logo
Men for what watch? Watch, watch and call. A tool that is used for timing on breitling replica the wrist. Men wear watches what kind, starting from the basic color and size, have their own right watches, you can follow the watch's color, shape, value, occasions to carefully match their own clothing. For the choice of rolex replica a watch, the first to look at and their identity are consistent with a rural old people wear watches, a bit unrealistic, even if there is, it would have been too ostentatious. A Multi Millionaire owner, wearing a few hundred dollars of high imitation table also lost their identity, and even make friends on their own business is not good. In the formal social occasions, watches are often regarded as jewelry, for usually only ring a jewelry can be worn by rolex replica uk men is respected. Some people even stressed that: "the watch is not only a man's jewelry, but also men's most important jewelry." In western countries, watches, pens, lighters was once known as adult men "three treasures", is every man even for a moment can not be away from the body.

Chào mừng các bạn! Mong bạn Đăng nhập. Xin lỗi bạn, tạm dừng việc đăng ký mới.►Nhấn hình ảnh nhỏ sẽ hiện ảnh lớn ‹(•¿•)›

Thông báo

Icon
Error

Tùy chọn
Xem bài viết cuối Go to first unread
song  
#1 Đã gửi : 22/01/2022 lúc 02:00:46(UTC)
song

Danh hiệu: Moderate

Nhóm: Registered
Gia nhập: 21-02-2012(UTC)
Bài viết: 24,236

Cảm ơn: 1 lần
Được cảm ơn: 2 lần trong 2 bài viết
UserPostedImage

Giới thiệu cuốn sách Việt Nam Cộng Hòa, 1955-1975: Kinh Nghiệm Kiến Quốc

UserPostedImage

VIỆT NAM CỘNG HÒA
1955-1975
Kinh Nghiệm Kiến Quốc

Chủ biên: VŨ TƯỜNG & SEAN FEAR
VĂN HỌC PRESS xuất bản, 2022


Giới thiệu tác phẩm

Việt Nam Cộng Hòa, 1955-1975: Kinh Nghiệm Kiến Quốc là ấn phẩm đầu tiên do Trung tâm Nghiên cứu Việt-Mỹ tổ chức thực hiện, bắt đầu từ một Hội thảo ở Đại học California, Berkeley vào tháng 10 năm 2016. Bản tiếng Anh của sách tên là The Republic of Vietnam, 1955-1975: Vietnamese Perspectives on Nation Building, được xuất bản bởi Chương trình Đông Nam Á của Đại học Cornell năm 2019, đã nhận được nhiều phản hồi tích cực từ giới nghiên cứu ở Hoa Kỳ và Việt Nam. Chúng tôi mong bản tiếng Việt sẽ giúp ích cho người Việt ở khắp thế giới và ở Việt Nam có thêm hiểu biết về Việt Nam Cộng Hòa. Sau khi bản tiếng Anh được xuất bản, bốn tác giả trong sách, ông Phạm Kim Ngọc, Giáo sư Cao Văn Thân, ông Bùi Quyền và Giáo sư Vũ Quốc Thúc, đã qua đời. Chúng tôi biết ơn đóng góp của họ cho sách và cảm thấy hân hạnh đã kịp giúp họ để lại một chút gì đó cho thế hệ sau.



Trong quá trình tổ chức Hội thảo, biên tập, dịch thuật và xuất bản, chúng tôi đã nhận được rất nhiều sự động viên, giúp đỡ nhiệt tình về mọi mặt, nhất là hỗ trợ tài chính. Chúng tôi xin hết sức cảm tạ các bậc tiền bối, thân hữu, và thức giả xa gần, đặc biệt là các ông bà Nguyễn Đức Cường, Hoàng Đức Nhã, Phan Công Tâm, Phan Lương Quang, Trần Quang Minh, Trần Văn Sơn (đã quá cố), Trùng Dương, và Bùi Văn Phú. Chúng tôi cũng cảm tạ sự động viên và giúp đỡ của các giáo sư, giảng viên và nhà nghiên cứu Peter Zinoman, Olga Dror, Keith Taylor, Trần Nữ-Anh, Tuấn Hoàng, Vân Nguyễn-Marshall, Sarah Maxims, Nguyễn Nguyệt Cầm, Trần Hạnh, Alex-Thái Võ, Lưu Mỹ Trinh và Kevin Li.

Ra đời năm 2019, Trung tâm Nghiên cứu Việt-Mỹ dành nỗ lực thúc đẩy nghiên cứu và giáo dục trên ba lĩnh vực, bao gồm Việt Nam đương đại, quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ, và cộng đồng người Mỹ gốc Việt. Tại Đại học Oregon, Trung tâm là một phần của Viện Nghiên cứu Toàn cầu (Global Studies Institute) do Giáo sư Dennis Galvan đứng đầu. Viện Nghiên cứu Toàn cầu tổ chức và hỗ trợ 11 trung tâm, chương trình và sáng kiến nghiên cứu theo định hướng quốc tế của Đại học Oregon.

Trung tâm Nghiên cứu Việt-Mỹ được thành lập vào năm 2019 và hiện do Vũ Tường, Giáo sư và Trưởng khoa Chính trị học tại Đại học Oregon, làm giám đốc. Hoạt động của Trung tâm Nghiên cứu Việt-Mỹ nhắm vào công chúng và cộng đồng chuyên gia ở Hoa Kỳ, Việt Nam và các nơi khác thông qua các dự án nghiên cứu, việc thu thập và phổ biến tài liệu lịch sử, cũng như các hội thảo và hội nghị chuyên đề. Trung tâm phát hành Tạp chí song ngữ Việt-Mỹ, một tạp chí trực tuyến có các bài phân tích thường xuyên về các vấn đề thời sự, phỏng vấn các học giả và lãnh đạo cộng đồng, và phần công bố tài liệu lưu trữ và nghiên cứu. Vào tháng 10 năm 2019, Trung tâm đã tổ chức Hội thảo quốc tế tại Eugene, OR với tiêu đề “Nghiên cứu về Chính trị và Chủ thuyết Cộng Hòa ở Việt Nam: Vấn đề, Thách thức và Triển vọng”. Đường dẫn đến trang web của Trung tâm: https://usvietnam. uoregon.edu/

Trích dẫn từ các tác giả
“Can đảm, đối với tôi, bây giờ có nghĩa là tôi phải dám nói lên cho thế giới biết về sự bất công mà dân tộc Việt Nam phải chịu, cũng như về điều tốt đẹp vẫn còn tràn đầy trong mọi trái tim người Việt. Nên tôi sẽ tiếp tục can đảm mà làm công việc của một nhà báo bằng cách cất tiếng nói thay cho những tiếng nói đã và đang bị bóp nghẹt. Có phải đó chính là mục đích của ngành truyền thông không? Tôi hãnh diện là một phóng viên chiến trường của miền Nam Việt Nam.”
– Vũ Thanh Thuỷ, phóng viên chiến trường.

“Năm 2016 đánh dấu 120 năm điện ảnh thế giới được khai sinh, đồng thời cũng đánh dấu 120 năm ngày người Việt biết cái máy quay phim. Điều này cho thấy điện ảnh đến Việt Nam rất sớm, trước nhiều nước lân bang. Nhưng, cho tới nay, điện ảnh đã trở thành ngành công nghiệp tối tân, kể cả tại nhiều nước Á châu, riêng với Việt Nam, bộ môn nghệ thuật thứ bẩy này, sau cả thế kỷ, vẫn còn trong tình trạng “đang phát triển”. Sở dĩ có sự chậm trễ này chỉ là vì: điện ảnh trong một quốc gia, như mọi ngành nghề khác, luôn có chung số phận với đất nước và dân tộc của nó.”
– Kiều Chinh, diễn viên điện ảnh.

“Đi theo gia đình di cư vào Sài Gòn vào khoảng tháng 7 năm 1954, tôi hoàn toàn ngỡ ngàng trước nhà cửa và đường xá ở Sài Gòn. Phố xá dài rộng, nhà cửa san sát, người dân chơn chất và việc mưu sinh có vẻ dễ dàng. Nhiều tiện nghi mà tại Hà Nội lúc bấy giờ chưa có. Một sự việc khiến tôi đến nay vẫn chưa quên là việc xé đôi tờ giấy bạc để trả lại người mua vì không có tiền lẻ. Tôi nghĩ trên thế giới việc này chỉ có thể xuất hiện duy nhất tại miền nam VN vào thời điểm đó. Điều độc đáo này nói lên bản tính dung dị của người dân miền Nam.”
– Trung tá Bùi Quyền, Tư lệnh phó Lữ đoàn 3 Dù.

“Những chính sách nông nghiệp dưới thời Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã biến chuyển vùng nông thôn và góp phần đáng kể cho sự phát triển kinh tế miền Nam Việt Nam trong những năm cuối của chiến tranh. Các chính sách này bao gồm cải cách điền địa, phát triển nông nghiệp, rỡ bỏ kiểm soát giá cả, và ổn định thị trường. Kết quả là miền Nam đã xoá bỏ tình trạng tá điền, giảm bất bình đẳng ở nông thôn bằng cách tạo ra một tầng lớp chủ đất nhỏ đông đảo, nhanh chóng mở rộng sản xuất theo hướng tự túc về thực phẩm, ổn định thị trường cung cấp và tiêu thụ thực phẩm. Đây là một cuộc cách mạng nông thôn thành công diễn ra giữa một cuộc chiến tranh tàn bạo, một cuộc cách mạng chưa được sử gia công nhận một cách đầy đủ. Thay vì đấu tranh giai cấp bằng bạo lực, cuộc cách mạng của chúng tôi được thực hiện dựa trên sự kết hợp giữa các quyền lợi về kinh tế và kỹ thuật canh tác mới để thu hút sự tham gia và đem lại lợi ích cho đa số nông dân miền Nam.”
– Giáo sư Cao Văn Thân, Tổng trưởng Cải cách Điền địa và Phát triển Nông nghiệp,
đảm trách thực hiện Chương trình Người Cầy Có Ruộng.

“Tôi cũng chống lại các kế hoạch của Mỹ về kiểm soát giá cả và phân phối. Đôi khi, tôi không thể không cảm thấy rằng mình đã bị buộc tội (oan) là dung dưỡng tình trạng hoang phí và gian dối, và rằng định mệnh của những nước nhược tiểu là phải để cho các nước tài trợ đạo đức giả nhiếc móc vì tội hoang đàng.”
– Phạm Kim Ngọc, Tổng trưởng Kinh tế.

“Kissinger và phái đoàn của ông đã rất ngạc nhiên khi gặp tôi tại cuộc họp vì tên của tôi vẫn chưa xuất hiện trong số cố vấn của Tổng thống Thiệu họ đã biết. Ông ta trình bày những gì ông mô tả là một hiệp định toàn diện nhất nhằm chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình cho Việt Nam. Ông cũng tuyên bố rằng với thỏa thuận này Hà Nội chịu từ bỏ hoàn toàn những đòi hỏi họ đã bám vào trong nhiều năm. Không thể tin nổi, Kissinger thậm chí còn nói với chúng tôi rằng các nhà lãnh đạo Bắc Việt Nam đã khóc sau khi đồng ý với các điều khoản của hiệp định!”
– Hoàng Đức Nhã, Bí thư của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.

“Từ năm 1956 đến 1971, tổng cộng có 16 Bộ trưởng Giáo dục. Rất may là tất cả 16 Bộ trưởng đều chung lòng lo cho thế hệ tương lai nên người mới vẫn tiếp tục công trình người cũ còn làm dở dang. Tất cả Bộ trưởng giáo dục kẻ trước người sau thực hiện mọi cải tổ trong nền giáo dục đều theo kim chỉ nam của triết lý giáo dục là đặt trọng tâm chương trình học tập trên nền tảng: dân tộc, nhân bản, và khai phóng.”
[…]
“Khi vào Đại học Sư phạm, vốn Pháp văn sẵn có quả thực giúp tôi rất nhiều và tôi có cơ hội giúp các bạn. Giáo sư các môn chính là người Pháp và cả giáo sư Việt cũng dạy bằng Pháp ngữ vì họ tốt nghiệp ở Pháp mới về Việt Nam. Khổ nỗi là đa số các bạn cùng lớp lại theo chương trình Việt ở trung học nên họ gặp nhiều khó khăn khi nghe giảng bài bằng tiếng Pháp. Rồi đến lúc ra trường chúng tôi cùng khổ như nhau vì phải dạy Vạn vật bằng tiếng Việt.”
– Tiến sĩ Võ Kim Sơn, giáo sư trường Quốc gia Nghĩa tử,
Đại học Sư phạm Sài Gòn, trường Thánh mẫu Gia định.

“Cả hai nền Cộng hoà phải dồn hầu hết nỗ lực cho các hoạt động quân sự, bắt đầu từ đối phó với chiến tranh du kích và sau đó là chiến tranh quy ước tổng lực, với hơn 1,5 triệu quân đội Quốc gia. Nếu không có viện trợ nước ngoài, đây là một gánh nặng không thể chịu được cho một quốc gia nghèo với 17 triệu dân. Tuy nhiên, chúng tôi đã đạt được một mức độ ổn định và tăng trưởng kinh tế trong những năm đầu của nền Cộng hòa nhờ vào sự trợ giúp đáng kể của Mỹ.”
[…]
“Nhìn lại, chúng tôi không có vốn để phung phí vào các dự án lớn. Chúng tôi không có nhân lực hoặc tổ chức để phát triển chuyên môn trong bất kỳ lĩnh vực cụ thể nào. Đôi khi chúng tôi cố gắng can thiệp vào thị trường với giả định sai lầm rằng chúng tôi có thể kiểm soát giá cả, ngăn chặn đầu cơ, và ngăn thực phẩm không đến tay kẻ thù. Nhưng thường thì chúng tôi cố gắng thuyết phục các nhà lãnh đạo của mình để cho thị trường vận hành dù nó có thể không hoàn hảo. Nhiệm vụ của chúng tôi chỉ đơn giản là thiết lập nền tảng pháp lý vững chắc, thúc đẩy các thể chế mạnh mẽ, thực hiện các chính sách hợp lý, và quản trị cho tốt.”
– Nguyễn Đức Cường, Tổng trưởng Bộ Thương mại và Kỹ nghệ.

“Từ năm 1966, khu đất trống sau trường Văn khoa, giữa bốn mặt đường lớn ngay trung tâm Sài Gòn, trở thành nơi sinh hoạt chung của các chương trình hoạt động thanh niên. Đây là nơi có những đêm đọc thơ ngoài trời. Khán giả là hàng trăm sinh viên học sinh, ngồi trên mặt đất, nghe đọc thơ kiểu mới. Từ sân trường Văn khoa Sài Gòn, các buổi đọc thơ được đưa vào các giảng đường đại học xa gần, rồi thành các chương trình văn học nghệ thuật được phát thanh và truyền hình. Từ đây, việc làm thơ, đọc thơ, nghe thơ bước sang khúc quanh mới.”
[…]
“Đó là một buổi trưa mùa xuân, ở một ngã ba trong khu cư xá Chu Mạnh Trinh, Phú Nhuận, có cảnh công an khu vực huy động thanh thiếu niên đốt sách. Nơi đốt sách là con đường ngay xế cửa nhà anh Nguyễn Mạnh Côn. Đứng cùng chúng tôi trên bao lơn lầu một, nhìn xuống cảnh đốt sách, anh Côn cười cười bảo, “Rồi các cậu coi. Chữ nghĩa bọn nhà văn miền Nam, tiếng hát của nghệ sĩ miền Nam, các anh có đốt tới Tết Công Gô cũng chẳng ăn thua gì.”
[…]
“Nhìn kỹ hơn, đọc kỹ hơn, sẽ thấy chính những người cầm bút ở miền Nam năm 1975 còn ở tuổi mười tám đôi mươi, hiện đang trở thành những tác giả được yêu mến nhất, đọc nhiều nhất. Văn học nghệ thuật thời Việt Nam Cộng Hòa 1955-1975 không chỉ là của riêng miền Nam. Đó là một hành trình chung, thành tựu chung của cả một dân tộc. Chính người dân Việt từ Nam ra Bắc cùng xác nhận điều này.”
– Nhã Ca, nhà văn, tác giả “Giải khăn sô cho Huế.”

“Tôi hy vọng một khi tự do dân chủ được khôi phục ở Việt Nam, báo chí cũng như bất cứ ai sẽ có trách nhiệm quản lý và xây dựng lại quê mẹ của tôi sẽ học hỏi từ kinh nghiệm của Việt Nam Cộng Hòa và đặc biệt là mẫu mực của Mỹ, để xây dựng nên một nước Việt Nam xứng đáng góp mặt với thế giới văn minh của nhân loại.”
– Trùng Dương, nhà văn, chủ nhiệm nhật báo Sóng Thần.

“Có thể nói là sau cuộc đảo chánh 1963 biểu tình xuống đường thường xuyên xẩy ra tại một số khá nhiều thị xã và thành phố lớn, nhất là tại thủ đô Sài Gòn. Những đòi hỏi nhiều khi chính đáng, nhiều khi rất mơ hồ. Cảnh sát lại phải tốn công sức đối đầu với những xáo trộn này. Đàn áp một cuộc biểu tình không phải là một công tác khó khăn. Khó khăn chính là làm sao để duy trì được trật tự mà nhân viên cảnh sát vẫn không vi phạm vào những nguyên tắc luật định để người dân không bị tước đi quyền tự do phát biểu của mình.”
[…]
“Việt Nam Cộng Hòa … vừa phải tìm sự ổn định lâu dài để xây dựng xã hội và phát triển kinh tế lại vừa phải đối đầu với những thách thức mà một cuộc chiến tranh nổi dậy mang đến. Trong cuộc chiến ấy, kẻ thù Việt Cộng lợi dụng mọi cơ hội để phá hoại và gây cản trở cho công cuộc ổn đinh và phát triển miền Nam. Việc duy trì an ninh và tôn trọng dân chủ trong một chế độ pháp trị quả không dễ thực hành. Nhưng đó lại là trách nhiệm hàng đầu đè nặng trên vai người cảnh sát Việt Nam Cộng Hòa trong suốt 20 năm chiến tranh”.
– Đại tá Trần Minh Công, Chỉ huy trưởng Học viện Cảnh sát Quốc gia.

“Không chỉ là cuộc chiến tranh ủy nhiệm thời Chiến tranh Lạnh, xung đột giữa cộng sản và cộng hoà ở Việt Nam đã không thể hòa giải được từ lâu trước khi sự can thiệp của Mỹ bắt đầu, và nó còn tồn tại dai dẳng giữa người Việt trên quy mô toàn cầu cho đến tận ngày nay. Những người theo đuổi mục tiêu xây dựng quốc gia cộng hòa học hỏi từ truyền thống tư tưởng Việt nam và kịch liệt chống lại sự can thiệp của nước ngoài, nhất là từ Washington. Họ cần Mỹ giúp đỡ nhưng nỗ lực để bớt phụ thuộc vào Mỹ. Nguồn gốc ý thức hệ của cuộc nội chiến ở Việt Nam và vai trò quan trọng của người quốc gia miền Nam trong lịch sử không cho phép chúng ta coi nhẹ kinh nghiệm xây dựng quốc gia Việt Nam Cộng Hòa.”
– Vũ Tường và Sean Fear, chủ biên

Tóm tắt tiểu sử Chủ biên

Vũ Tường là Giáo sư và Trưởng khoa Chính trị học tại Đại học Oregon và đã từng công tác tại Đại học Princeton và Đại học Quốc gia Singapore. Ông nhận bằng tiến sĩ Chính trị học tại Đại học California, Berkeley vào năm 2004. Tác phẩm nghiên cứu chính của ông bao gồm: Vietnam’s Communist Revolution: The Power and Limits of Ideology (2017) và Paths to Development in Asia: South Korea, Vietnam, China, and Indonesia (2010). Vũ Tường cũng là người biên tập nhiều công trình đã được xuất bản thành sách và nhiều bài báo trên các tạp chí chuyên ngành về chính trị ở Á châu và Việt Nam.

Sean Fear là giảng viên môn Lịch sử quốc tế tại Đại học Leeds, Anh quốc. Ông nhận bằng Tiến sĩ lịch sử tại Đại học Cornell vào năm 2016 và từng là nghiên cứu sinh hậu tiến sĩ tại Đại học Dartmouth và Đại học McGill. Tác phẩm của Sean Fear đã được đăng trên Diplomatic History và the Journal of Vietnamese Studies. Ông hiện đang hoàn tất bản thảo một công trình nghiên cứu về các mối quan hệ chính trị trong nước và đối ngoại của miền Nam Việt Nam từ năm 1967 đến năm 1975.

@@@
Sách dày 334 trang, đã có bán trên BARNES & NOBLE
Ấn phí: US$20.00
Xin bấm vào đường dẫn sau:

Viet Nam Cong Hoa Kinh Nghiem Kien Quoc by Tuong Vu, Sean Fear, Paperback | Barnes & Noble® (barnesandnoble.com)
Search Keyword: Viet Nam Cong Hoa kinh nghiem kien quoc, vu tuong, sean fear

song  
#2 Đã gửi : 22/01/2022 lúc 02:04:02(UTC)
song

Danh hiệu: Moderate

Nhóm: Registered
Gia nhập: 21-02-2012(UTC)
Bài viết: 24,236

Cảm ơn: 1 lần
Được cảm ơn: 2 lần trong 2 bài viết
Điểm sách: Việt Nam Cộng Hoà, 1955-1975: Kinh Nghiệm Kiến Quốc [The Republic of Vietnam, 1955-1975: Vietnamese Perspectives on Nation Building], Vũ Tường và Sean Fear biên soạn. Ithaca, NY: Cornell University Press, 2019.

“Rất nhiều phóng viên nước ngoài đã tường thuật về cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Nhưng dù họ đã từng làm việc đó bao nhiêu lâu hay họ có hiểu về đất nước này nhiều như thế nào, cuộc chiến không thể thấm vào tâm hồn họ giống như nó đã thấm vào những người con của đất Việt,” phóng viên chiến trường Vũ Thanh Thuỷ nhận định trong phần mở đầu bài viết của mình về một thực tế của lịch sử (tr. 128).

Quả thực muốn thấu hiểu cuộc chiến tranh này cần phải đi sâu tìm hiểu chính những người Việt Nam đã trải nghiệm thời đại lịch sử ấy trên quê hương máu thịt của họ, cần phải lắng nghe chính những người góp phần làm nên lịch sử phản ánh những gì họ coi là quan trọng với cuộc đời họ, với thời đại của họ. Đây cũng là điểm cốt lõi làm nên giá trị của cuốn tuyển tập Việt Nam Cộng Hoà, 1955-1975: Kinh Nghiệm Kiến Quốc mới được xuất bản cuối năm 2019.

Mười bốn chương hồi tưởng cá nhân của tập sách cùng góp phần kể những câu chuyện sinh động và đầy cảm xúc về Việt Nam Cộng Hoà (VNCH) để thấy cuộc chiến đã thực sự thấm vào từng câu chữ và cả cuộc đời họ cho tới hàng chục năm sau. Họ là những người con đã cống hiến trái tim, khối óc, cùng rất nhiều nỗ lực để xây dựng đất nước của mình trong vòng hai thập kỷ tồn tại ngắn ngủi 1955-1975.

Trong suốt 45 năm qua kể từ khi chế độ Sài Gòn sụp đổ, sách vở viết bởi chính những công dân của VNCH mà độc giả nước ngoài tiếp cận được khá hạn chế, ngoại trừ một vài ấn phẩm dưới dạng hồi ký của những nhà lãnh đạo chính trị và tướng lĩnh quân đội. Trong kho tàng khổng lồ về lịch sử cuộc chiến tranh Việt Nam – cách mà người Mỹ thường gọi về cuộc chiến này, số lượng tài liệu về đất nước và con người VNCH không nhiều, cũng như hình ảnh của VNCH trong nghiên cứu học thuật ở Hoa Kỳ còn tương đối mờ nhạt. Cho tới nay các học giả từ mọi phía của cuộc chiến vẫn chủ yếu phân tích những khía cạnh chính trị, quân sự, ngoại giao – những chủ đề quen thuộc được đào xới nhiều lần theo những góc nhìn khác nhau. Khi chỉ tập trung vào vấn đề của chiến tranh, những tài liệu này thường không chú ý phản ánh đời sống văn hoá xã hội và những thành tựu về kinh tế, giáo dục, báo chí, văn học, hay nghệ thuật của VNCH. Tập trung vào chính những trải nghiệm của người Việt, cuốn sách Việt Nam Cộng Hoà, 1955-1975: Kinh Nghiệm Kiến Quốc bởi vậy là một công trình quan trọng và cần thiết, kịp thời giúp giảm bớt sự mất cân bằng trong nghiên cứu lịch sử cuộc chiến tranh ở Việt Nam.

Giống như cuộc hội thảo “khai sơn phá thạch” được tổ chức ở Đại học Cornell năm 2012 – cuộc hội thảo khoa học đầu tiên một trường đại học Hoa Kỳ với diễn giả là những cựu chính trị gia và quân nhân của VNCH, cuộc hội thảo ở Đại học California-Berkeley năm 2016 (mà cuốn sách này là kỷ yếu) mời những nhà chính trị, nhân viên hành chánh, quân nhân, nhà giáo dục, nhà báo, nhà văn, nghệ sĩ để kể những câu chuyện về cuộc sống và sứ mệnh của họ trong thời VNCH. Đây là những nỗ lực đáng trân trọng của ban tổ chức hội thảo và ban biên tập kỷ yếu để lưu giữ và phổ biến những câu chuyện quý báu của một thế hệ chiến tranh đang dần biến mất, vì nếu không những câu chuyện này có lẽ sẽ chỉ lan truyền giới hạn trong cộng đồng người Việt hải ngoại qua những nhà xuất bản địa phương hoặc những kênh thông tin không chính thống. Cuộc hội thảo và tập sách kỷ yếu đã tạo cơ hội cho những câu chuyện lịch sử này được thành hình, qua đó làm giàu có thêm lịch sử và cung cấp thêm tư liệu gốc cho công việc tìm hiểu quá khứ cho cả giới nghiên cứu và độc giả nước ngoài.

Tập sách mở đầu với một lời giới thiệu ngắn gọn cung cấp nhiều thông tin về công cuộc kiến thiết quốc gia của VNCH, đặc biệt là những thử thách trong bối cảnh quốc tế thời hậu thuộc địa giúp bạn đọc có một cái nhìn tổng thể về VNCH trong thời đại lịch sử nửa sau thế kỉ XX. Các bài viết sau đó được chia theo năm chủ đề chính là phát triển kinh tế, chính trị và an ninh, giáo dục, báo chí và truyền thông, và văn hoá và nghệ thuật. Tuyển tập kết thúc với hai bài viết của nhà sử học trẻ Nữ-Anh Trần và Tuấn Hoàng lý giải sự vắng bóng của VNCH trong nghiên cứu lịch sử cuộc chiến tranh ở Hoa Kỳ, góp thêm quan điểm của nhà nghiên cứu về giá trị và cả những giới hạn của loại hình tư liệu hồi kí, đồng thời giới thiệu tóm tắt một số hồi kí bằng tiếng Việt của những nhân vật có tên tuổi ở VNCH từ trước năm 1975.

Các tác giả của tập sách này đại diện cho một thế hệ trẻ đầy tài năng đã ghi dấu ấn nhất định của mình trong sự phát triển của VNCH. Họ đều có học vấn cao, có người từng có bằng cấp sau đại học hoặc được đào tạo chuyên môn tại Pháp hay Hoa Kỳ trước khi trở thành những cánh chim đầu đàn trong lĩnh vực của họ. Mỗi câu chuyện nhấn mạnh sự phát triển của ngành nghề chuyên môn với những đóng góp của bản thân họ cho công cuộc kiến thiết quốc gia, những trải nghiệm cá nhân trong thời chiến tranh, mối quan hệ với Hoa Kỳ, nhắc nhớ những tên tuổi còn vang bóng của nhiều bạn bè đồng nghiệp, nhân sinh quan và thế giới quan của cả một lớp người. Dù phản ánh nhiều chủ đề đa dạng trải rộng từ tài chính ngân hàng đến nông nghiệp, từ giáo dục đến báo chí, từ văn học đến điện ảnh, những nhân vật của VNCH này đều gặp nhau ở một điểm chung: trong vòng xoáy của thế cuộc chiến tranh, thế hệ của họ đã phải đối mặt và đã vượt qua nhiều thử thách và trở ngại to lớn. Tập sách này đã dựng lên được một bức tranh tổng thể và đầy mầu sắc về một thế hệ đã xây dựng đất nước của họ một cách tốt nhất trong phạm vi có thể. Thế hệ ấy giờ đây, ở tuổi trên dưới 80, đang hồi tưởng và ghi lại những gì thời gian đã minh chứng là quan trọng nhất đối với cuộc đời và thời đại của họ.

Bạn đọc của tuyển tập này sẽ được chìm trong những hồi tưởng lịch sử sinh động tưởng như mới xảy ra ngày hôm qua. Trong lĩnh vực tài chính và ngân hàng, cựu Thống đốc Ngân hàng Quốc gia Vũ Quốc Thúc chia sẻ về những khó khăn chồng chất trong những năm 1950 chuyển đổi từ hệ thống của thời Pháp sang một chính thể độc lập; cố Tổng trưởng Kinh tế Phạm Kim Ngọc tường thuật những trở ngại khi Hoa Kỳ rút quân vào đầu thập niên 70. Cố Tổng trưởng Cải cách điền địa và Phát triển Nông nghiệp Cao Văn Thân đi sâu vào những nỗ lực trong chương trình Người Cày Có Ruộng và sự tham gia vào cuộc “Cách mạng xanh” toàn cầu của VNCH. Bài viết của cựu Tổng trưởng Dân vận và Chiêu hồi Hoàng Đức Nhã, thư ký riêng của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu khi mới 25 tuổi, nhấn mạnh điều thường ít được nhắc tới là sự phản đối của phía VNCH trước khi ký kết Hiệp định hoà bình Paris năm 1973. Bài viết của cựu Viện trưởng Học viện Cảnh sát Quốc gia Trần Minh Công gợi mở nhiều chủ đề hay mà còn bỏ ngỏ về đội ngũ cảnh sát phục vụ như một lực lượng bán quân sự và gìn giữ hoà bình. Cố Trung tá Bùi Quyền bàn về một vấn đề thường bị bỏ qua trong những sách vở về chiến tranh của Hoa Kỳ, đó là tiếng nói của Quân lực VNCH phê phán những cố vấn Mỹ đã “gây áp lực mạnh mẽ” hoặc “ra lệnh thay vì hỗ trợ” đồng minh VNCH (tr. 90). Cuốn tuyển tập đặc biệt có sự góp mặt của những cây viết nữ với nhiều chủ đề thú vị mà chưa có nhiều quan tâm nghiên cứu, như nhà giáo Võ Kim Sơn đề cập tới hệ thống trường Quốc gia Nghĩa tử; phóng viên chiến trường Vũ Thanh Thuỷ tha thiết với những trăn trở trong công việc và sứ mệnh của nhà báo trong thời chiến; nhà văn Trùng Dương kể chuyện điều hành tờ báo Sóng Thần “không giao nộp mình mà chống lại chính phủ” (tr. 140) cho một nền báo chí tự do; nhà văn Nhã Ca gợi nhắc một thời văn học nghệ thuật nở rộ muôn màu muôn vẻ; và diễn viên Kiều Chinh điểm qua những khởi sắc của nền điện ảnh VNCH.

Một cuộc hội thảo hai ngày tổ chức trong khuôn khổ một trường đại học không thể bao trọn được hết những chủ đề phong phú trong lịch sử VNCH (chẳng hạn như những câu chuyện của những tín đồ tôn giáo hay những sắc dân thiểu số sinh sống ở những vùng miền khác nhau), nhưng một tuyển tập như cuốn Việt Nam Cộng Hoà, 1955-1975: Kinh Nghiệm Kiến Quốc này chắc chắn sẽ góp phần gợi mở nhiều nghiên cứu về VNCH trong tương lai, giống như cách cuộc hội thảo ở Đại học California-Berkeley đã trở thành tiền đề cho những diễn đàn nối tiếp tại Đại học Oregon vào tháng 10 và Đại học Haverford vào tháng 11 năm 2019. Dù ban biên tập có chủ ý giữ nguyên trạng những bài viết đúng theo hồi tưởng của các tác giả, có lẽ một số bài viết cần được hỗ trợ cụ thể hơn để các chương sách đều có được sự cân bằng giữa những phần giới thiệu chung về ngành nghề và những trải nghiệm cá nhân. Tập sách không dày nhưng đã bao quát khá toàn cảnh đời sống chính trị, xã hội, văn hoá VNCH với sự phát triển nhanh chóng trong nhiều lĩnh vực, với hình ảnh những con người đích thực đã từng nỗ lực không ngừng nghỉ để vượt qua thử thách và đạt nhiều thành tựu đáng kể. Cuốn sách là một nguồn tư liệu tham khảo hữu ích cho công tác nghiên cứu và giảng dạy lịch sử, cũng là một tác phẩm quan trọng cho các thế hệ sinh viên tìm hiểu về lịch sử Việt Nam và cho những độc giả mong muốn hiểu biết sâu sắc hơn về đất nước và con người VNCH.
Nguyễn Dịu Hương
song  
#3 Đã gửi : 25/01/2022 lúc 05:12:51(UTC)
song

Danh hiệu: Moderate

Nhóm: Registered
Gia nhập: 21-02-2012(UTC)
Bài viết: 24,236

Cảm ơn: 1 lần
Được cảm ơn: 2 lần trong 2 bài viết
Kinh Nghiệm Kiến Quốc Trong Thời Chiến Của Việt Nam Cộng Hoà, 1955-1975

UserPostedImage
Bìa trước của tuyển tập “Kinh nghiệm kiến quốc,” bản tiếng Anh và Việt.

Tổng thống Kennedy có lần đã nói: “Chiến thắng có cả trăm ông cha và thất bại trở thành mồ côi” (Victory has a hundred fathers and defeat is an orphan). Người Việt Miền Nam, dù lưu vong hay còn ở quê nhà, thẩy đều đã trở thành “mồ côi.” 
 
Nhiều thập niên qua, chúng ta đã sống trong thầm lặng, chịu đựng bị hiểu lầm, cố gắng dồn mọi nghị lực vào việc xây dựng lại đời sống trên mảnh đất quê hương thứ hai, nuôi dậy con cái, vun sới gia đình, và có một dạo còn cung cấp cho người thân, bằng hữu còn kẹt lại sống thiếu thốn mọi sự. Vào giờ rảnh rỗi và dịp cuối tuần, chúng ta tập hợp nhau, người bàn chuyện quang phục quê hương; kẻ nói chuyện bảo tồn lịch sử và văn hóa đã và đang bị cộng sản tàn phá, hủy hoại ở quê nhà --cũng là một hình thức quang phục quê hương khi các giá trị dân tộc và nhân bản đang trên đà thoái hóa nơi quê nhà. Những hoạt động này đã giúp nối kết người Việt hải ngoại không chỉ ở Mỹ mà còn ở khắp thế giới lại với nhau.
 
Các nỗ lực bảo tồn văn hóa và lịch sử của người Việt hải ngoại thường nhỏ giọt, riêng lẻ, phần lớn do cá nhân bỏ tiền túi ra thực hiện. Thảng hoặc, có những trường hợp nhận được tài trợ như nhà văn Võ Phiến được một tổ chức nghiên cứu khoa học xã hội tài trợ đi sưu tầm tài liệu và thực hiện bộ “Văn Học Miền Nam Tổng Quan” vào đầu thập niên 1980. Dù vậy, kết quả của những nỗ lực này phải nói là phong phú, xuất hiện dưới hình thức sách báo, băng đĩa nhựa, hình ảnh, bầy bán khắp nơi. Những tác phẩm bị cộng sản cấm đoán, tịch thu, đốt hủy cũng đã được chụp và tái bản ở hải ngoại, ngay cả những bộ sách của thời tiền chiến được tái bản ở Miền Nam trước 1975 cũng theo chân chúng ta ra hải ngoại. Và hồi ký đủ loại đề tài phong phú của nhiều người viết thuộc mọi thành phần trong và ngoài nước, đặc biệt là các hồi ký của nhiều người đã từng là đảng viên cộng sản nay tỉnh ra. Từ ngày kỹ thuật Internet ra đời cách đây 25 năm, sinh hoạt văn hóa này càng nở rộ (*). Dù vậy, các ấn phẩm vẫn chỉ thu hẹp phần lớn trong phạm vi tiếng Việt, hạn chế đối với các thế hệ trưởng thành hoặc sinh ra và lớn lên ở hải ngoại.
 
Gần ngày kỷ niệm 45 năm ngày 30 tháng 4, đánh dấu ngày Miền Nam bị bức tử, tôi nhận được tập sách từ lâu trông đợi và cuối cùng đã tới tay. Đó là tuyển tập “The Republic of Vietnam, 1955-1975 – Vietnamese Perspectives on Nation Building,” bàn về công cuộc kiến quốc của Việt Nam Cộng Hòa, do Vũ Tường, giáo sư ngành chính trị học tại Đại học Oregon, và Sean Fear thuộc Đại học Leeds, Anh Quốc, biên soạn và nhà xuất bản Cornell University Press ấn hành. Đây là một tập hợp các bài thuyết trình tại cuộc hội thảo hai ngày Symposium Nation-Building in War: The Experience of Republican Vietnam, 1955-1975, diễn ra tại Đại học Tiểu bang California ở Berkeley cách đây vài năm, do một nhóm giáo sư trẻ gốc Việt tổ chức.(**)


Và sau nhiều năm chờ đợi, bản Việt ngữ tập sách cuối cùng đã được ra mắt, do nhà xuất bản Văn Học Press duới sự điều hành của dịch giả Trịnh Y Thư thực hiện.

*
 
Các tác giả trong tập “Kinh nghiệm kiến quốc” gồm các cựu viên chức, giáo sư, chiến binh, ký giả, và văn nghệ sĩ của một thời Miền Nam, nay đã trên dưới 80. Họ chia sẻ kinh nghiệm của một thời trẻ trung đầy lý tưởng, nhiệt huyết trong công cuộc xây dựng tân quốc gia Việt Nam Cộng Hòa “như một quốc gia họ kỳ vọng trong trí tưởng với tất cả thiết tha, chứ không phải là một công cụ chính trị của chính phủ Mỹ,” theo các chủ biên trong bài giới thiệu tuyển tập.
 
Đó là các lời chứng về chiến tranh, chính trị, kinh tế và đời thường của người dân thuộc mọi tầng lớp trong thời Đệ nhị Cộng hòa giữa bầu không khí sôi sục của trận chiến mà người Mỹ quen gọi là Chiến tranh Việt Nam. Khác với quan niệm phổ biến tại Mỹ do ảnh hưởng tuyên truyền của cộng sản, là chính phủ VNCH là bù nhìn của Mỹ, tập sách “cho thấy cuộc xung đột tại Việt Nam là một phân chia ý thức hệ giữa cộng sản bắc phương và phe không cộng sản Miền Nam, chứ không chỉ là cuộc chiến ủy quyền trong thời Chiến tranh Lạnh,” như các tài liệu đã giải mật cho thấy việc cộng quân đã được cộng sản quốc tế hỗ trợ như thế nào bên cạnh quyết tâm của người cộng sản đưa VN vào quỹ đạo ngoại bang này.
 
Tôi phải nhìn nhận là cho tới gần đây, ký ức về công cuộc xây dựng đất nước thời cộng hoà của tôi chỉ thu gọn vào môi trường tôi có thể tạm cho là mình biết nhiều nhất, đó là văn học nghệ thuật. Tập sách “Kinh nghiệm kiến quốc” đã cho tôi một cái nhìn toàn diện về các công cuộc phát triển và tiến bộ khác trong công trình xây dựng đất nước trên bình diện qui mô. Khó mà có thể tưởng tượng tất cả chỉ diễn ra trong vòng 20 năm, và trong một bối cảnh chiến tranh khói lửa đầy chết chóc tang thương.
 
Qua năm phần chính – phát triển kinh tế, chính trị và an ninh, giáo dục, báo chí và truyền thông, và văn hóa và nghệ thuật – chia thành 17 chương, người đọc có dịp tham dự hàm thụ công cuộc dựng nước gian nan song đầy hào hứng, phấn khởi. Trong phần thứ nhất về phát triển kinh tế (Chương 1-4),các ông Vũ Quốc Thúc (giáo sư luật học), Nguyễn Đức Cường (cựu bộ trưởng Thương mại kỹ nghệ), Phạm Kim Ngọc (cựu bộ trưởng Kinh tế), và Cao Văn Thân (cựu bộ trưởng nông nghiệp và cải cách ruộng đất) thay phiên nhau trình bầy kinh nghiệm xây dựng hệ thống ngân hàng, tiền tệ còn phôi thai và chịu ảnh hưởng nặng nề của thời Pháp thuộc, cùng công cuộc phát triển kinh tế quốc gia, và đặc biệt là chương trình cải cách ruộng đất khá thành công thời đệ nhị Cộng hòa, qua chương trình Người Cầy Có Ruộng áp dụng vào năm 1970 nhằm mua lại đất ruộng của các đại điền chủ, phân phát và sang tên cho nông dân.
 
Chương 5-7 bàn về chính trị và an ninh, qua đó, cựu phát ngôn viên chính phủ Hoàng Đức Nhã chia sẻ kinh nghiệm tham dự các cuộc điều đình đã dẫn tới Hiệp định Paris 1973; ông Trần Minh Công, cựu đại tá giám đốc Tổng nha Cảnh sát, bàn về những thách thức trong việc gìn giữ an ninh trong bối cảnh cuộc chiến tranh du kích; và ông Bùi Quyền, cựu trung tá quân lực VNCH, tâm sự về những suy nghiệm trong vai trò người lính tiền tuyến, và chia sẻ phẩm định của ông về quân đội Cộng hòa, và kinh nghiệm làm việc với các cố vấn quân sự Mỹ.
 


Lãnh vực nào cũng đầy thông tin quan trọng và hữu ích cho một công cuộc tái xây dựng một Việt Nam nhân bản, khai phóng và tiến bộ trong tương lai. Song một trong các lãnh vực lôi cuốn tôi nhất là giáo dục vì đó chính là nền tảng cho sự phát triển vững bền và lâu dài. Trong hai chương 8 và 9, hai nhà giáo dục Nguyễn Hữu Phước và Võ Kim Sơn thay phiên nhau trình bầy về nền giáo dục của VNCH dựa trên nền tảng nhân bản, dân tộc và khai phóng – tôi không khỏi hình dung tới chiếc kiềng ba chân vững vàng trong bếp của người Việt xưa. Miền Nam đã nhận được sự tiếp tay của nhiều trường đại học tại Mỹ, trong đó có Đại học Tiểu bang Michigan giúp tái tổ chức và điều hành các hệ thống công lập; Đại học Nam Tiểu bang Illinois giúp huấn luyện các giáo viên tiểu học; Đại học Ohio trong việc thiết lập hệ thống Trung học Tổng hợp; và Đại học Wisconsin/Stevens Points tiếp tay khai triển hệ thống giáo dục cao cấp.
 
Kết quả là sau 20 năm dù ngắn ngủi xây dựng đất nước, VNCH đã thiết lập và phát triển được nhiều cơ sở giáo dục như các trường trung học tổng hợp, hệ thống đại học cộng đồng, hệ thống trắc nghiệm và thẩm định, và các đại học huấn luyện giáo chức. Trừ vô số các trường do tư nhân đứng ra thiết lập khắp nơi ở Miền Nam, còn tất cả các trường công, từ tiểu học tới đại học, hoàn toàn miễn phí. Gần đây trên Internet, tôi thấy xuất hiện những bài viết rất cảm động nói lên niềm tiếc nuối đối với hệ thống giáo dục của Miền Nam. Điển hình là bài khá dài và chi tiết, tựa là “Nhìn lại nền Giáo dục VNCH: Sự tiếc nuối vô bờ bến,” về hệ thống giáo dục của Miền Nam.(***) Nhiều người trẻ trong nước cũng đã bầy tỏ niềm nuối tiếc đã không được lớn lên trong môi trường đó.
 
UserPostedImage
Một cuốn sách dậy địa lý cho học sinh lớp ba, do Bộ Văn hóa và Giáo dục ấn hành khoảng
thời Đệ nhất Cộng Hòa. Trái, bìa trước của sách; giữa, hai trang trong của sách; và trái,
bìa sau của sách, với hàng chữ: “Dân chúng Hoa Kỳ hợp tác với Bộ Văn hóa và Giáo dục
của Việt Nam Cộng Hòa thân tặng các Trường Sở tại Việt Nam,” và bên dưới: “Sách này
tặng, không bán.”
                     
Nhờ nền giáo dục phổ biến và phần lớn miễn phí, số học sinh, sinh viên gia tăng, nhu cầu sách vở cũng nhờ vậy mà tăng trưởng, tiếp tay đẩy mạnh các sinh hoạt văn hoá khác, trong đó có các ngành thuộc văn học nghệ thuật và báo chí.
 
Trong các Chương 10-13, ba nhà báo Phạm Trần, Vũ Thanh Thủy và Trùng Dương chia sẻ kinh nghiệm của mình. Trong khi ông Phạm Trần thảo luận tổng quát về nền tảng pháp lý của ngành truyền thông và sinh hoạt báo chí trong đó điểm nổi bật là đại đa số báo do tư nhân làm chủ và tự tài trợ, khác với trong chế độ cộng sản; thì Trùng Dương kể về cuộc đấu tranh cho đệ tứ quyền, đó là quyền tự do báo chí và quyền kiểm điểm việc làm của chính quyền – điều không thể xẩy ra trong một xã hội cộng sản. Đặc biệt là cựu phóng viên chiến trường Vũ Thanh Thủy chia sẻ kinh nghiệm tường thuật từ tuyến đầu độc đáo của mình, đồng thời phơi bầy sự thiếu sót và không chuyên nghiệp của các ký giả ngoại quốc mà chị gặp trong khi hành sự, song chính họ lại là những người có ảnh hưởng lớn tới dư luận của quần chúng Mỹ về cuộc chiến tại Việt Nam.
 
Trong Chương 14, nhà văn Nhã Ca, tác giả “Giải khăn sô cho Huế” và nhiều cuốn tiểu thuyết khác, mô tả linh động cảnh trăm hoa đua nở rực rỡ chưa từng có trong lịch sử văn học Việt Nam – sự rực rỡ đã bị cộng sản bóp chết khi họ chiếm được Miền Nam, như họ đã làm với phong trào Nhân Văn Giai Phẩm vào giữa thập niên 1950. Nữ diễn viên Kiều Chinh, một khuôn mặt quen thuộc của ngành điện ảnh không chỉ ở Miền Nam mà còn tại thủ đô điện ảnh Hollywood, đưa người đọc duyệt qua sự phát triển đầy hứng khởi của ngành điện ảnh của Miền Nam ở Chương 15.
 
Và cuối cùng, kết thúc tập “Kinh nghiệm kiến quốc,” trong Chương 16 và 17, là cái nhìn của hai người trẻ,  Nữ-Anh Trần thuộc Đại học Connecticut và Tuấn Hoàng thuộc Đại học Pepperdine, về sự cần thiết kể lại kinh nghiệm cá nhân của các vị lớn tuổi trong cộng đồng Việt đã sống qua thời cộng hòa để đóng góp vào kho ký ức lịch sử Hoa Kỳ.
 
Cuộc chiến tại Việt Nam hiển nhiên “không chỉ là cuộc chiến ủy nhiệm,” các chủ biên tuyển tập kết luận. “Cuộc tranh chấp cộng sản/cộng hòa tại Việt Nam không thể hóa giải này đã tồn tại ngay cả trước khi quân đội Mỹ vào tham chiến, và nó tồn tại tới ngay cả bây giờ trong cộng đồng Việt trên khắp thế giới. […] Với nguồn gốc lịch sử và ý thức hệ sâu xa của cuộc nội chiến tại Việt Nam, bên cạnh vai trò quan trọng của Miền Nam trong việc khuôn đúc nên kết quả, ta không thể tiếp tục tảng lờ mà không kể tới ảnh hưởng của di sản cộng hòa trên nguồn gốc và hậu quả của cuộc chiến.”
 
Tuyển tập “Kinh nghiệm kiến quốc” bản Anh ngữ hiện có bán tại Amazon.com và tại Web site của Cornell University Press tại cornellpress.cornell.edu, giá $24.95. Ấn bản Việt ngữ ra mắt vào mùa thu năm 2021. Bản Việt ngữ, dầy 334 trang, hiện có bán trên Barnes & Noble, giá ấn phí US$20, xin bấm vào đường dẫn:

Viet Nam Cong Hoa Kinh Nghiem Kien Quoc by Tuong Vu, Sean Fear, Paperback | Barnes & Noble® (barnesandnoble.com)

Trùng Dương/Việt Báo
______________
Chú thích:
 
(*) Trùng Dương, “Nhân bộ báo Sóng Thần ‘tái xuất’ trên Mạng, duyệt qua các trang mạng sách báo Miền Nam,” https://damau.org/69949/...g-mang-sach-bao-mien-nam
 
(**) Trùng Dương, “UC Berkeley Nhìn Lại 20 Năm VNCH Xây Dựng Quốc Gia Trong Thời Chiến, ” kỳ 1, https://damau.org/44777/...thoi-chien-ky-12;và kỳ 2, https://damau.org/44805/...a-trong-thoi-chien-ky-22
(***) Huỳnh Minh Tú, “Nhìn lại nền Giáo dục VNCH: Sự tiếc nuối vô bờ bến,” https://tuxtini.com/2013...-su-tiec-nuoi-vo-bo-ben/[TD2020/04]
 
Ai đang xem chủ đề này?
Guest
Di chuyển  
Bạn không thể tạo chủ đề mới trong diễn đàn này.
Bạn không thể trả lời chủ đề trong diễn đàn này.
Bạn không thể xóa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể sửa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể tạo bình chọn trong diễn đàn này.
Bạn không thể bỏ phiếu bình chọn trong diễn đàn này.

Powered by YAF.NET | YAF.NET © 2003-2024, Yet Another Forum.NET
Thời gian xử lý trang này hết 0.284 giây.