Thế giới đang đối mặt với một bước ngoặt của thời đại: một sự thay đổi kiến tạo cho thời đại. Cuộc chiến tranh xâm lược Ukraine của Nga đã kết thúc một kỷ nguyên. Các cường quốc mới đã hoặc tái xuất hiện, bao gồm một Trung Quốc hùng mạnh về kinh tế và kiên quyết về chính trị. Trong thế giới đa cực mới này, các quốc gia và mô hình chính phủ khác nhau đang cạnh tranh về quyền lực và ảnh hưởng.
Về phần mình, Đức đang làm mọi thứ có thể để bảo vệ và thúc đẩy một trật tự quốc tế dựa trên các nguyên tắc của Hiến chương Liên Hiệp Quốc. Nền dân chủ, an ninh và thịnh vượng của Đức phụ thuộc vào sự ràng buộc quyền lực đối với các quy tắc chung. Đó là lý do tại sao Đức có ý định trở thành người bảo đảm cho nền an ninh châu Âu mà các đồng minh của chúng tôi mong đợi rằng chúng tôi là một người xây dựng cầu nối trong Liên minh châu Âu và ủng hộ các giải pháp đa phương cho các vấn đề toàn cầu. Đây là cách duy nhất để Đức điều hướng thành công những rạn nứt địa chính trị của thời đại chúng ta.
Bước ngoặt của thời đại vượt ra ngoài cuộc chiến tại Ukraine và vấn đề an ninh châu Âu. Vấn đề chủ yếu là làm thế nào chúng ta, người châu Âu và Liên minh châu Âu, có thể vẫn là những tác nhân độc lập trong một thế giới ngày càng đa cực?
Đức và châu Âu có thể giúp bảo vệ cho trật tự quốc tế dựa trên luật lệ mà không chịu khuất phục trước quan điểm định mệnh cho rằng thế giới sẽ một lần nữa tách biệt thành các khối cạnh tranh. Lịch sử đất nước của chúng tôi trao cho một trách nhiệm đặc biệt để chống lại các lực lượng của chủ nghĩa phát xít, độc đoán và đế quốc. Đồng thời, kinh nghiệm của chúng tôi về việc bị chia đôi trong một cuộc thử thách về ý thức hệ và địa chính trị tạo cho chúng tôi một sự đánh giá đặc biệt về những rủi ro của một cuộc chiến tranh lạnh mới.
KẾT THÚC MỘT KỶ NGUYÊN
Đối với phần lớn các nơi trên thế giới, ba thập niên kể từ khi bức màn sắt sụp đổ là thời kỳ hòa bình và thịnh vượng tương đối. Những tiến bộ về công nghệ đã tạo ra một mức độ kết nối và hợp tác chưa từng có. Thương mại quốc tế ngày càng phát triển, chuỗi sản xuất và giá trị trải rộng trên toàn cầu, cùng sự trao đổi vô song về con người và kiến thức xuyên biên giới đã đưa hơn một tỷ người thoát khỏi cảnh đói nghèo. Điều quan trọng nhất là các người dân can đảm trên toàn thế giới đã quét sạch các chế độ độc tài và độc đảng. Lòng khao khát cho tự do, phẩm giá và dân chủ của họ đã thay đổi tiến trình lịch sử. Hai cuộc thế chiến tàn khốc và nhiều đau khổ, phần lớn là do đất nước chúng tôi gây ra, được theo sau bởi hơn bốn thập niên căng thẳng và đối đầu trong bóng tối của sự hủy diệt bằng hạt nhân có thể xảy ra. Nhưng đến những năm 1990, dường như một trật tự thế giới kiên cường hơn cuối cùng đã được thiết lập.
Đặc biệt là người Đức có thể lượng được các phước lành của họ. Vào tháng 11 năm 1989, những người dân dũng cảm của Đông Đức đã đánh sập Bức tường Berlin. Chỉ 11 tháng sau, đất nước đã thống nhất nhờ các chính trị gia đầy viễn kiến và sự hỗ trợ từ các đối tác ở cả phương Tây và Đông. Cuối cùng, như cựu Thủ tướng Đức Willy Brandt đã nói ngay sau khi bức tường sụp đổ: “Những gì thuộc về nhau có thể cùng nhau phát triển.”
Những lời này không chỉ áp dụng cho riêng nước Đức mà còn chung cho cả châu Âu. Các cựu thành viên của Khối Hiệp ước Warsaw đã chọn trở thành đồng minh trong khuôn khổ của Tổ chức Minh ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) và các thành viên của Liên Minh châu Âu. “Châu Âu toàn diện và tự do”, trong công thức của George H.W. Bush, tổng thống Mỹ vào thời điểm đó, dường như không còn là một hy vọng vô căn cứ. Trong kỷ nguyên mới này, Nga sẽ trở thành đối tác của phương Tây hơn là đối thủ như Liên Xô trước đây là việc khả thi. Do đó, hầu hết các nước châu Âu đã thu hẹp quân đội và cắt giảm ngân sách quốc phòng. Đối với Đức, lý do rất đơn giản: Tại sao phải duy trì một lực lượng phòng thủ lớn khoảng 500.000 binh sĩ trong khi tất cả những lân bang hầu như là bạn bè hoặc đối tác?
Trọng tâm của chính sách an ninh và quốc phòng của chúng tôi nhanh chóng chuyển sang các mối đe dọa cấp bách khác. Các cuộc chiến Balkan và hậu quả của vụ tấn công 9/11 năm 2001, bao gồm các cuộc chiến ở Afghanistan và Iraq, đã nâng cao tầm quan trọng của việc xử lý các cuộc khủng hoảng khu vực và toàn cầu. Tuy nhiên, tình đoàn kết trong khối NATO vẫn còn nguyên vẹn: vụ tấn công 9/11 đã dẫn đến quyết định đầu tiên làm kích hoạt Điều 5, điều khoản phòng thủ hỗ tương của Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương, và trong hai thập niên, các lực lượng của khối NATO đã kề vai sát cánh ở Afghanistan để chiến đấu chống bọn khủng bố.
Từ tiến trình mới của lịch sử, doanh giới Đức đã rút ra kết luận cho riêng mình. Sự sụp đổ của Bức màn sắt và nền kinh tế toàn cầu hội nhập hơn bao giờ hết đã mở ra những cơ hội và thị trường mới, đặc biệt là ở các quốc gia thuộc khối Đông Âu cũ và còn ở các quốc gia khác có nền kinh tế mới nổi, đặc biệt là Trung Quốc. Với nguồn năng lượng khổng lồ và các nguyên liệu thô khác, Nga đã chứng tỏ là một nhà cung ứng đáng tin cậy trong thời Chiến tranh Lạnh, và ít nhất là trong lúc đầu, Nga có vẻ nhạy bén nhận ra để mở rộng mối quan hệ đối tác đầy hứa hẹn trong thời bình.
Tuy nhiên, giới lãnh đạo Nga đã trải nghiệm sự tan rã của Liên Xô cũ và Khối Hiệp ước Warsaw và đưa ra kết luận khác biệt rõ rệt so với các kết luận của các nhà lãnh đạo ở Berlin và các thủ đô khác trong châu Âu. Thay vì coi việc lật đổ trong an bình của chế độ cộng sản là một cơ hội để cho có tự do và dân chủ nhiều hơn, Tổng thống Nga Vladimir Putin đã gọi đây là "thảm họa địa chính trị lớn nhất của thế kỷ XX". Sự hỗn loạn kinh tế và chính trị ở các khu vực thuộc không gian hậu Xô Viết trong những năm 1990 chỉ làm trầm trọng thêm cảm giác mất mát và đau khổ mà nhiều người dân Nga cho đến ngày nay liên kết với sự kết thúc của Liên Xô.
Chính trong môi trường đó, chủ nghĩa độc đoán và tham vọng đế quốc bắt đầu trỗi dậy. Năm 2007, Putin đã đưa ra một bài phát biểu gây hấn tại Hội nghị An ninh Munich, xem trật tự quốc tế dựa trên luật lệ như một công cụ đơn thuần trong sự thống trị của Mỹ. Năm sau, Nga phát động một cuộc chiến chống lại Georgia. Năm 2014, Nga đã chiếm đóng và sáp nhập Crimea và gửi lực lượng vào các khu vực Donbas, miền đông Ukraine, vi phạm trực tiếp luật quốc tế và các cam kết thuộc hiệp ước của chính Moscow. Những năm sau đó, Điện Kremlin cắt giảm các hiệp ước kiểm soát vũ khí và mở rộng khả năng quân sự, đầu độc và giết hại các nhà bất đồng chính kiến Nga, đàn áp xã hội dân sự và thực hiện một cuộc can thiệp quân sự tàn bạo để hỗ trợ chính quyền Assad ở Syria. Từng bước một, nước Nga của Putin đã chọn một con đường đưa Nga ra xa khỏi châu Âu và một trật tự hợp tác, hòa bình.
ĐẾ CHẾ PHẢN CÔNG
Trong tám năm sau khi sáp nhập bất hợp pháp Crimea và bùng nổ xung đột ở miền đông Ukraine, Đức và các đối tác châu Âu và quốc tế trong khối G-7 tập trung vào việc bảo vệ chủ quyền và độc lập chính trị của Ukraine, ngăn chặn sự leo thang hơn nữa của Nga và khôi phục và giữ gìn hòa bình ở châu Âu. Phương cách chọn lựa là kết hợp của áp lực chính trị và kinh tế cùng với các biện pháp hạn chế đối với Nga bằng đối thoại. Cùng với Pháp, Đức đã tham gia vào cái gọi là Định dạng Normandy dẫn đến các thỏa thuận Minsk và tiến trình tương ứng với Minsk, kêu gọi Nga và Ukraine cam kết ngừng bắn và thực hiện một số biện pháp khác. Bất chấp những thất bại và thiếu tin tưởng giữa Moscow và Kyiv, Đức và Pháp vẫn duy trì tiến trình này. Nhưng một nước Nga theo chủ nghĩa xét lại đã khiến cho việc ngoại giao không thành công.
Cuộc tấn công tàn bạo của Nga vào Ukraine vào tháng 2 năm 2022 sau đó về cơ bản đã mở ra một thực tế mới: chủ nghĩa đế quốc đã quay trở lại châu Âu. Nga đang sử dụng một số phương pháp quân sự khủng khiếp nhất của thế kỷ XX và gây ra những đau khổ không thể kể xiết ở Ukraine. Hàng chục nghìn binh sĩ và dân thường Ukraine đã thiệt mạng; nhiều người khác đã bị thương hoặc chấn thương. Hàng triệu công dân Ukraine đã phải bỏ nhà cửa, tìm nơi ẩn náu ở Ba Lan và các nước châu Âu khác; một triệu người trong số họ đã đến Đức. Pháo binh, tên lửa và bom của Nga đã biến nhà cửa, trường học và bệnh viện Ukraine thành đống đổ nát. Mariupol, Irpin, Kherson, Izyum: những nơi này sẽ mãi mãi nhắc nhở cho thế giới về các tội ác của Nga, và các thủ phạm phải được đưa ra trước công lý.
Nhưng tác động của cuộc chiến tranh Nga vượt ra ngoài Ukraine. Khi Putin ra lệnh tấn công, ông đã phá vỡ một kiến trúc hòa bình cho quốc tế và châu Âu mà đã mất nhiều thập niên để xây dựng. Dưới sự lãnh đạo của Putin, Nga đã bất chấp ngay cả những nguyên tắc cơ bản nhất của luật quốc tế như được quy định trong Hiến chương Liên Hiệp Quốc: từ bỏ sử dụng vũ lực như một phương tiện của chính sách quốc tế và cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của tất cả các quốc gia. Nga hành xử như một cường quốc đế quốc, hiện nay một lần nữa, đang tìm cách vẽ lại biên giới bằng vũ lực và phân chia thế giới thành các khối và phạm vi ảnh hưởng.
MỘT CHÂU ÂU MẠNH HƠN
Thế giới không để cho Putin đi theo con đường của mình; chủ nghĩa đế quốc của Nga phải được ngăn chặn. Vai trò quan trọng đối với Đức trong thời điểm này là đẩy mạnh thành một trong những nước chính mang lại an ninh ở châu Âu bằng cách đầu tư vào quân đội, củng cố ngành công nghiệp quốc phòng châu Âu, tăng cường sự hiện diện quân sự ở cạnh sườn phía đông của khối NATO, huấn luyện và trang bị cho các lực lượng vũ trang của Ukraine. Vai trò mới của Đức sẽ đòi hỏi một nền văn hóa chiến lược mới, và chiến lược an ninh quốc gia mà chính phủ của chúng tôi sẽ áp dụng vài tháng nữa sẽ phản ánh thực tế này. Trong ba thập niên qua, các quyết định liên quan đến nền an ninh của Đức và thiết bị của các lực lượng vũ trang của đất nước đã được đưa ra trong bối cảnh một châu Âu trong hòa bình. Hiện nay, vấn đề chỉ đạo sẽ là các mối đe dọa nào mà chúng ta và các đồng minh phải đối mặt ở châu Âu, hầu hết trước mắt nhất là đến từ Nga. Các mối đe dọa bao gồm các cuộc tấn công tiềm tàng vào lãnh thổ đồng minh, binh pháp chiến tranh trên mạng và thậm chí là cơ hội tấn công từ xa bằng vũ khí hạt nhân, điều mà Putin đã không ngần ngại đe doạ một cách ám chỉ tinh vi.
Mối quan hệ đối tác xuyên Đại Tây Dương đang và vẫn là quan trọng để đối mặt với những thách thức này. Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden và chính quyền của ông đáng được ca ngợi trong việc xây dựng và đầu tư cho các mối quan hệ đối tác và liên minh mạnh mẽ trên toàn cầu. Nhưng một mối quan hệ đối tác xuyên Đại Tây Dương cân bằng và kiên cường cũng đòi hỏi Đức và châu Âu phải đóng các vai trò tích cực. Một trong những quyết định đầu tiên mà chính phủ chúng tôi đưa ra sau cuộc tấn công của Nga vào Ukraine là chỉ định một quỹ đặc biệt khoảng 100 tỷ đô la để trang bị tốt hơn cho Bundeswehr, các lực lượng vũ trang của chúng tôi. Thậm chí chúng tôi đã tu chỉnh hiến pháp để thành lập quỹ này. Quyết định này đánh dấu sự thay đổi mạnh mẽ nhất trong chính sách an ninh của Đức kể từ khi Bundeswehr được thành lập vào năm 1955. Quân nhân của chúng tôi sẽ nhận được sự hỗ trợ chính trị, vật chất và các khả năng mà họ cần để bảo vệ đất nước và các đồng minh của chúng tôi. Mục tiêu là Bundeswehr mà chúng tôi và các đồng minh của chúng tôi có thể tin tưởng. Để đạt được điều đó, Đức sẽ đầu tư hai phần trăm tổng sản phẩm quốc nội vào quốc phòng.
Các quân nhân Đức thuộc Lực lượng Phòng chống của Khối NATO tại Baumholder, Đức, tháng 11 năm 2022. Ảnh: Wolfgang Rattay / Reuter.
Những thay đổi này phản ánh một ý thức mới trong xã hội Đức. Ngày nay, phần lớn người Đức đồng ý rằng đất nước cần một đội quân có khả năng và sẵn sàng răn đe kẻ thù và tự vệ và bảo vệ các đồng minh. Đức sát cánh cùng người Ukraine khi họ bảo vệ đất nước chống lại Nga xâm lược. Từ năm 2014 đến 2020, Đức là nguồn đầu tư tư nhân và hỗ trợ chính phủ lớn nhất của Ukraine. Và kể từ khi Nga bắt đầu xâm lược, Đức đã gia tăng hỗ trợ về tài chính và nhân đạo cho Ukraine và đã giúp điều phối phản ứng quốc tế trong khi giữ chức chủ tịch khối G-7.
Buớc ngoặt theo thời đại cũng khiến cho chính phủ chúng tôi xét lại một nguyên tắc đã được thiết lập vững chắc từ nhiều thập niên trong chính sách của Đức về việc xuất khẩu các vũ khí. Ngày nay, lần đầu tiên trong lịch sử cận đại của Đức, chúng tôi đang cung cấp vũ khí trong một cuộc chiến tranh giữa hai quốc gia. Trong cuộc trao đổi với Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky, chúng tôi đã xác minh một điều: Đức sẽ duy trì nỗ lực hỗ trợ cho Ukraine trong thời gian cần thiết. Điều mà Ukraine cần nhất hiện nay là các hệ thống pháo binh và phòng không, và đó chính xác là những gì Đức đang cung cấp, phối hợp chặt chẽ với các đồng minh và đối tác của chúng tôi. Sự hỗ trợ của Đức cho Ukraine cũng bao gồm vũ khí chống xe tăng, tàu bọc thép, súng phòng không và tên lửa, và hệ thống radar phản công. Một phái bộ mới của Liên Âu sẽ cung cấp huấn luyện cho đến 15.000 binh sĩ Ukraine, bao gồm tới 5.000, toàn bộ lữ đoàn, ở Đức. Trong khi đó, Cộng hòa Séc, Hy Lạp, Slovakia và Slovenia đã chuyển giao hoặc đã cam kết chuyển giao khoảng 100 xe tăng chiến đấu chủ lực thời Liên Xô cho Ukraine; sau đó đến lượt mình, Đức sẽ cung cấp cho các quốc gia đó những chiếc xe tăng Đức được tân trang lại. Bằng cách này, Ukraine đang nhận được những xe tăng mà lực lượng Ukraine quen thuộc, có kinh nghiệm sử dụng và có thể dễ dàng bổ sung vào các kế hoạch hậu cần và bảo trì hiện có của Ukraine.
Các hành động của khối NATO không được dẫn đến một cuộc đối đầu trực tiếp với Nga, nhưng liên minh này phải ngăn chặn một cách đáng tin cậy sự xâm lược tiếp theo của Nga. Để đạt được mục tiêu đó, Đức đã tăng cường đáng kể sự hiện diện của mình ở cạnh sườn phía đông của khối NATO, củng cố lực lượng chiến đấu của khối NATO do Đức lãnh đạo ở Litva và chỉ định một lữ đoàn để đảm bảo an ninh cho quốc gia đó. Đức cũng đang đóng góp quân đội cho lực lượng của khối NATO ở Slovakia, và không quân Đức đang giúp giám sát và bảo vệ không phận ở Estonia và Ba Lan. Trong khi đó, hải quân Đức đã tham gia vào các hoạt động răn đe và phòng thủ của khối NATO ở biển Baltic. Đức cũng sẽ đóng góp một sư đoàn thiết giáp, cũng như các vũ khí không quân và hải quân quan trọng (tất cả đều ở trong tinh thần ứng chiến cao độ) cho Mô hình Lực lượng Mới của khối NATO, được thiết kế để cải thiện khả năng của liên minh trong việc phản ứng nhanh chóng với bất kỳ tình huống bất ngờ nào. Đức sẽ tiếp tục duy trì cam kết đối với các thỏa thuận của khối NATO trong việc phân chia về hạt nhân, bao gồm cả việc mua máy bay chiến đấu F-35 có hai khả năng sử dụng.
Thông điệp của chúng tôi gửi đến Moscow rất rõ ràng: chúng tôi quyết tâm bảo vệ từng tất đất thuộc về lãnh thổ của khối NATO trước bất kỳ sự xâm lược nào có thể xảy ra. Chúng tôi sẽ thực hiện các cam kết long trọng của khối NATO rằng, một cuộc tấn công vào bất kỳ một đồng minh nào sẽ được coi là tấn công vào toàn bộ liên minh. Chúng tôi cũng đã nói rõ với Nga rằng, những lời tuyên bố gần đây của Nga liên quan đến vũ khí hạt nhân là liều lĩnh và vô trách nhiệm. Khi chúng tôi thăm Bắc Kinh vào tháng 11, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và chúng tôi đồng tình rằng, việc đe dọa sử dụng vũ khí hạt nhân là không thể chấp nhận được và việc sử dụng những vũ khí khủng khiếp như vậy sẽ vượt qua ranh giới đỏ mà nhân loại đã xác định một cách đúng đắn. Putin nên ghi nhận những lời lẽ này.
Trong số nhiều tính toán sai lầm mà Putin đã phạm phải là suy đoán rằng cuộc xâm lược Ukraine sẽ làm căng thẳng mối quan hệ giữa các đối thủ của ông. Trên thực tế, điều ngược lại đã xảy ra: Liên minh châu Âu và Liên minh xuyên Đại Tây Dương đang mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Không nơi nào điều này rõ ràng hơn trong các lệnh trừng phạt kinh tế chưa từng có mà Nga đang phải đối phó. Rõ ràng là ngay từ đầu cuộc chiến, các biện pháp trừng phạt này sẽ phải được áp dụng trong một thời gian dài, vì hiệu quả của chúng tăng lên từ tuần này qua tuần khác. Putin cần hiểu rằng không một lệnh trừng phạt nào sẽ được huỷ bỏ, Nga phải chấp nhận về các điều khoản của một hòa ước.
Tất cả các nhà lãnh đạo của các nước thuộc khối G-7 đã ca ngợi Zelensky về sự sẵn sàng cho một nền hòa bình công chính, tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của Ukraine và bảo vệ khả năng tự vệ của Ukraine trong tương lai. Phối hợp với các đối tác của chúng tôi, Đức sẵn sàng đạt được các thỏa thuận để duy trì an ninh của Ukraine như một phần của giải pháp hòa bình tiềm năng sau chiến tranh. Tuy nhiên, chúng tôi sẽ không chấp nhận việc sáp nhập bất hợp pháp lãnh thổ Ukraine, ngụy trang thô thiển bằng các cuộc trưng cầu dân ý giả mạo. Để chấm dứt cuộc chiến này, Nga phải rút quân.
TỐT CHO KHÍ HẬU, XẤU CHO NGA
Cuộc chiến của Nga không chỉ làm thống nhất Liên Âu, khối NATO và G-7 để phản đối sự xâm lược; nó cũng đã xúc tác cho những thay đổi trong chính sách kinh tế và năng lượng sẽ gây tổn hại cho Nga về lâu dài và thúc đẩy sự chuyển đổi quan trọng sang năng lượng sạch đã được tiến hành. Ngay sau khi nhậm chức Thủ tướng Đức vào tháng tháng 12 năm 2021, chúng tôi đã hỏi các cố vấn là liệu chúng ta có kế hoạch thay thế không, nếu Nga quyết định ngừng cung cấp khí đốt cho châu Âu. Câu trả lời là không, bởi vì chúng ta đã trở nên phụ thuộc việc cung cấp khí đốt của Nga một cách nguy hiểm.
Ngay lập tức, chúng tôi bắt đầu chuẩn bị một kế hoạch cho tình huống xấu nhất. Trong những ngày trước cuộc xâm lược toàn diện của Nga tại Ukraine, Đức đã đình chỉ chứng nhận đường ống Nord Stream 2, nó được thiết lập để làm tăng đáng kể nguồn cung cấp khí đốt của Nga cho châu Âu. Vào tháng hai năm 2022, các kế hoạch đã được đưa ra để nhập khẩu khí đốt tự nhiên hóa lỏng (LNG) từ thị trường toàn cầu bên ngoài châu Âu, và trong những tháng tới, các cảng nổi đầu tiên để nhập LNG sẽ đi vào hoạt động trên bờ biển Đức.
Kịch bản tồi tệ nhất nhanh chóng thành hiện thực, khi Putin quyết định sử dụng năng lượng thành vũ khí bằng cách cắt giảm nguồn cung cấp cho Đức và các nơi khác còn lại của châu Âu. Nhưng Đức hiện đã hoàn toàn loại bỏ việc nhập khẩu than của Nga và việc Liên Âu nhập khẩu dầu của Nga sẽ sớm kết thúc. Chúng tôi đã học được bài học: An ninh của châu Âu phụ thuộc vào việc đa dạng hóa các nhà cung cấp năng lượng và tuyến đường và đầu tư vào sự độc lập về năng lượng. Vào tháng Chín, sự phá hoại của các đường ống Nord Stream đã nhấn mạnh đến thông điệp này.
Để thu hẹp bất kỳ sự thiếu hụt năng lượng tiềm ẩn nào ở Đức và châu Âu nói chung, chính phủ chúng tôi đang tạm thời đưa các nhà máy nhiệt điện than trở lại mạng lưới điện và cho phép các nhà máy điện hạt nhân của Đức hoạt động lâu hơn kế hoạch ban đầu. Chúng tôi cũng đã yêu cầu các cơ sở tồn trữ khí thuộc sở hữu tư nhân đáp ứng từng bước mức cung ứng lượng tối thiểu. Hiện nay, cơ sở vật chất của chúng tôi đã hoàn toàn đầy đủ, trong khi vào thời điểm này năm ngoái, mức độ là thấp một cách bất thường. Đây là cơ sở tốt để Đức và châu Âu vượt qua mùa đông mà không có tình trạng thiếu khí đốt.
Cuộc chiến của Nga đã cho chúng ta thấy rằng, việc đạt được những mục tiêu đầy tham vọng này cũng là cần thiết để bảo vệ tình trạng an ninh và độc lập của chúng ta cũng như của châu Âu. Việc rời xa các nguồn năng lượng hóa thạch sẽ làm tăng nhu cầu về điện và hydro xanh, và Đức đang chuẩn bị cho kết quả đó bằng cách tăng tốc ồ ạt việc chuyển sang các năng lượng tái tạo như năng lượng gió và mặt trời. Mục tiêu của chúng tôi rất rõ ràng: đến năm 2030, ít nhất 80% lượng điện mà người Đức sử dụng sẽ được tạo ra bởi năng lượng tái tạo và đến năm 2045, Đức sẽ trung hòa được mức phát thải khí với hiệu ứng nhà kính ròng, hay còn gọi là "tình trạng trung lập với khí hậu".