VIDEO Trung Tá Lê Hưng, một ngày Không Quân, một đời Không Quân WESTMINSTER, Californina (NV) – Để thỏa mộng hải hồ tung cánh thép, chàng thanh niên phố biển Lê Hưng như bao chàng trai khác đã từ giã đời học sinh trường College Francais de Nha Trang, để gia nhập Quân Chủng Không Quân Việt Nam Cộng Hòa. Ông là một trong số ít phi công trẻ của Không Lực Việt Nam Cộng Hòa sau 1975 khi qua Mỹ trở thành phi công của Hải Quân Hoa Kỳ.
Trong những ngày Hè yên tĩnh tại công viên Bowling Green, Westminster, cựu Trung Tá Lê Hưng (Henry Le) hào hứng kể với phóng viên nhật báo Người Việt về đời phi công của mình.
Ông cho biết sau lớp đệ tứ, mỗi khi tan trường về ngang qua phi trường Nha Trang, nhìn thấy những chiếc phi cơ khu trục của Không Quân Việt Nam Cộng Hòa lên xuống, những cánh thép cùng tiếng động cơ gầm rú, hình ảnh những chàng trai trẻ phi công trong những bộ đồ bay… đã để lại những ấn tượng đẹp khó quên trong đời, và chàng trai trẻ cảm thấy yêu đời phi công từ dạo ấy.
Đường vào nghiệp bay của phi công Lê Hưng
Thời điểm năm 1972, chiến tranh Việt Nam lên cao độ với Mùa Hè Đỏ Lửa, khi Cộng Sản đẩy mạnh tấn công trên toàn miền Nam, chiến sự ngày đêm khốc liệt càng tăng thêm khí thế cho thanh niên gia nhập quân đội, bao lớp trai hùng xếp bút nghiên theo tiếng gọi non sông lên đường cứu nước, trong đó có Lê Hưng.
Ông kể rằng với tình yêu không gian bao la cùng cánh chim trời bay bổng, nên ông quyết chí thi vào Không Quân. Lúc đó hơn trăm người ghi danh nhưng sau đợt tuyển chọn chỉ còn lại khoảng 10 người đủ tiêu chuẩn, trong đó có ông.
“Trong thời gian huấn nhục và học quân sự tại Nha Trang, phải ‘lột xác’ để chuẩn bị trở thành một sinh viên sĩ quan. Sau đó tôi vào Sài Gòn để tham gia dự tuyển, chọn người có đủ trình độ Anh văn sẽ được đi Mỹ liền, tôi may mắn đi ngay đợt đầu năm 1973, số còn lại phải qua kỳ thi đủ điểm Anh văn mới được đi,” ông Hưng cho biết.
Ông cho biết khi qua Mỹ, phải học thêm tiếng Anh cao cấp hơn trong khoảng sáu tháng tại Trường Sinh Ngữ Lackland, San Antonio, Texas, sau đó mới chuyển qua phi trường Hondo, Texas, để học bay T41, là loại phi cơ cánh quạt để huấn luyện bay căn bản và được thụ huấn phần giai đoạn đầu.
Tân Thiếu Úy Lê Hưng
(hàng đầu, thứ năm, từ trái) tại lễ tốt nghiệp Thiếu Úy Hải Quân Hoa Kỳ tại căn cứ Hải Quân Pensacola, Florida, năm 1982. (Hình: Văn Lan/Người Việt chụp lại)
Ông kể: “Người Việt thời trước khi qua Mỹ học lái máy bay, đa số chưa biết lái xe hơi, thành ra chưa có cơ hội ngồi trên một vật thể lớn và điều khiển nó. Đó là trở ngại rất lớn đối với sinh viên phi công học lái máy bay thời bấy giờ, vì chính những hồi hộp lo ngại ấy làm giảm đi những cơ hội học và phát triển kỹ năng lái máy bay lúc đầu rất nhiều, bị ói mửa và nhiều thứ khác nữa.”
“Tôi may mắn lúc ở Việt Nam, hồi 12 tuổi đã được ba tôi dạy lái xe và lúc 17 tuổi đang nghỉ Hè đã lái xe cần cẩu lớn cho hãng thầu RMK của Mỹ, từng điều khiển những xe cơ giới hạng nặng rồi, thành thử lái máy bay cũng không khó, và tôi là một trong những người được bay solo đầu tiên,” ông Hưng kể tiếp.
Ông cho hay: “Sau đó tôi được thuyên chuyển qua căn cứ Không Quân Webb Air Force Base, Big Spring, Texas, để học bay phản lực đầu tiên, là phi cơ phản lực Cessna T-37 Tweety Bird trong khoảng sáu tháng. Và tôi cũng là một trong hai người đỗ thủ khoa trong khóa này. Lúc đó những người thủ khoa sẽ được tiếp tục học bay phản lực T-38 rồi sẽ bay F5, mạnh và tối tân hơn các loại chiến đấu cơ thời bấy giờ.”
“Rất tiếc khi tôi mãn khóa, Quốc Hội Hoa Kỳ đã cắt viện trợ cho Không Quân Việt Nam khoản tài trợ để học bay F5, thành ra tôi phải trở về nước vào Tháng Tám, 1974. Từ đó tôi chuyên lái phản lực A37, là loại oanh tạc cơ hạng nhẹ, rất hữu hiệu trong chiến trường Việt Nam,” ông kể tiếp.
Ông Hưng bồi hồi nhớ lại những ký ức xưa, đến nay đã gần nửa thế kỷ: “Khi tôi đang học bay tại Webb AFB, Texas, sau khóa học, tôi là một trong những phi công xuất sắc, được ông đại tá chỉ huy trường làm lễ gắn cánh tốt nghiệp. Với cảm tình riêng, ông nói với tôi ‘Nước Việt của anh sắp mất rồi, nếu muốn ở lại thì sẽ được giúp đỡ!’ Đó là dấu hiệu báo cho tôi biết vận mệnh của đất nước mình, nhưng tôi vẫn quyết định về nước.”
“Sau khi về trình diện Bộ Tư Lệnh học điều chỉnh sĩ quan, tôi trở thành Thiếu Úy phi công thuộc Không Lực Việt Nam Cộng Hòa, phục vụ tại Phi Đoàn Thiên Sứ 546, bay A37 tại Vùng IV Chiến Thuật, thuộc phi trường Trà Nóc, Cần Thơ. Tôi mới về nước, chưa đủ thời gian huấn luyện ở chiến trường, thì tới ngày 30 Tháng Tư, 1975,” ông Hưng nói.
Bài viết nhiều kỳ “Escape to U Taphao” trên tạp chí Air & Space của Mỹ năm 1997, viết về phi công Lê Hưng trên chiếc A37 và rất nhiều phi cơ Không Quân Việt Nam Cộng Hòa di tản qua Thái Lan, ngày 30 Tháng Tư, 1975. (Hình: Văn Lan/Người Việt chụp lại)
“Ngày 29 Tháng Tư 1975, phi trường Tân Sơn Nhất bị pháo kích nặng nề, tôi tìm cách vô phi đoàn để biết tình hình nhưng không vào được. Khi vào được, tôi cùng Đại Tá Vượng bay thẳng qua căn cứ Utapao Thái Lan ở đó một đêm, hôm sau quân đội Hoa Kỳ cho phi cơ vận tải C141 chở mọi người qua Guam rồi đến Mỹ, từ đó không còn cơ hội để trở về nước nữa. Lúc ấy tôi là một sĩ quan trẻ, rất ấm ức vì mình có một lực lượng quá mạnh lại bị thua trận một cách vô lý, chỉ qua lệnh buông súng ngưng chiến đấu của Tổng Thống Dương Văn Minh,” ông bày tỏ.
Ông Hưng kể: “Khi cất cánh lên từ phi trường Tân Sơn Nhất, chúng tôi không biết phải đi đâu, nhưng khi bắt được sóng phát thanh kêu gọi mọi phi công lái máy bay có cánh thì bay đến Utapao, còn trực thăng thì bay ra hạm đội hàng không mẫu hạm Mỹ đang ở ngoài khơi.”
“Lúc đến phi trường Utapao, tôi không ngờ thấy rất nhiều phi cơ mình bay qua đó, lúc ấy tôi vẫn cứ nghĩ rằng mình qua ở tạm Thái Lan rồi sẽ trở về nước tiếp tục chiến đấu. Nhưng ai ngờ đâu đó là chuyến đi cuối cùng, phải bỏ nước ra đi!” giọng ông chùng xuống.
Trung Tá phi công Hải Quân Hoa Kỳ, ông Lê Hưng trong diễn hành Tết 2003 tại Little Saigon, miền Nam California. (Hình: Văn Lan/Người Việt chụp lại)
Quyết vào được Không Quân Hoa Kỳ
Những cánh chim sắt bay vun vút trên bầu trời, những con tàu khổng lồ lướt sóng đại dương, những trận chiến giữa Không Quân và Hải Quân, những hình ảnh ấy làm thêm mê hoặc khiến ông bước vào đời Không Quân thuộc Hải Quân Hoa Kỳ sau này.
Ông Hưng cho biết thời trai trẻ ông mê đọc những sách nói về Không Quân, những trận đánh quyết tử trên không của Phi Đoàn Thần Phong Nhật Bản, cùng những hình ảnh Hải Quân Hoa Kỳ thời Đệ Nhị Thế Chiến với những con tàu đồ sộ trên biển khơi, làm tăng thêm sức quyến rũ ông trở thành một phi công. Lại thêm những hình ảnh hải quân oai hùng, hơn nữa anh của ông cũng là một thiếu úy phi công của Không Quân Việt Nam Cộng Hòa, lại càng thôi thúc tăng thêm giấc mộng hải hồ.
Ông cho biết vừa đặt chân tới Mỹ, ông phác họa ngay một kế hoạch để học lại Không Quân Hoa Kỳ, trong đó phải đáp ứng nhiều điều kiện bắt buộc như không được quá số tuổi quy định, phải đầy đủ sức khỏe, phải có bằng đại học, và nhiều điều kiện khác. Lúc đó là cả một giai đoạn khá cam go, nhất là khi phải đi học lại bốn năm đại học để lấy bằng kỹ sư cơ khí.
“Đến Mỹ vào Tháng Năm, 1975, tôi chỉ là một phi công trẻ, chưa được tham dự nhiều trong cuộc chiến Việt Nam, nhưng lúc đó với sự hăng say cùng lòng nhiệt huyết với đất nước, tôi nghĩ mình phải trở lại trong ngành Không Quân, phải bay lại trong màu cờ Quân Chủng Không Quân Hoa Kỳ, để đến lúc đất nước Việt Nam cần, mình sẽ trở về phục vụ. Đó là suy nghĩ rất đơn sơ ban đầu là như vậy!” ông cho biết.
Ông Lê Hưng (thứ tư, phải) cùng các phi công Việt Nam Cộng Hòa trong Câu Lạc Bộ Phi Hành vào ngày phi diễn Tết 1994 tại phi trường Long Beach, California. (Hình: Văn Lan/Người Việt chụp lại)
Việc bắt liên lạc nơi ông đã học Không Quân từ trước 1975 được tiến hành, và những vị thầy của ông đã đồng ý giúp cho ông có việc làm ngay tuần lễ sau đó để trở lại cuộc sống bình thường.
“Ngay lập tức, tôi ghi danh tại trường đại học Texas Tech University, tiểu bang Texas, để không bỏ mất cơ hội và thời gian với quyết tâm phải có bằng cấp nơi xứ Mỹ. Sẵn có đầu óc về kỹ thuật và những sáng chế phát minh từ xưa, tôi bắt tay vô ngay những học trình và tự tin mình sẽ thành công trong bốn năm đại học. Thuở nhỏ ở Nha Trang, gia đình ở trong cư xá của Ty Công Chánh, tôi đã có dịp làm quen với các loại máy cơ khí và từng làm ra những vật dụng như máy bắn cá và những thứ khác, nên khi qua Mỹ tôi thấy những máy móc này rất quen thuộc, và dùng nó để sáng chế nhiều món cũng rất dễ,” ông Hưng cho biết thêm.
Ông kể, công xưởng của Mỹ vào thời điểm đó hãy còn thô sơ, họ còn tận dụng nhiều năng lực nhân công thay vì phải dùng máy móc. Với suy nghĩ sau khi tốt nghiệp kỹ sư cơ khí, công việc ông sẽ làm là một kỹ sư chuyên nghiệp, mặc dù hiện chưa có bằng cấp nhưng với những say mê sáng chế máy móc cho công ty đang làm việc khiến ông rất tự tin.
Ông rất hào hứng khi nói với ông chủ rằng ông có thể vẽ kiểu những máy móc tự động cho công ty, ông chủ đồng ý ngay và cho ông thời gian để chứng minh khả năng. Quả thật sau đó ông đã thành công khi giao cho ông chủ những sáng chế kỹ thuật, với những máy móc tự động giúp giảm bớt nhân lực và tăng hiệu suất công việc lên rất nhiều.
“Khi tôi đưa những hình ảnh chi tiết rất tinh vi trên bản vẽ cho hãng, ông chủ rất hài lòng và hỏi có muốn để tên tôi trong bằng sáng chế phát minh không, và tôi trả lời rằng tôi chỉ muốn sự giúp đỡ của hãng trong thời gian học kỹ sư, để sau này tôi có thể trở lại quân đội. Thế là bốn năm đại học của tôi được sự tài trợ của hãng, không tốn đồng nào,” ông kể tiếp.
“Sau đó nguyên một nhà máy hoàn toàn tự động ra đời, đổi lại là những việc tôi làm khá vất vả. Những lúc ấy tôi luôn nghĩ tới bạn bè, những chiến hữu của tôi đang kẹt lại ở Việt Nam còn cực khổ hơn mình rất nhiều, khiến tôi cảm thấy phải cố gắng làm việc nhiều hơn nữa!” ông Hưng chia sẻ.
Ra trường kỹ sư ngày 22 Tháng Mười Hai, 1981, nhưng trước đó ông Hưng đã ghi danh vào Không Quân Hoa Kỳ với mơ ước trở thành phi công, ông nghĩ rằng khi đã có bằng phi công của Không Quân Hoa Kỳ, họ sẳn sàng chấp nhận mình. Nhưng lúc đó họ cho biết rất cần kỹ sư sáng chế trong Không Quân Hoa Kỳ hơn là muốn người phi công. Nhưng tôi lại từ chối, vì muốn đi bay hơn, dù họ cho biết có nhiều phi công rồi.
Trung Tá Phi Công Hải Quân Hoa Kỳ, ông Lê Hưng, kể chuyện chiến đấu cơ rượt đuổi trong các trận không chiến. (Hình: Văn Lan/Người Việt)
Không để mất thời gian nên ông liên lạc thẳng với Hải Quân Hoa Kỳ. “Tôi rất mừng khi biết vị trung tá tuyển mộ đã từng phục vụ tại chiến trường Việt Nam, thấy tôi hội đủ tất cả điều kiện khi đã là phi công Không Quân Việt Nam Cộng Hòa trước đó, và có bằng kỹ sư tại Mỹ, nhưng bắt buộc phải qua test IQ của hải quân, và tất cả những gì đã học được bên Không Quân Việt Nam Cộng Hòa đều không được chấp nhận vì có liên quan tới quân đội nước ngoài, vì vậy tôi phải ‘lột xác’ lại ngay từ đầu,” ông cho biết.
“Khi đã đạt mọi tiêu chuẩn bắt buộc, tôi đến trình diện tại trường huấn luyện phi công Hải Quân Hoa Kỳ tại Pensacola, Florida. Khi vô đó, tôi là người duy nhất từng là phi công trong Không Lực Việt Nam Cộng Hòa. Trong khóa học có tất cả 42 người Mỹ, chỉ có hai người da vàng, một người Hawaii và tôi là người Việt Nam. Ngày ra trường gần phân nửa bị loại, chỉ có 23 người tốt nghiệp, trong đó có một người Mỹ đen và một người da vàng là tôi. Khi ra trường tôi mang cấp bậc thiếu úy do tổng thống Hoa Kỳ ký tên,” ông Hưng tự hào kể lại.
Chương trình huấn luyện phi công Không Quân Hoa Kỳ và phi công Hải Quân Hoa Kỳ hoàn toàn khác nhau. Nếu thời gian học phi công ở Không Quân phải học bay T41, T-37 và T-38, thì khi tra trường, gắn cánh rồi, ông mới được chọn loại phi cơ để bay. Có ba loại máy bay để chọn tùy theo số điểm tốt nghiệp, từ loại chiến đấu phản lực, hoặc cánh quạt hay vận tải, rồi đến trực thăng.
Ông kể, còn ở Hải Quân phải chia theo ba giai đoạn huấn luyện từ sơ cấp, trung cấp và cao cấp. Lúc mới vô, nếu có kết quả điểm cao 4.0 sẽ được bay phản lực, nếu điểm 3.0 sẽ bay loại cánh quạt hay vận tải, điểm còn lại sẽ bay trực thăng, và những số điểm này sẽ theo suốt đời người phi công Hải Quân.
Ông Hưng cho biết vì loại máy bay cánh quạt T34 Mentor đời mới nên nhiều người thích học, nhưng phải chờ đợi hơn bốn tháng, trong khi bay T28 thì cũ hơn nên được học liền. Do đó ông chọn T28, giống như phi cơ A-1 Skyraider ở chiến trường Việt Nam khi xưa trước năm 1975, nên học sẽ rút ngắn, đỡ mất thời gian hơn.
Trung Tá Lê Hưng, người mặc hai màu áo Không Quân VNCH và Hải Quân Mỹ Trung Tá Hải Quân Hoa Kỳ Lê Hưng và phu nhân trong một buổi sinh hoạt cộng đồng. (Hình: Văn Lan/Người Việt chụp
WESTMINSTER, Californina (NV) – Được bay bổng trong không gian thỏa thích là giấc mơ thời trai trẻ, nay lại được cất cánh bay lên và đáp xuống hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ trong những phi vụ chiến đấu luôn là niềm đam mê cháy bỏng của phi công Lê Hưng.
Ngồi tại công viên Bowling Green, Westminster, cựu Trung Tá Lê Hưng (Henry Le) kể tiếp về con đường trở thành phi công lái phản lực cơ chiến đấu trong Hải Quân Hoa Kỳ với phóng viên nhật báo Người Việt.
Ông Hưng cho biết tại căn cứ Hải Quân Corpus Christi, Texas, ông được dùng T-28 để huấn luyện căn bản, cất cánh, đáp, bay solo, sau đó là những kỹ thuật bay đêm, bay từ chỗ này qua chỗ khác, từ đó họ sẽ biết mình có thể bay được loại máy bay nào.
“Với số điểm cao, tôi được bay loại phản lực T-2 Buckeye, tập không xạ trên không, tập thả bom, quan trọng nhất là tập đáp xuống hàng không mẫu hạm, đáp xuống có móc và trở lại giàn phóng, cứ sáu lần đáp xuống lại sáu lần phóng lên. Về kỹ thuật đáp xuống hàng không mẫu hạm, ngày xưa thì sàn tàu loại thẳng, nhưng rút kinh nghiệm ở Đệ Nhị Thế Chiến, theo thiết kế cũ thì mỗi khi có máy bay cất cánh thì chiếc khác sẽ không đáp xuống được,” ông nhớ lại.
Vì sự bất tiện này nên hàng không mẫu hạm loại mới sau này được thiết kế lại, muốn đáp xuống và cất cánh cùng lúc đều không bị trở ngại. Theo đó, phải thiết kế phi đạo trên sàn tàu theo góc xéo 10 độ, để khi máy bay đáp xuống thì con tàu vẫn chạy tới, giữa tàu và máy bay cùng chuyển động theo một hướng, tốc độ đáp của máy bay sẽ giảm.
“Nói nghe như vậy, nhưng con tàu thì luôn chạy tới, rung lắc nhấp nhô lên xuống theo sóng biển nên có thể giạt một góc nào đó mà người phi công phải biết giữ đúng đường đáp theo ba tiêu chuẩn quy định thì mới đáp được, nếu không thì phải cất cánh lên và đáp xuống trở lại lần nữa. Hơn nữa phải nhìn đèn lineup màu trắng nằm ở góc của tàu, nếu nằm trên màu xanh thì biết đang ở cao, còn nếu đèn trắng lineup ăn khớp với đèn màu xanh thì đúng góc độ, còn dưới đèn xanh là đèn đỏ, phi công nhìn thấy đèn đỏ là nguy hiểm cho độ rơi của máy bay,” ông Hưng kể về kỹ thuật đáp trên hàng không mẫu hạm.
Phi công Lê Hưng (hàng đứng, thứ ba, từ trái) đến thăm và ủy lạo các thuyền nhân Việt Nam trong trại tị nạn Bataan, Philippines, khi ông đang phục vụ tại căn cứ Subic Bay, Philippines năm 1984. (Hình: Văn Lan/Người Việt chụp lại)
Những nguy hiểm khi bay lên và đáp xuống hàng không mẫu hạm
Dù lên xuống hàng không mẫu hạm rất nhiều lần sau này, nhưng lần đáp xuống đầu tiên luôn để lại nhiều cảm giác ấn tượng khó quên nhất trong đời phi công. Ông kể một kỷ niệm vui: “Từ độ cao 800 ft trên trời nhìn xuống thấy sàn đáp quá nhỏ, ai cũng hồi hộp. Theo thói quen tôi đáp xuống theo kiểu Không Quân mình ngày xưa, đưa đầu máy bay lên cao (landing flare) để giảm sức rơi, đáp cho nhẹ. Thấy vậy người chỉ huy yêu cầu tôi bay lên liền, cảnh cáo nếu lần nữa còn bay như vậy sẽ bị học lại! Thế là phải bay vòng lại, đáp xuống an toàn, từ đó cứ thế đáp xuống nhẹ nhàng trăm lần như một!”
“Lần thứ hai khi bay lên thật thích thú vô cùng, khi phi cơ vọt mạnh về phía trước với vận tốc từ 0 cho đến 140 knots trong 2 giây mới đủ sức nâng cả chiếc máy bay cùng hàng tấn bom đạn và nhiên liệu bốc lên trời, lúc ấy mình cảm thấy nhẹ nhàng bay bổng lên trời cao, tưởng như phi hành gia khi phóng lên không gian,” ông mô tả lại cảm giác lâng lâng khi lần đầu cất cánh trên hàng không mẫu hạm.
Bay đêm cũng hồi hộp không kém khi đáp xuống, chung quanh tối đen chỉ còn đèn trên phi đạo, nhất là trong thời tiết xấu, tàu lên xuống nhấp nhô thì máy bay cũng khó đáp xuống. Trong trường hợp đáp bánh đã chạm sàn tàu, ông vẫn phải giữ ga thật lớn đề phòng trường hợp móc trật thì máy phản lực vẫn còn hoạt động, sẵn sàng bay vọt lên liền vì phi đạo quá ngắn, không có đủ thời gian khởi động máy để cất cánh như bình thường.
Ngoài ra ông còn phải học kỹ thuật tiếp xăng trên trời lúc đang bay cả ngày lẫn đêm, rồi kỹ thuật oanh tạc ném bom trên chiến trường, đánh không chiến trên không giữa ta và địch. Rồi còn phải học kỹ thuật đánh lừa hỏa tiễn của đối phương hoặc bị địch rượt đuổi. “Cả hai trường hợp đưa máy bay lên cao hoặc xuống thấp đều nguy hiểm, dễ bị rớt. Hoặc tránh né bằng cách đánh lừa hoặc phá tần số máy bay địch…” ông nói.
Thiếu Tá Hải Quân Hoa Kỳ Lê Hưng, hình chụp năm 1995. (Hình: Văn Lan/Người Việt chụp lại)
Phi công Lê Hưng đã từng phục vụ trên nhiều hàng không mẫu hạm thuộc Đệ Thất Hạm Đội, bay qua những chiến trường Iraq rồi vùng Ấn Độ Dương. Lúc đầu ông làm việc thuộc phi đoàn săn tìm tàu ngầm trong vùng Đông Nam Á từ năm 1984, đóng tại căn cứ Subic Bay, Philippines gần bốn năm. Rồi bay hoạt động ở vùng Đông Nam Á và Trung Đông, cứ bốn tháng ở Trung Đông thì bốn tháng ở vùng Biển Đông của Đông Nam Á, bay tuần từ đảo Hải Nam xuống tới Singapore.
“Cũng có những phi vụ bay tìm thấy những tàu của quốc gia Hồi Giáo tiếp tế cho Phi-Cộng vào những năm 1984-1988, nhất là lúc bay ngang qua quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, khi ấy chỉ là những đảo san hô hoang vắng, tuyệt nhiên không có bóng người. Khi đọc được những tài liệu cho thấy Trung Cộng đang chuẩn bị tiến hành xây dựng trên các đảo ấy, tôi có báo tin cho cộng đồng mình ở Little Saigon mà mọi người lúc đó không để ý lắm. Nhưng bây giờ lại là một chuyện quan trọng của đất nước mình! Thực tế hiện nay cho thấy rõ dã tâm của Trung Quốc muốn độc chiếm Biển Đông, vậy mình phải đối phó thế nào, đó là câu hỏi tôi luôn canh cánh bên lòng,” ông tự vấn.
Ông cho biết: “Tôi nghĩ đây là một kế nghi binh của Trung Cộng, thay vì chiến tranh ngay trong đất nước, họ kéo chiến tranh ra ngoài Biển Đông, dùng các đảo ngoài khơi để tạo xung đột, tránh thiệt hại bên trong nước Tàu nếu có xảy ra chiến tranh thật sự, luôn tiện chiếm luôn các đảo của Việt Nam để đặt căn cứ quân sự, theo dõi hoạt động của tàu bè các nước qua lại trên Biển Đông, khống chế luôn Việt Nam và các nước Châu Á. Nhất cử lưỡng tiện!”
“Nhưng tôi vẫn nói với bạn bè rằng đừng nghĩ rằng Mỹ sẽ đánh nhau với Tàu vì mấy cái đảo ấy, nếu có đánh Mỹ sẽ đập ngay đầu não trung ương, thì mấy cái đuôi biển đảo ấy không có ý nghĩa gì cả! Lúc ấy ai sẽ lấy lại Hoàng Sa và Trường Sa?” ông đặt câu hỏi.
Phi công Lê Hưng (trái) và chuyên viên kỹ thuật điện tử bên oanh tạc cơ A-6E, bay trong mọi thời tiết, trên hàng không mẫu hạm USS Nimitz. (Hình: Văn Lan/Người Việt chụp lại)
Cứu thuyền nhân Việt Nam trôi dạt 22 ngày trên biển
Lòng vẫn luôn nghĩ về đất nước và đồng bào nên những khi bay trên Biển Đông, phi công Lê Hưng hay để ý tìm kiếm những chiếc ghe vượt biển của thuyền nhân Việt Nam, để xem có thể giúp được gì cho họ.
Ông cho biết trên đại dương mênh mông cũng hiếm khi nhìn thấy thuyền vượt biển, và trong đời phi công bay trên vùng Biển Đông, ông đã phát giác và giúp được ba chiếc ghe vượt biển. Nhớ nhất trong đời là chiếc ghe tả tơi trên biển chở theo 72 người.
Ông kể lại: “Cuối phi tuần, khi nhiệm vụ đã xong, lúc chuẩn bị về thì tôi bay sà xuống thấp hơn vì chỉ muốn tìm giây phút thoải mái sau nhiều giờ bay liên tục, bỗng người chuyên viên điện tử báo cho biết có một vật gì trên mặt biển qua hệ thống ra đa. Sau khi vòng lại, tôi thấy một chiếc ghe nhỏ trôi lềnh bềnh, không có dấu hiệu cầu cứu gì cả, tôi nghĩ chắc có gì lạ, bèn thả thiết bị định vị tọa độ xuống và gọi tàu tuần đến xem xét.”
“Vừa khi trở về đáp xuống hàng không mẫu hạm, ông hạm truởng kêu tôi theo trực thăng bay đến chiếc tàu tuần vừa vớt người vượt biển, để nhờ làm thông dịch viên. Lúc đó tôi mới biết chính chiếc ghe tôi đã thả tín hiệu gọi tàu đến cứu là ghe vượt biển, nên đã cứu sống được nhiều đồng bào đang vật vờ trong tình cảnh hết sức thương tâm, có nhiều người yếu sức không đứng nổi,” ông nhớ lại.
Ông cho hay, trong lúc mọi người luôn van xin đừng trả họ về Việt Nam, ông phải trấn an rằng Hải Quân Hoa Kỳ sẽ lo về y tế và đời sống hiện tại cho mọi người, và họ sẽ được chính phủ Hoa Kỳ chăm sóc đầy đủ, sẽ được đưa vô trại tị nạn để cứu xét đi định cư.
Trung Tá Phi Công Hải Quân Hoa Kỳ Lê Hưng trong diễn hành Tết 2003 tại Little Saigon. (Hình: Văn Lan/Người Việt chụp lại)
“Chuyện xảy ra ngay ngoài khơi, khi mọi người chưa hết bàng hoàng, họ kể lại chuyến đi hãi hùng khi ra khơi được bốn ngày thì ghe bị chết máy, phải lênh đênh trên hải phận quốc tế suốt 22 ngày đêm. Sau đó chỉ còn 21 người còn sống, họ phải ăn thịt những người đã chết để cầm hơi, hy vọng sẽ được cứu, may mắn được cứu kịp lúc nếu không chắc chết hết! Thật là câu chuyện hết sức thương tâm trong chuyện dài thuyền nhân Việt Nam,” ông buồn rầu kể lại câu chuyện năm xưa.
“Đó là một kỷ niệm buồn trong đời phi công khi gặp lại đồng bào trong tình cảnh của người vượt biển. Buồn vì đất nước quá tang thương khiến người dân sống không nổi phải liều chết bỏ nước ra đi tìm tự do. Khi gặp tôi, họ tưởng tôi là người Mỹ, hỏi tôi sao nói tiếng Việt giỏi quá vậy,” ông kể.
Cuộc sống nơi miền đất mới
Đã nhiều năm sống đời tự do trên nước Mỹ, cựu Trung Tá Lê Hưng, phi công Hải Quân Hoa Kỳ bồi hồi nhớ lại mới đó mà đã 45 năm trôi qua, đã gần nửa thế kỷ sống và làm việc tại Hoa Kỳ, nơi ẩn chứa những cơ hội, phải luôn học hỏi và phấn đấu vươn lên.
“Người Việt Nam không thua kém bất cứ dân tộc nào, hãy luôn chứng tỏ năng lực tuyệt vời của mình trong bất cứ mọi điều kiện,” ông hãnh diện nói.
Kể về những sinh hoạt cộng đồng tại Little Saigon, cựu trung tá đã thành lập Câu Lạc Bộ Phi Hành, từng chở những em nhỏ bay theo những chuyến bay ngắn, để chỉ dẫn cho các em muốn trở thành phi công, kết quả là hiện nay có những em trẻ là phi công bay cho những hãng hàng không dân sự. “Hãy luôn chứng tỏ mình là người Việt Nam!” ông kêu gọi.
Ông từng tổ chức những buổi nhảy dù biểu diễn trên bầu trời Little Saigon, và chính ông từng lái máy bay kéo theo đại kỳ Việt Nam Cộng Hòa bay phất phới trong ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa 19 Tháng Sáu hằng năm, những dịp diễn hành Tết trên đại lộ Bolsa hoặc biểu tình chống Cộng Sản tại Little Saigon.
Trung Tá Hải Quân Hoa Kỳ, ông Lê Hưng (hàng đầu, thứ hai, từ phải) trong lễ kỷ niệm Ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa 19 Tháng Sáu, 2020, tại Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ, Westminster. (Hình: Văn Lan/Người Việt)
Ông cũng từng bay phi diễn với các phi công Việt Nam Cộng Hòa trong Câu Lạc Bộ Phi Hành để thả khói màu. Đặc biệt ông là người khởi xướng phong trào mặc quân phục Việt Nam Cộng Hòa trong những dịp lễ hội, mang lại sắc thái mới trong văn hóa người Việt tị nạn nơi hải ngoại, tiếp nối đến tận hôm nay.
Với thế hệ trẻ gốc Việt, ông có lời nhắn nhủ: “Những con em mình trong tương lai nếu muốn gia nhập Không Quân Hoa Kỳ, phải cố gắng học để trở thành một phi công trước khi vào quân đội, khi chứng minh có nhiều khả năng giỏi, sẽ được ưu tiên tuyển chọn hơn, nếu không mình sẽ bị thiệt thòi. Nên có một căn bản trước sẽ dễ tiến thân hơn.”
Trong đời phi công Hải Quân Hoa Kỳ, cựu Trung Tá Lê Hưng luôn tự hào khi chứng tỏ mình chưa bao giờ làm tổn hại đến danh dự của người sĩ quan thuộc Không Lực Việt Nam Cộng Hòa, luôn nêu cao tinh thần Tổ Quốc-Danh Dự-Trách Nhiệm khi bay qua nhiều vùng trời trên thế giới, và tình yêu Tổ Quốc-Không Gian luôn là kim chỉ nam của cuộc đời ông.
Ông Lê Hưng quê gốc Nha Trang, Việt Nam.
Cựu học sinh trường Collège Francais de Nha Trang và trường Kỹ Thuật Nha Trang.
Gia nhập Khóa Sinh Viên Sĩ Quan tại Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang hồi Tháng Bảy, 1972.
Qua Mỹ học Không Quân đầu năm 1973, tốt nghiệp thủ khoa trường phi hành tại căn cứ Webb Air Force Base, Big Spring, Texas, Tháng Tám, 1974.
Về nước 1974, thiếu úy phi công Không Lực Việt Nam Cộng Hòa lái phi cơ phản lực A37 thuộc Phi Đoàn 546 Thiên Sứ trong cuộc chiến Việt Nam.
Tháng Năm, 1975, trở qua Mỹ. Học và tốt nghiệp kỹ sư sáng chế trường đại học Texas Tech University, tiểu bang Texas, về ngành Mechanical Engineer vào Tháng Mười Hai 1981.
Gia nhập Quân Chủng Hải Quân Hoa Kỳ, bay trong các phi đội thuộc Đệ Thất Hạm Đội, 16 năm phục vụ trong Hải Quân Hoa Kỳ.
Phi công lái máy bay S-3B Viking chuyên săn tìm tàu ngầm trên vùng Biển Đông, Thái Bình Dương.
Phi công lái phản lực chiến đấu, oanh tạc cơ A-6E trên các chiến trường Trung Đông và Đông Nam Á.
Thiếu tá phi công Không Quân Hoa Kỳ năm 1992.
Trung tá phi công Hải Quân Hoa Kỳ năm 1997.
Về hưu, chuyên bay các loại phi cơ phản lực dân sự Hawker 900XP và Bombardier Challenger 605, chở khách VIP đi khắp thế giới.
Hiện đang sinh sống tại thành phố Garden Grove, miền Nam California.
Văn Lan/Người Việt