.
(2) Các chính sách và chương trình định cư tị nạn Việt Nam ở Mỹ phức tạp nhất gồm nhiều tên gọi khác nhau: Bốc Trẻ Mồ côi (baby lift), Trẻ em lai (Amerasians), Trẻ em Không Người đi kèm (unaccompanied minors), Ra đi Trật tự (ODP) gồm các diện: đoàn tụ gia đình, tù cải tạo (H.O và ROVR), nhân viên chính phủ Mỹ (U11), và nhân viên các hãng tư cùa Mỹ (V11).
(3) Chính nghĩa của người tị nạn, chỉ ít năm sau khi định cư ở nước ngoài, đã được chính các lãnh đạo Đảng và Nhà nước CSVN nhìn nhận và kêu gọi “khúc ruột xa ngàn dặm” trở về hợp tác thay vì lên án và nguyền rủa như trong những năm đầu.
(4) Người tị nạn có tiếng nói và vai trò ảnh hưởng tới các chính sách chấp nhận và định cư tị nạn, tham gia các hoạt động cứu vớt và bảo vệ thuyền nhân, và cuối cùng đã thật sự giúp cho Hoa Kỳ và quốc tế giải quyết vấn đề tị nạn được công bằng và nhân đạo.
(5) Khi trở thành công dân của quốc gia định cư, người cựu tị nạn lại có vai trò quan trọng trong các quan hệ giữa quê hương mới và quê hương gốc, trên cả hai bình diện chính quyền và dân sự.
Qua hàng trăm cuốn sách về tị nạn Việt Nam, hầu hết các tác giả Việt Nam và ngoại quốc đã trình bày rất đầy đủ về những sai lầm và tội ác của cộng sản và những cuộc vượt thoát gian nan bi thảm của người tị nạn. Mặt khác, lịch sử tị nạn cũng cho thấy khả năng hội nhập mau chóng của người Việt Nam vào xã hội dòng chính và họ đã tạo được nhiều thành tích đáng kể trên các lãnh vực kinh tế, khoa học, nghệ thuật và ngay cả chính trị. Tuy nhiên, dường như chưa có tác giả nào làm nổi bật chính nghĩa tị nạn như được nêu ra trong điểm số 3 trên đây, là đặc diểm then chốt giúp cho người tị nạn chuyển bại thành thắng, khôi phục những giá trị của tự do, dân chủ trước sự suy đồi của chủ nghĩa cộng sản. Cho đến nay, chính nghĩa ấy mới chỉ được hàm ngụ gián tiếp trong những lời tố cáo những hành động chiếm đoạt và trả thù tàn nhẫn của cộng sản đối với nhân dân miền Nam để giải thích nguyên nhân tị nạn. Điểm số 4 cho thấy ảnh hưởng tích cực của công dân Mỹ gốc tị nạn đối với các nhà làm chính sách trong những cuộc vận động cứu trợ và định cư tị nạn. Đáng tiếc là giữa những tổ chức cộng đồng có những vụ công kích nhau chỉ vì nghi ngờ hay ngộ nhận về cách làm việc khác nhau nhưng cùng chung mục đích, tệ hại nhất là những trường hợp tung tin thất thiệt hay trình bày sự kiện sai lạc chỉ cốt đạt được lợi ích cá nhân. Điểm số 5 liên quan đến tình hình chính trị phức tạp ở Việt Nam về cả hai mặt đối nội và đối ngoại từ sau 1995 đến nay, có ảnh hưởng tới quan hệ giữa người Việt Nam ở nước ngoai với chính quyền và nhân dân trong nước. Lý do vì từ sau 1995, cộng đồng người Việt hải ngoại không chỉ có thêm người tị nạn chính trị, do tự ý hay bị trục xuất, mà còn có số đông là di dân trong đó có không ít thân nhân xa gần của đảng viên cộng sản cao cấp hòa nhập vào cộng đồng cựu tị nạn nhưng cũng đang làm biến đổi các quan hệ giữa trong và ngoài nước.
Trong phạm vi của một bài viết nhân dịp kỷ niệm lần thứ 45 ngày 30/4/1975, tôi không thể viết về tất cả 5 đặc điểm trong lịch sử tị nạn Việt Nam. Do đó, tôi sẽ chỉ ôn lại đặc điểm số 3 (chính nghĩa của tị nạn) và số 4 (tiếng nói và vai trò của người tị nạn) vì đây là hai điểm quan trọng chưa được chú ý đúng mức hay còn thiếu những thông tin cần được ghi nhận như những sự kiện lịch sử. Chính nghĩa tị nạn đã tạo cơ hội cho người tị nạn đóng góp đáng kể cho các chương trình cứu giúp, bảo vệ và định cư tị nạn, vận động thành công cho sự ra đời các đạo luật ủng hộ tị nạn, và đặc biệt là tham gia đắc lực vào các nỗ lực quốc tế giải quyết những cuộc khủng hoảng về thuyền nhân tị nạn kéo dài 20 năm ở Hong Kong và các nước ĐNÁ. Ngày nay, những công dân nước ngoài gốc Việt lại có vai trò đáng kể trong sự phát triển quan hệ hợp tác giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, đặc biệt trước mối hiểm họa chung là Trung Cộng. Đây cũng là những quan tâm lớn đối với tất cả những di dân và công dân ngoại quốc gốc tị nạn Việt Nam.
CHÍNH NGHĨA CỦA TỊ NẠN VIỆT NAMNhư trên đã nói, hàng trăm ngàn trang sách, bài vở và vô số hình ảnh đã trình bày lịch sử tị nạn Việt Nam như một tấn thảm kịch về chính sách cướp đoạt và trả thù độc ác của cộng sản đối với nhân dân miền Nam, những cuộc vượt thoát vô cùng bi thảm của người tị nạn, đời sống khổ cực của họ trong các trại tạm trú, nhất là phản ứng tuyệt vọng của những người bị bác bỏ quyền tị nạn và bắt buộc phải hồi hương. Tấn thảm kịch 20 năm đó cần phải được ghi chép trung thực và đầy đủ để muôn đời sau còn lưu lại tên tuổi của những kẻ chịu trách nhiệm gây nên thảm họa không từng thấy trong lịch sử dân tộc.
Tuy nhiên, tị nạn Việt Nam không chỉ là một chuỗi dài bi kịch trong những ngày cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa và những câu chuyện thương tâm trong những cuộc hành trình gian khổ của người tị nạn. Đây cũng là lịch sử một cuộc ra đi có chính nghĩa của hàng triệu người Việt Nam phải rời bỏ quê hương, tài sản và sự nghiệp chỉ vì muốn thoát khỏi chế độ hà khắc của độc tài cộng sản. Chính nghĩa của cuộc ra đi không tiền khoáng hậu này đã được chứng tỏ bằng những khoản ngoại tệ (hay kiều hối) được chuyển về nước giúp cho thân nhân, bằng hữu hay đầu tư kinh doanh, những chương trình giúp đỡ nhân đạo và cải thiện xã hội đang thực hiện khắp nước của các tổ chức phi chính phủ, không kể số lượng nhân tài chưa thể trở về giúp cho Việt Nam mau chóng trở thành một quốc gia phát triển hàng đầu trong khu vực.
Đáng ghi nhớ là chính nghĩa này đã được chính các nhà lãnh đạo cộng sản công khai thừa nhận từ giữa thập kỷ 1980 khi họ bừng tỉnh trước tình hình suy sụp mau chóng của các nước cộng sản Đông Âu, do đó đã quyết định “đổi mới hay là chết”. Nhân dân miền Nam không còn bị lên án là “ngụy” hay “phản động” và người tị nạn cũng hết bị nguyền rủa là “ma cô, đĩ điếm”. Một chính sách mới về “Việt kiều” được thiết lập, xoay 180 độ sang ca ngợi cộng đồng người Việt hải ngoại bằng những cụm từ hoa mỹ như “khúc ruột ngàn dặm”, “nguồn nội lực quan trọng” hay “bộ phận không thể tách rời” của dân tộc. Về điểm này, tác giả bài này đã nhấn mạnh trong lời kết bài thuyết trình tại Đại học Columbia, New York, nhân dịp kỷ niệm 20 năm tị nạn Việt Nam: “Hai mươi năm trước, chúng ta là những kẻ thất trận trong thời chiến. Ngày nay, năm 1995, chúng ta đã vươn lên thành những người thắng cuộc trong thời bình.” (2) Đặc biệt hơn nữa là gần 20 năm sau, nhà báo Huy Đức nổi tiếng ở trong nước cũng thẳng thắn phát biểu trong lời mở đầu cuốn sách Bên Thắng Cuộc : “Nhiều người thận trọng nhìn lại suốt hơn ba mươi năm, giật mình với cảm giác bên được giải phóng hóa ra lại là miền Bắc.” (3)
Buổi ăn trưa tại Bộ Ngoại giao do ông Funseth khoãn đãi phái đoàn Văn Bút VN hải ngoại trước ngày lên đường đi VN ký thỏa hiệp định cư tù cải tạo. Dãy bên phải: nhà thơ Viên Linh, ông Funseth, nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn, GS Lê Xuân Khoa. Dãy bên trái: nhà văn Trà Lũ, cố nhà báo Chử Bá Anh (thứ 3). Nhửng người Mỹ còn lại là thành viên phái đoàn Funseth. (Hình: Tác giả cung cấp)
Chính nghĩa tị nạn 1975 càng sáng tỏ hơn sau khi hai quốc gia Việt, Mỹ thiết lập quan hệ bình thường năm 1995. Do sự tan rã của các nước cộng sản Đông Âu và Liên Bang Xô-viết, cộng sản Việt Nam phải quay về núp bóng cộng sản Trung Quốc để duy trì chế độ nhưng không khỏi lo sợ nguy cơ đất nước bị Trung Quốc chiếm đoạt. Bởi vậy, Việt Nam cũng quyết định trông cậy vào sức mạnh kinh tế và quân sự của Hoa Kỳ để có thể tồn tại độc lập và trở thành một quốc gia giàu mạnh và phát triển. Sự chuyển hướng chiến lược này đương nhiên nhìn nhận vai trò quan trọng của cộng đồng công dân Mỹ gốc Việt trong quan hệ hợp tác giữa hai nước. Điều này đã được những lãnh đạo cao cấp nhất ở Việt Nam long trọng xác nhận trong cả hai cuộc họp thượng đỉnh tại thủ đô Washington, DC, giữa Tổng thống Obama với Chủ tịch Trương Tấn Sang năm 2013 và với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng năm 2015.
Ngày 25.7.2013, trong cuộc họp báo công bố bản Tuyên bố Chung, khi TT Obama khẳng định “nguồn sức mạnh giữa hai quốc gia là những công dân Mỹ gốc Việt sống ở Mỹ nhưng có nhiều ràng buộc chặt chẽ với Việt Nam, và những quan hệ giữa người dân trong và ngoài nước chính là chất keo sơn gắn bó sự hợp tác mạnh mẽ giữa hai nước.” CT Trương Tấn Sang “cám ơn Hoa Kỳ đã giang tay đón nhận người Việt Nam tới định cư và nay họ đã trở thành công dân Mỹ đang đóng góp vào công cuộc phát triển chung của nước Mỹ.”
Ngày 7.7.2015, sau cuộc họp với TBT Nguyễn Phú Trọng, TT Obama lại cho giới truyền thông hay là khi đề cập đến những hoạt động hợp tác giữa người dân hai bên với nhau, TBT Trọng đã nhận định rằng “nước Mỹ có nhiều công dân gốc Việt và Việt kiều hơn bất cứ nước nào khác trên thế giới và họ đã đóng góp lớn lao cho xứ sở này. Chúng tôi muốn mở rộng những trao đổi như vậy gồm cả những chương trình thông qua đại học Fulbright đã được chấp thuận và sắp sửa khai mạc.” Tiếp theo, ông Trọng ngỏ lời chào mừng và thăm hỏi thân tình cộng đồng người Việt ở Mỹ, hi vọng rằng mối quan hệ giữa hai nước sẽ gia tăng hơn nữa.
Trong chuyến đi Mỹ lần này, TBT Nguyễn Phú Trọng đã đề cao vai trò quan trọng của người Mỹ gốc Việt nhiều hơn CT Trương Tấn Sang hai năm trước. Ngoài phát biểu trong bản Tuyên Bố Chung, lần đầu tiên “nhìn nhận sự thành công của người Việt Nam tại Hoa Kỳ và nhiều đóng góp của họ đối với sự phát triển của Việt Nam và Hoa Kỳ”, TBT Trọng còn có bài diễn văn tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS), trong đó ông đã dùng những từ “đặc biệt” và “hết sức quan trọng” để nói về “cộng đồng đông đảo người Việt Nam tại Hoa Kỳ” mà ông định nghĩa chính xác và thân thiện là “công dân Hoa Kỳ và cũng là đồng bào của chúng tôi”. Dù lãnh đạo cộng sản nổi tiếng về nói dối và lợi dụng cơ hội, những lời phát biểu chính thức này cho thấy họ không phủ nhận được chính nghĩa yêu nước của người tị nạn.
Cũng cần nói thêm rằng chính nghĩa của người tị nạn không chỉ được chứng tỏ bằng tinh thần yêu chuộng dân chủ và nhân quyền mà các lãnh đạo cộng sản đã phải nhìn nhận, dù miễn cưỡng, như một sự khác biệt cần được tôn trọng. Chính nghĩa đó còn được thể hiện như một thông điệp của người tị nạn nhắc nhở Hoa Kỳ về trách nhiệm đối với Việt Nam Cộng Hòa, một cựu đồng minh đã phải hy sinh quá lớn về tài sản và nhân mạng trong vai trò “tiền đồn của thế giới tự do” trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. Thông điệp này được gửi đi trong bản điều trần của IRAC trước Thượng Viện Mỹ ngày 22.9.1981. Khi đó, tác giả bài này đang là Phó Giám đốc Trung tâm Tác vụ về Tị nạn Đông Dương (Indochina Refugee Action Center, IRAC) (4) lần đầu tiên ra điều trần trước Ủy ban Tư pháp Thượng viện Hoa Kỳ. Đó cũng là lúc đang có một luồng dư luận trong giới chính trị gia bảo thủ cho rằng tị nạn Việt Nam chỉ là di dân kinh tế và nước Mỹ đã mệt mỏi tình thương (compassion fatigue). Bản điều trần của IRAC kịch liệt phản bác luận điệu sai lầm này, nhấn mạnh rằng trong suốt hai ngàn năm lịch sử, đất nước Việt Nam đã trải qua nhiều thời kỳ đói kém hay loạn lạc, nhưng chưa bao giờ nhân dân Việt Nam rời bỏ quê hương ra sinh sống tại nước ngoài cho đến khi bị cai trị bởi chế độ độc tài cộng sản. Sau khi chứng minh chính nghĩa của tị nạn Việt Nam và triển vọng đóng góp cho xã hội Hoa Kỳ, tác giả kết luận bài điều trần bằng một sự kiện đau thương nhằm thức tỉnh lương tâm các nhà lãnh đạo Mỹ: “Xin đừng để các dân tộc trên thế giới phải đồng tình với cố thủ tướng Cam-bốt Sirik Matak khi ổng viết những dòng chữ cuối cùng cho Đại sứ Mỹ, từ chối sang Mỹ tị nạn và chấp nhận bị Khmer Đỏ sát hại. Ông viết: ‘Lỗi lầm duy nhất của chúng tôi là đã đặt niềm tin vào nước Mỹ’. Xin hãy tiếp tục duy trì truyền thống bày tỏ tình đoàn kết và lòng quảng đại của nước Mỹ đối với những nạn nhân của chế độ bạo tàn. Là một quốc gia và một nền kinh tế thịnh vượng, Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ không bao giờ phải hối tiếc về sự mở vòng tay đón nhận “những người đang khao khát được hít thở không khí tự do.” (5)
Chủ tọa buổi điều trần là Thượng nghị sĩ Alan K. Simpson (R-Wyoming) lập tức nhận định rằng đây là “một bài thuyết trình đầy sức mạnh” (a very powerful presentation) (6). Từ đó, ông có thái độ cởi mở hơn đối với người tị nạn từ ba nước Đông Dương.
TIẾNG NÓI VÀ VAI TRÒ CỦA NGƯỜI TỊ NẠNNgoài việc thể hiện chính nghĩa yêu nước theo lý tưởng quốc gia, chống lại chủ nghĩa và chế độ độc tài cộng sản, những người tị nạn may mắn định cư ở những nước dân chủ đã sớm góp phần đáng kể vào các nỗ lực quốc tế cứu vớt người vượt biển, chống nạn hải tặc, giúp đỡ tị nạn còn kẹt trong các trại tạm trú. Khi thuyền tị nạn bị đẩy ra khơi, họ đã lên tiếng vận động các nước giải quyết những cuộc khủng hoảng về tình trạng tị nạn tạm trú và được chấp thuận định cư. Vì không đủ thông tin và dữ kiện về tình hình tị nạn ở các nước, tác giả sẽ chỉ viết về lịch sử người Việt tị nạn ở Hoa Kỳ với giả định là vấn đề tị nạn Việt Nam trên thế giới về cơ bản có nhiều điểm giống nhau mà Hoa Kỳ là điển hình về mọi mặt. Ngoài ra, do những điều kiện thuận lợi của cá nhân và tổ chức do mình chịu trách nhiệm, đã đến lúc người viết phải nhắc đến những kinh nghiệm bản thân trong các nỗ lực chung của nhiều cá nhân và tổ chức trong cộng đồng người Việt ở Mỹ. Nhờ được đào tạo về sư phạm và nghiên cứu, người viết luôn cố gắng giữ thái độ khách quan, khoa học, tường thuật và nhận định trong tinh thần tôn trọng sự kiện có thật hay có nguồn dẫn chứng cụ thể. Lịch sử tị nạn là một phần của lịch sử Việt Nam, của Hoa Kỳ và các nước định cư, do đó cần phải được ghi chép chính xác và đầy đủ hầu tránh được những thiếu sót hay ngộ nhận, nhất là những sự kiện quan trọng đã bị vô tình hay cố ý trình bày sai sự thật về các hoạt động bảo vệ người tị nạn đã diễn ra mấy chục năm về trước.
Cuộc tị nạn bi thảm nhất thế kỷ 20 của thuyền nhân Việt Nam đã gây chấn động thế giới và Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc đã hai lần phải triệu tập hội nghị quốc tế tại Geneva, lần đầu để giải quyết cuộc khủng hoảng về tị nạn tạm trú khi thuyền nhân Việt Nam bị các nước ĐNÁ xua đuổi (1979), và lần thứ hai để tìm kiếm giải pháp tốt nhất có thể chấm dứt những cuộc ra đi cực kỳ nguy hiểm (1989). Như trên đã nói, người tị nạn và công dân Mỹ gốc Việt đã có tiếng nói và vai trò đáng kể trong cuộc vận động Hoa Kỳ và quốc tế ngay từ sau hội nghị Geneva lần đầu, sôi nổi nhất là những hoạt động trong thập kỷ 1980 dẫn tới hội nghị Geneva lần thứ hai, và cuối cùng đã giúp quốc tế khai thông được tình trạng bế tắc của Kế hoạch Hành động Toàn diện (CPA). Điều này cũng cho thấy giải pháp thật sự cho vấn đề tị nạn Việt Nam là giải pháp chính trị, tức là thỏa hiệp bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa Hoa Kỳ và Việt Nam năm 1995. Sau đó, cộng đồng Mỹ gốc Việt vẫn không ngừng vận động định cư cho những người tị nạn còn sót lại ở Hong Kong và Phi-líp-pin, và những người đối kháng chế độ bỏ chạy sang Thái Lan.
Những hoạt động của người Mỹ gốc Việt tị nạn, từ công tác cứu giúp và bảo vệ thuyền nhân, cung cấp các dịch vụ định cư đến những cuộc vận động chính phủ Hoa Kỳ, Liên Hiệp Quốc và các quốc gia tạm dung trong mấy chục năm qua rất đa dạng và đem lại nhiều kinh nghiệm thực tế cho những nhà làm chính sách trước những đợt di dân và tị nạn càng ngày càng gia tăng trên thế giới. Rất nhiều đóng góp của người gốc tị nạn trước và sau 1995, như Ủy ban Báo nguy Giúp Người Vượt Biển (BPSOS) của GS Nguyễn Hữu Xương ở San Diego (7) hợp tác với các con tàu nhân đạo quốc tế cứu vớt và giúp định cư được trên 3,000 thuyền nhân, cuộc vận động định cư tù cải tạo rất thành công của Hội Gia đình Tù nhân Chính trị và các Hội Cựu Tù nhân Chính trị, Hội nghị 14 quốc gia về Khủng hoảng Tị nạn Tạm trú do IRAC tổ chức tại Washington DC năm 1988 dọn đường cho Hội nghị quốc tế Geneva lần thứ hai, cuộc vận động của VOICE giúp cho 2,000 người tị nạn còn sót lại ở Phi-líp-pin trong tình trạng không hoàn toàn hợp pháp được định cư Mỹ, 300 tại Canada (phối hợp với Liên Hội người Việt Canada), và 200 người tại Na Uy. Tất cả những đóng góp này cùng nhiều hoạt động đáng kể khác là những dấu mốc lịch sử trên chặng đường dài cứu trợ, bảo vệ và tìm kiếm giải pháp nhân đạo cho thảm kịch tị nạn Việt Nam (1979-1995). Trong khung cảnh giới hạn của một bài báo, tác giả chỉ có thể chú trọng vào một số trường hợp điển hình trong đó có những thông tin ít được biết đến hoặc đương thời không thể đưa ra công khai, do đó có sự kiện đã gây dư luận nghi ngờ hay chống đối vì ngộ nhận. Trong giới hạn đó, tác giả rút ra một phần nội dung của bản thảo cuốn sách chưa hoàn tất, thu gọn thành một bài viết có chủ đề riêng để làm sáng tỏ những sự kiện lịch sử mà đáng lẽ phải viết ra từ lâu. Dưới đây là bốn dấu mốc điển hình cho sự tham gia đắc lực của người tị nạn vào việc giải quyết các vấn đề tị nạn:
Phái đoàn tị nạn đi thăm các trại tạm trú
Tại hội nghị Geneva lần đầu năm 1979, nhờ Hoa Kỳ và các nước định cư quyết định gia tăng số tị nạn Việt Nam được chấp thuận định cư, các nước tạm dung ở Đông Nam Á đồng ý ngưng các biện pháp xua đuổi thuyền nhân và tiếp tục cho phép họ cập bến và nhập trại tạm trú. Tuy nhiên, sang thập kỷ 1980, số người tị nạn đường biển và đường bộ tới các trại tị nạn tăng lên gấp bội so với số người được đưa đi các nước định cư, do đó cuộc khủng hoảng tạm trú (first asylum crisis) lại bùng phát trầm trọng hơn lần trước, nhất là tại Hong Kong là nơi có nhiều người tị nạn từ Bắc Việt. Các nước cho tị nạn tạm trú ra tuyên bố chung chống thuyền nhân tị nạn. Nhiều con thuyền mong manh chở đầy người tị nạn bị đẩy ra khơi làm nhiều người chết chìm trong khi những người ở các trại tạm trú bị đối xử cực kỳ vô nhân đạo để làm nản lòng những người muốn ra đi.
Trước tình hình nguy hiểm ấy, Trung tâm IRAC lập một phái đoàn cựu tị nạn đi thăm tận nơi các trại tị nạn tạm trú ở Hong Kong và Đông Nam Á để tìm cách giúp giải quyết cuộc khủng hoảng. Chuyến đi này là bước đầu cần thiết để các đại diện tị nạn có cơ hội trực tiếp vận động những nhà làm chính sách ở các nước tạm dung, gây được sự nể trọng và tin cậy của họ. Được sự can thiệp của Bộ Ngoại giao và Quốc hội Mỹ, lần đầu tiên một phái đoàn tị nạn được đại diện các quốc gia tạm dung chính thức tiếp đón, cho phép đi thăm các trại và phỏng vấn người tị nạn, sau hết là trao đổi ý kiến về những điều mà các bên liên quan, kể cả cộng đồng người Việt hải ngoại, có thể thực hiện để cải thiện đời sống trong các trại tạm trú, giảm bớt gánh nặng cho các nước tạm dung và góp phần giải quyết cuộc khủng hoảng tị nạn. Khi trở về Washington DC, phái đoàn IRAC đã mở một cuộc họp báo tại Thượng viện Hoa Kỳ do hai Thượng nghị sĩ Mark Hatfield (CH, Oregon) và Claiborne Pell (DC, Rhode Island) đồng bảo trợ. Ngoài việc báo cáo tình hình khổ cực và thiếu an ninh của người tị nạn, và đề nghị các biện pháp cải thiện cuộc sống trong các trại, phái đoàn kêu gọi LHQ triệu tập khẩn cấp hội nghị quốc tế lần thứ hai để giải quyết toàn diện các vấn đề trước mắt và lâu dài. Đại diện báo giới quốc tế, nhất là các nước cho tị nạn tạm trú, đều có mặt vả gừi bài về trong nước của họ. Có lẽ bài tường thuật rành mạch và đầy đủ nhất là bài của nhà báo kỳ cựu Don Oberdorfer trên tờ Washington Post ngày 3/3/1987 nhấn mạnh lời tuyên bố của trưởng đoàn IRAC: “Chúng tôi (người tị nạn) vẫn bị coi là một vấn đề cần giải quyết. Nay chúng tôi nhất định sẽ góp phần vào giải pháp.”
Chỉ vài tháng sau, TNS Hatfield (CH, Oregon) trình dự luật S.814 tại Thượng viện mang tên “Luật 1987 về Giúp đỡ và Bảo vệ Tị nạn Đông Dương” và DB Chet Atkins (DC, Massachussets) đưa dự luật tương tự H.R. 1940 ra Hạ viện. Một chiến dịch đại vận động các nghị sĩ và dân biểu Quốc Hội do IRAC cùng với các hội đoàn tị nạn thực hiện đồng loạt trên khắp các tiểu bang. Kết quả là Dự luật Hatfield-Atkins được lưỡng viện quốc hội thông qua và Tổng thống Reagan hoàn toàn đồng ý và ký lệnh ban hành ngày 22.11.1987. Trong một lá thư gửi Giám đốc IRAC, TNS Hatfield cám ơn cuộc vận động thành công của người Mỹ gốc Việt và xác nhận chuyến đi thăm các trại tị nạn của phái đoàn IRAC hồi đầu năm đã gây ấn tượng tốt và tạo được đồng thuận giữa Chính phủ và Quốc Hội.
Sửa bởi người viết 27/04/2020 lúc 01:26:34(UTC)
| Lý do: Chưa rõ