Khô héo lá gan cây đỉnh Ngự,
Đầy vơi giọt lệ nước sông Hương
Quê người đành gởi thân trăm tuổi
Cuộc thế mong gì nợ bốn phương!
(Thượng Tân Thị)
Mùa hè năm 1914 vua Duy Tân lại ra nghỉ mát ở Cửa Tùng. Lần này triều đình chỉ định quan thượng thư Bộ Học kiêm Cơ Mật Viện đại thần Hồ Đắc Trung theo hầu ngự. Năm này vua cũng vừa bước lên tuổi mười bốn. Hai hôm trước khi đi, vua nói với ông Trung:
– Năm nào đi nghỉ mát tôi cũng tắm, cũng bơi, cũng nằm phơi nắng trên cát một mình thật buồn tẻ quá. Nghe nói thầy có mấy người con trai cũng đang nghỉ hè, bảo họ đi chơi với tôi cho có bạn được không?
Ông Trung ngập ngừng:
– Đa tạ hoàng thượng đã chiếu cố đến đám trẻ của hạ thần. Chỉ sợ chúng quê mùa dốt nát chưa thông lễ nghĩa lỡ xúc phạm oai trời hạ thần lại mang tội.
– Thầy ngại cho con ra tắm biển có thể gặp chuyện nguy hiểm chứ gì? Chắc thầy chưa rõ Cửa Tùng là một bãi biển đẹp, mát mẻ và yên bình nhất ở Trung Kỳ? Người Pháp vẫn mệnh danh Cửa Tùng là Nữ hoàng của những bãi tắm (La Reine des plages) mà! Tắm và nghỉ ngơi ở đó tốt cho sức khỏe lắm. Thầy yên chí đi!
– Vậy xin phép hoàng thượng cho hai con trai của hạ thần là Hồ Đắc Điềm và Hồ Đắc Di cùng đi cho vui. Nếu chúng vụng về sơ sót điều gì xin hoàng thượng lượng thứ.
– Không sao. Điềm với Di chắc xuýt xoát tuổi tôi?
– Tâu vâng, chúng chỉ trội hơn hoàng thượng một hai tuổi!
– Quá tốt! Kế Điềm với Di còn người nào nữa không?
– Tâu, còn hai đứa. Nhưng lại đều là con gái.
– Chắc các em đều còn nhỏ?
– Tâu vâng. Một lên mười, một mười hai.
– Như vậy đâu còn nhỏ lắm? Thầy nên cho hai em đi chơi luôn để hai em vui chứ! Mọi thứ cần thiết tôi sẽ cho người lo giúp, thầy khỏi bận tâm.
– Tạ ơn hoàng thượng!
Khi nghe ông Trung thuật lại ý muốn của vua, mấy người con của ông đều vui mừng hớn hở. Chỉ có bà Trung lộ vẻ lo lắng nói với chồng:
– Đám con mình chưa bao giờ đi tắm biển. Ra đó lỡ gặp sóng gió bất thường hoặc rủi ro sa chân hụt cẳng ai lo cho?
Hồ Đắc Điềm trấn an mẹ:
– Mẹ khỏi lo chuyện đó. Con biết biển tắm Cửa Tùng không sâu và không bao giờ bị ảnh hưởng bởi các giòng hải lưu nguy hiểm. Nó như nằm trong một cái vịnh nhỏ được hai rặng đá ngầm thọc sâu ra biển là Mũi Si và Mũi Lai che chắn nên rất an toàn. Những khi biển có gió bão các tàu thuyền đánh cá còn có thể ghé vào neo ở đây để núp nữa mà! Bãi biển này cũng mát mẻ hơn các bãi biển khác ngay cả thời gian những cơn gió Lào gay gắt quạt lửa vào Quảng Trị hằng năm. Chính cánh rừng Rú Lịnh ở cách đó không xa đã giúp nguồn khí mát ở đây luôn được điều hòa. Mẹ cho anh em con đi một chuyến khi trở về mẹ sẽ thấy đứa nào đứa nấy hồng hào khỏe mạnh lên hết cho coi!
Cả Hồ Đắc Di lẫn hai cô em đồng loạt nói:
– Anh Điềm nói phải đó mẹ. Khí hậu ở Cửa Tùng rất tốt. Đi chuyến này trở về chúng con khỏe mạnh lên hết cho coi.
Thấy các con đều tha thiết muốn đi chơi, ông Trung quyết định:
– Thôi, được rồi, thầy mẹ bằng lòng cho cả bốn đứa đi. Nhưng đi với ngài ngự thì phải luôn giữ lễ, phải nói năng từ tốn, không được ham vui mà ồn ào. Dù cho ngài ngự có vui vẻ, dễ dãi các con cũng không được thừa dịp mà lơ đi khoảng cách giữa vua tôi. Nếu không nghe lời thầy dặn, không phải chỉ các con mang lỗi phạm thượng mà thầy mẹ cũng mang tội không biết dạy con. Phải nhớ kỹ lời thầy dặn đấy nhé.
– Chúng con xin tuân lời thầy dặn!
*
Lúc bấy giờ vua Duy Tân đã có sẵn một hành cung ở Cửa Tùng, nơi người ta vẫn quen gọi là “tòa Thừa Lương”, nôm na là tòa nhà để hóng mát. Tòa nhà này do viên Khâm sứ Trung Kỳ Brière cho xây dựng từ năm 1896 để làm nhà nghỉ mát cho nhân viên tòa Khâm. Năm 1907, người Pháp nghi ngờ vua Thành Thái không trung thành với chính phủ Bảo hộ nên tìm cách để truất phế ngài. Kế đó họ lập người con của ngài là Vĩnh San mới 7 tuổi lên ngôi tức là vua Duy Tân. Về sau, nhận thấy vua Duy Tân càng lớn càng lộ vẻ ưu thời mẫn thế như vua cha, người Pháp lại đâm ra lo lắng. Họ tìm cách để dẫn dụ vị vua trẻ này đi dần vào con đường vui chơi, hưởng thụ. Nhắm mục đích ấy, người Pháp nhường lại tòa nhà nghỉ mát trên cho vua Duy Tân làm một hành cung. Từ đó nhà nghỉ mát ấy được vua cho sắp xếp lại, trở thành tòa Thừa Lương. Cứ mỗi mùa hè vua lại ra đó nghỉ mát một thời gian.
Lần đó vua Duy Tân cùng quan thượng thư Hồ Đắc Trung đi Cửa Tùng bằng “xe điện”. Các thành phần khác thì đi bằng ngựa hoặc xe ngựa. Khi bốn anh em Hồ Đắc Điềm đến hành cung thì ông Trung đã có mặt sẵn để dẫn họ vào lạy chào vua.
– Muôn tâu, hạ thần xin dẫn đám tiện tử vào lạy chào hoàng thượng!
Anh em Hồ Đắc Điềm toan quì xuống lạy thì vua Duy Tân khoát tay:
– Cho miễn lạy. Vái chào là đủ rồi. Các anh em là những người tôi mời đi chơi cho có bạn chứ không phải người đi theo để phục dịch hầu hạ. Nếu việc gì cũng giữ lễ thì còn gì là vui!
Vua lại tươi cười nhìn lướt qua bốn người:
– Tôi mong chuyến đi chơi này sẽ làm mọi người hài lòng. Hai anh tôi đã biết tên là anh Điềm và anh Di. Riêng hai cô thì tôi chưa rõ!
Cô chị còn ngập ngừng thì cô em đã chỉ vào cô chị đáp:
– Chị của em tên Hồ Thị Chỉ, em tên Hồ Thị Hạnh!
– Xin chào mừng hai em. Chúc hai em sẽ có những ngày rất vui.
Mọi người đều hớn hở lên tiếng cảm ơn vị vua trẻ. Riêng Hồ Thị Chỉ đã tỏ ra xúc động hơn ai hết. Đôi mắt nàng long lanh mở lớn nhưng lời cám ơn của nàng chỉ lí nhí nghe không được rõ.
Hồ Thị Chỉ là con gái áp út của ông Trung. Vốn bẩm thụ tính thông minh trời cho, lại sinh ra trong một gia đình có truyền thống học vấn, được cha và các anh chăm sóc việc học hành từ bé, mới hơn mười tuổi nàng đã khá rành cả chữ Hán lẫn chữ Pháp. Năm ấy tuy mới mười hai tuổi nàng đã bắt đầu trổ nét xuân thì, trông xinh xắn, dịu dàng rất dễ thương. Có lẽ vua Duy Tân cũng cảm nhận điều đó ngay phút gặp gỡ đầu tiên.
Từ đó buổi sáng nào vua cũng cho mời anh em Hồ Đắc Điềm cùng ra bãi biển chơi. Ngài vẫn gọi Điềm và Di bằng anh, gọi Thị Chỉ và Thị Hạnh bằng em. Họ cùng nhau bơi lội, cùng nhau nằm trên cát nhìn mây trời, cùng ngắm những đàn còng ùa chạy lung tung trên bãi cát hoặc bơi dưới nước... Lúc nào vua cũng chuyện trò thân mật, vui vẻ với anh em Điềm, Di. Thị Hạnh cũng hay nói chuyện với vua. Riêng Thị Chỉ không được tự nhiên, rất ít khi nói chuyện với vua. Nàng luôn tỏ ra rụt rè, ít tham gia vào các cuộc vui chơi chung đó. Có lẽ vua cũng hiểu lý do nên cũng không ép, không mời.
Một hôm Hồ Đắc Di hào hứng đề nghị:
– Muôn tâu, hôm nay mình chơi thi bắt còng xem ai bắt giỏi hơn cho vui, ngài ngự bằng lòng không?
Vua tươi cười nói:
– Ừ, thi thì thi, như vậy càng thêm vui! Tôi sẽ có thưởng cho ai bắt giỏi nhất.
Thế rồi mỗi người tự kiếm một vật dụng để đựng còng. Khi cuộc thi đang nhộn nhịp, mọi người dần để ý thấy vua bắt được con nào lại thả con nấy. Thị Hạnh ngạc nhiên hỏi vua:
– Sao ngài ngự bắt được con nào lại thả con nấy vậy?
– Bắt được con nào đếm xong thả ngay chứ giữ lâu khô nước chúng có thể chết mất. Chúng vô tội, mình không nên để chúng chết oan. Thấy con nào thoát thân được cũng tất tả chạy trốn phóng xuống nước bơi tung tăng như thế cũng đủ vui rồi.
Thế là mọi người bắt chước vua thả hết số còng đã bắt được. Vua lại quay sang nói với Điềm và Di:
– Ai bắt bỏ tù chúng ta, chắc chúng ta cũng sẽ khổ sở vì khi mất tự do là mất tất cả!
Nói xong vua thở dài, nét mặt ngài bỗng trở nên ủ dột. Anh em Điềm, Di phải nói chuyện khỏa lấp một hồi vua mới vui vẻ trở lại với cuộc chơi.
Tối hôm đó anh em Điềm kể lại chuyện ấy cho cha nghe. Ông Trung nói:
– Tinh thần yêu nước của ngài ngự rất cao. Ngài muốn thoát khỏi sự kềm kẹp của chính phủ Bảo hộ. Đã nhiều lần ngài hỏi thầy “Thầy nghĩ sao về việc người Pháp đô hộ ta?”. Thầy chỉ biết nói với ngài “Mình đang bị trị biết làm sao được! Xin hoàng thượng thận trọng, cố gắng học hành, đường còn dài, còn nhiều vận hội mới”. Ngài không phản đối nhưng có vẻ không hài lòng. Một viên thị vệ kể với thầy, có một lần vua tự ra vườn cuốc đất trồng hoa, tay chân vua lấm đất cả. Khi ngài trồng xong, y bưng chậu nước đến cho ngài rửa tay. Bất ngờ ngài hỏi y “Tay nhớp lấy nước để rửa, thế nước nhớp lấy gì để rửa đây?” . Viên thị vệ ngẩn ngơ chưa biết trả lời sao thì ngài tiếp “Nước nhớp phải lấy máu mà rửa! Biết chưa?”. Lại một lần ngài đi câu, có quan thượng thư Nguyễn Hữu Bài theo hầu, ngài bỗng cảm thán đọc “Ngồi trên nước khôn ngăn được nước, Trót buông câu đã lỡ phải lần”, rồi ngài bảo ông Bài đối lại. Qua một lát suy nghĩ, ông Bài đối: “Ngẫm việc đời mà ngán cho đời, Đành nhắm mắt tới đâu hay đó!”. Ngài lắc đầu tỏ vẻ không bằng lòng. Ngài luôn bị ray rứt về số phận của đất nước. Thỉnh thoảng ngài đem tâm sự dò ý các quan nhưng chẳng có ai dám biểu lộ đồng tình với ngài. Ai cũng biết, trong số quan lại của Nam triều không thiếu gì tay chân của chính phủ Bảo hộ Pháp, họ lúc nào cũng sẵn sàng lập công để được thăng tiến! Vì cảm thấy mình quá cô đơn, ngài hay nổi nóng bất thường. Có lần ngài hét lớn “Các quan không có ai chịu nghe lời tôi cả. Tôi chỉ là một ông vua làm vì!”
Hồ Đắc Di nghe đến đó bất giác thốt lên:
– Thật tội nghiệp cho ngài quá. Không ngờ nỗi khổ tâm của ngài to lớn đến thế! Có khi nào bức chí quá ngài lại nổi điên như vua cha Thành Thái không thầy?
Ông Trung hơi cau mày:
– Con cũng nghĩ là vua Thành Thái nổi điên ư? Chuyện đó rất khó nói. Sau này lớn lên các con sẽ dần hiểu được sự thật. Thầy cũng mong cái gương của vua Thành Thái sẽ giúp Đức Kim Thượng gắng nhẫn nhục để giữ mình. Chính phủ Bảo hộ lúc nào cũng dòm ngó các hành vi của ngài chứ họ chẳng bỏ sót đâu!
Hồ Đắc Di lại hỏi:
– Thầy nghĩ những lời ngài nói trong khi tức giận lại lọt đến tai chính phủ Bảo hộ?
– Biết đâu được! Quan hay lính cũng có hạng này hạng khác... Ngài ngự còn quá trẻ nên dễ có lúc không kiềm chế được tánh nóng nảy của mình. Vì tánh khí đó, ngài đã phải chịu ngậm cay nuốt đắng một lần rồi!
– Chuyện ra sao thầy kể luôn cho tụi con nghe đi!
– Cách đây một hai năm thôi, một hôm nghe tin Khâm sứ Mahé đem người lên đào lăng vua Tự Đức để tìm vàng ngọc, ngài liền thân hành lên đó để ngăn chận hành vi ngang ngược ấy. Nhưng ngài lên tới nơi thì đã muộn, việc đã xong xuôi. Ngài vô cùng phẫn nộ. Khi đi ra cửa Vụ Khiêm Môn, ngài gặp vị thầy dạy ngài là ông Cao Xuân Dục từ Đại Nội mới lên, ngài kêu: “Thầy ơi, hồi cha tôi còn tại vị thì người ta không dám làm như vậy. Nay họ đặt tôi lên làm ấu chúa để đào mả, phá nhà!”. Ông Cao Xuân Dục chỉ biết khuyên: “Biết vậy thì Đức Kim Thượng nên gắng học!”. “Thầy nói tôi nghe cũng phải. Nay cha tôi đã ở xa. Tôi nguyện gắng học và xin thầy giúp cho!”. Sau đó vua tự mình viết một lá thư cho chính phủ Pháp. Ngài trình bày rõ sự kiện đã xảy ra và đề nghị chính phủ Pháp khiển trách, hạch tội mấy viên quan Bảo hộ ở Việt Nam. Ngài lại nhờ viên Toàn quyền Đông Dương chuyển thư giúp. Nhưng khi đọc thư xong, thay vì chuyển giúp, viên Toàn quyền lại thân hành đem lá thư này vào cung Diên Thọ trao cho bà Đích xem. Bà Đích liền đòi ngài vào cung Diên Thọ, bắt ngài phải xin lỗi viên Toàn quyền trước mặt ông ta và đại thần Nguyễn Thân. Không thể cãi lệnh mẹ đích, ngài phải cắn răng mà thi hành!
Thị Chỉ vẫn chăm chú lắng nghe cha kể chuyện từ đầu, giờ bỗng thở dài:
– Không ngờ ngài ngự lại khổ sở đến thế!
Thị Hạnh cũng lên tiếng:
– Bà Đích là mẹ của ngài ngự hở thầy?
– Bà Đích tên Nguyễn Gia Thị Anh, con gái ông Nguyền Thân, vị đại thần nổi tiếng đánh dẹp các cuộc nổi dậy trong nước, là mẹ đích chứ không phải là mẹ đẻ của ngài ngự. Gọi là mẹ đích vì bà là Hoàng quí phi tức là vợ chính của vua Thành Thái. Tất cả những người con khác của vua Thành Thái đều phải gọi bà là mẹ đích. Còn mẹ đẻ của ngài ngự là bà Tài nhân Nguyễn Thị Định, vợ thứ của vua Thành Thái. Cả hai bà này ở trong cung, đều có quyền quyết định mọi việc trong gia đình nhà vua, người ta vẫn quen gọi là “Lưỡng tôn cung”.
Hồ Đắc Điềm cũng thở dài:
– Hóa ra làm vua một nước bị lệ thuộc cũng khổ quá!
– Thầy rất thông cảm cho hoàn cảnh của ngài nhưng biết làm sao bây giờ? Vậy, khi chuyện vãn với ngài, nếu ngài có bắt qua chuyện quốc sự, các con phải tìm cách nói lảng sang chuyện khác ngay để ngài khỏi buồn khỏi ức. Phẫn chí quá ngài có thể nói lỡ lời. Giữ gìn cho ngài cũng là giữ gìn cho chính mình! Các con phải nhớ đấy!
Cuộc đi nghỉ mát mùa hè ở Cửa Tùng rồi cũng qua nhanh. Khi sắp giã từ, vua Duy Tân với anh em họ Hồ đều lộ vẻ bịn rịn nhau lắm. Nhất là Thị Chỉ, nàng không nói gì mà cứ rưng rưng nước mắt. Vua thấy thế nói khẽ với Thị Hạnh:
– Dỗ chị đi em. Sang năm chúng ta sẽ gặp lại!
*
Sau thời gian cho các con đi nghỉ mát với chồng về, bà Trung để ý thấy Thị Chỉ có vẻ hơi khác thường. Nàng ít nói, ít đùa giỡn với cô em Thị Hạnh như trước mà hay ngồi trầm ngâm một mình. Thỉnh thoảng nàng lại ngâm nho nhỏ vài câu thơ, giọng rất buồn. Một hôm bà Trung gọi nàng lại hỏi:
– Đi chơi về mệt lắm sao mà thấy con cứ thẫn thờ ra thế? Có gì vui kể mẹ nghe với nào.
– Dạ đâu có mệt, vui lắm chứ mẹ. Ngày nào cũng bắt còng, bơi lội, phơi nắng...
– Vua cũng chơi vậy sao? Ngài có hay nói chuyện với anh em con không?
– Dạ có. Nhưng ngài chỉ nói chuyện với anh Điềm, anh Di và Hạnh chứ rất ít khi nói chuyện với con.
Bà Trung cười:
– Ngài không thèm nói chuyện với con à? Sao vậy?
Hồ Thị Chỉ tỏ vẻ bẽn lẽn:
– Đâu phải vậy. Nhưng con đâu có chuyện gì để nói?
– Vậy con có nhận xét gì đặc biệt về ngài ngự không?
– Điểm đặc biệt ư? Nếu nói về điểm đặc biệt của một ông vua thì con thấy ngài có mấy điểm rất khác thường, hoàn toàn không giống ở bất cứ một ông vua nào khác mà con đã được đọc qua trong sách sử ký.
Bà Trung trố mắt ngạc nhiên:
– Ủa, con đã đọc về nhiều vị vua trong sách sử ký? Con thấy ngài khác biệt với những vị vua ấy ở những điểm nào?
– Điểm con thấy rõ nhất ở ngài là đức tính rất giản dị, khiêm tốn. Mẹ biết không? Ngài luôn gọi anh Điềm, anh Di bằng anh, gọi con và Hạnh bằng em như dân thường gọi nhau. Trong một lần khi đi chơi ngài đã thành thật tâm sự: “Thời gian này đi chơi có mấy anh em tôi thấy vui vẻ thoải mái quá! Gần gũi mãi với mấy cụ đại thần tuy học được nhiều điều hay nhưng cũng có lúc ngột quá chừng, nhiều thắc mắc của mình khó bày tỏ với các cụ quá! Các anh thấy thế nào?”. Anh Điềm anh Di đều nói: “Chúng tôi còn dại, chỉ biết lo học, chưa dám bàn đến chuyện người lớn”. “Vậy các anh cho tôi là người lớn rồi sao?”. “Muôn tâu, Ngài Ngự tuy tuổi nhỏ nhưng địa vị và tâm tư đều lớn quá có ai dám sánh? Chúng tôi đâu dám luận bàn!”. Vua cười: “Các anh đừng lầm, người có thực tài không cần có địa vị, người có địa vị chưa chắc có tài. Như tôi vì con vua nên lại làm vua chứ tài gì?”. Mẹ thấy đó, các ông vua khác nghe lời tâng bốc thì vui mừng, họ còn tìm cách khiến người khác thần thánh hóa mình lên nữa. Còn ngài thì không, lại tự nhận mình chưa chắc có tài, chỉ nhờ gốc là con vua nên được làm vua! Chưa tin mình có thực tài tất nhiên ngài phải luôn cố gắng học hỏi. Không nghe lời tán tụng, tâng bốc tất nhiên không ai có thể dùng lối mê hoặc, dua mị để lung lạc được. Một ông vua như thế chắc hẳn không phải là một ông vua tầm thường! Đó là những điểm khác thường của ngài vậy!
Nghe Thị Chỉ nhận xét về vua Duy Tân như vậy bà Trung rất mừng. Bà không ngờ lối suy nghĩ của đứa con gái mình lại có vẻ trưởng thành đến thế. Vậy đối với nàng bà đâu có gì đáng lo nữa! Chắc hẳn là nàng có phần si tình đấy, nhưng không sao. Nghĩ đến đó bà chợt thốt lên:
– Đáng tiếc!
– Mẹ nói cái gì đáng tiếc?
– Ngài ngự hẳn là một minh quân đấy. Đáng tiếc là ngài đã không gặp được thời. Cái gương của vua cha còn sờ sờ ra đó. E rằng chính phủ Bảo hộ khó để cho ngài toại chí. Mẹ nghĩ rồi đây ngài sẽ phải gặp nhiều gian truân...
Ngay hôm ấy bà thăm dò ý chồng:
– Này ông, từ sau cuộc đi chơi ở Cửa Tùng về, hình như con Chỉ nó thay đổi khá nhiều đó. Nó hay thở dài và cũng hay ngâm truyện Kiều nữa. Tôi cảm thấy lo lo về những dấu hiệu ấy.
– Ồ, có gì lạ đâu mà lo! Nó đang ở tuổi dậy thì, gái thở dài trai nằm sấp vẫn là chuyện thường. Bà hay gần gũi nó, khuyên nhủ khéo khéo sao cho nó khỏi lơ là việc học hành là được!
– Theo ông có phải nó phải lòng với nhà vua không?
– Bà căn cứ vào đâu để nói như thế?
– Thỉnh thoảng tôi lại nghe nó ngâm thơ Kiều. Tiêu biểu là hai câu “Người đâu gặp gỡ làm chi, Trăm năm biết có duyên gì hay không?”, hoặc “Nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn, Khuôn xanh biết có vuông tròn mà hay?”. Đó không phải cái giọng tương tư thì còn là gì nữa? Thời gian này nó có gặp ai đâu ngoài ngài ngự?
– Cũng có lý! Ngài ngự cư xử với đám con mình rất thân mật, nếu con Chỉ phải lòng ngài thì cũng đúng thôi. Theo tôi biết thì ngài cũng mến nó lắm. Xứng đôi quá đi chứ. Bà gắng khuyên răn thúc đẩy nó cứ lo học hành đi đã rồi chuyện tốt lành sẽ đến thôi.
– Ông thương con gái mà nghĩ vậy nhưng hình như ông chẳng để ý đến một điều...
– Điều gì?
– Ngài ngự là người rất có lòng với đất nước nhưng còn quá trẻ, liệu ngài có tự kiềm chế để giữ mình được không? Ông thấy cái gương vua Thành Thái chứ? Nếu để con mình vướng vô chuyện đó tôi nghĩ sớm muộn nó cũng sẽ khổ theo...
– Nhưng biết làm sao bây giờ?
*
Thấm thoắt kỳ nghỉ hè 1915 đã gần tới. Theo thư thăm gia đình mới nhất, anh em Điềm, Di đang học ở Hà Nội cho biết chỉ trong vòng một tháng nữa họ sẽ về sum họp với gia đình. Điềm, Di cũng cho biết họ cũng sẽ có một món quà rất đặc biệt dành cho hai em gái. Vì vậy, Thị Chỉ và Thị Hạnh luôn ngóng chờ hai anh. Đối với Thị Chỉ, thật ra nàng không hẳn nôn nóng vì thương nhớ hay muốn biết “món quà rất đặc biệt” hai ông anh đã hứa tặng mà là nôn nóng đợi một kỳ đi nghỉ mát như năm ngoái. Thị Chỉ đã cẩn thận ngầm chuẩn bị những đồ trang sức cá nhân dành cho thời gian đi chơi sắp đến. Đã nhiều lần nàng rụt rè hỏi nhỏ Thị Hạnh:
– Ngài ngự có dặn em năm sau chúng ta sẽ gặp lại phải không?
Thị Hạnh hiểu ý, cười nguýt yêu cô chị:
– Đúng rồi, không lẽ em phịa ra thế sao. Ngài ngự còn bảo em dỗ chị đừng khóc nữa mà. Sao chị cứ hỏi hoài chuyện đó vậy?
– Có khi nào ngài ngự quên đi không? Hoặc ngài ngự bận công việc gì mà không đi nghỉ mát nữa? Cũng có thể ngài ngự gọi vị thượng thư khác theo chầu hầu thay thế thân phụ mình.
Thị Hạnh nhí nhảnh:
– Chị sao hay lo hảo quá! Quân bất hí ngôn mà! Ngài ngự đã hứa lẽ nào lại quên!
Thị Chỉ cười bẽn lẽn:
– Chị cũng nói chừng chừng vậy thôi.
Mấy ngày sau thì anh em Hồ Đắc Điềm từ Hà Nội về. Thị Hạnh mừng quá, hỏi ngay đến món quà đặc biệt. Khi Điềm và Di mở quà ra, Thị Hạnh mừng rỡ reo ầm lên, Thị Chỉ cũng sung sướng đến lặng người. Món quà đặc biệt của hai cô chính là hai bộ đồ tắm tân thời! Trước vẻ sung sướng của hai cô em gái, anh em Điềm, Di cũng hỉ hả nói cười.
Bà Trung lúc ấy đang bận tay nhưng thấy các con vui vẻ quá cũng tạm bỏ việc đến xem:
– Quà gì mà các con vui sướng đến thế?
Cả bốn anh em đều hướng về mẹ, Điềm khoe:
– Mẹ thấy hai bộ đồ tắm này có nhất không? Tây cũng phải hạng sang chứ hạng xoàng cũng không dám sắm đâu!
Bà Trung cầm từng bộ lên xem rồi nói:
– Đồ này thấy sang trọng, tân thời thật, hai con thương em sắm cho em như vậy quả thật có lòng! Nhưng có điều mẹ quên dặn các con, mình là người Việt phải gắng mà giữ lấy nề nếp văn hóa Việt, không nên đua đòi với Tây làm chi để người ta coi thường. Mẹ nghĩ năm nay con Chỉ cũng đã lớn rồi, không nên theo mấy anh đi nghỉ ở Cửa Tùng nữa.
Nói xong, bà lại tiếp tục đi lo công việc. Thị Chỉ nghe mẹ nói vậy đâm hoảng. Vẻ hớn hở trên gương mặt nàng phút chốc tan biến hết. Đôi mắt nàng bỗng rưng rưng lệ. Anh em Điềm, Di thấy vậy vội an ủi em:
– Mẹ nói rứa thôi chứ không chi đâu. Bọn anh sẽ xin mẹ cho em.
– Em cũng sẽ xin mẹ cho chị đi – Thị Hạnh tiểp lời.
Lời hứa sẽ xin với mẹ của hai anh và đứa em gái không làm cho Thị Chỉ yên lòng mấy. Nàng vốn biết mẹ mình tuy rất thương con nhưng cũng rất nghiêm khắc trong vấn đề giáo dục. Hình như đã mất hết cả hứng thú, nàng cám ơn hai anh rồi tiu nghỉu mang gói “món quà đặc biệt” đem cất.
*
Hôm ấy, trong bữa cơm tối, ông Trung nói:
– Hoàng thượng vừa cho biết tuần sau sẽ đi nghỉ mát ở Cửa Tùng. Thầy cũng được cử theo hầu ngài. Các con cũng được ngài cho phép cùng đi nghỉ như năm ngoái. Khác một điều là con Chỉ năm nay đã lớn, đi chơi không tiện. Ý mẹ muốn con Chỉ phải ở nhà với mẹ.
Thị Chỉ nghe thế liền gục mặt xuống bàn khóc ấm ức. Mấy anh em đều quay lại nhỏ to năn nỉ với bà Trung. Ông Trung cũng nhìn con gái thông cảm nhưng bà Trung lắc đầu nói:
– Ông cũng muốn cho nó đi hả? Không chịu nghe tôi sau này có chuyện gì ông đừng bảo tại tôi không biết dạy con đó nghe!
Ông Trung nói với Thị Chỉ:
– Được rồi Chỉ! Con không nên trái ý khiến mẹ buồn!
Thị Chỉ liền bưng mặt đứng dậy bỏ chạy vào phòng riêng...
u tài liệu mà tài liệu quan trọng nhất là thiên hồi ký về vua Duy Tân của Sư Bà Diệu Không, thế danh Hồ Thị Hạnh, em gái của nhân vật chính Hồ Thị Chỉ trong truyện. NVT).