Một nhà hàng hải Phương Tây (lâu ngày tôi quên mất tên) nhận xét: “Phải đến tận Nhật Bản mới thấy có
một dân tộc thông minh như dân tộc Việt Nam”. Chắc chắn câu nói đó không cường điệu, bởi vì trong
một trăm giống Việt sống dọc hai bên bờ sông Dương tử mà chỉ còn lại duy nhất dòng Lạc Việt không bị
đồng hóa thì phải được kể là thông minh rồi. Tổ tiên ta đã làm nên những chiến công hiển hách là ba lần
đánh bại đoàn quân Mông Cổ bách chiến bách thắng từng làm khiếp vía các quốc gia từ Âu sang Á thì
đâu phải là một dân tộc tầm thường? Một người anh hùng áo vải đất Tây Sơn đánh tan 20 vạn quân
Thanh trong vòng một tuần lễ thì mưu lược đâu kém gì nhà quân sự đại tài Napoléon ở Âu Châu?
Câu hỏi đặt ra: “Tại sao một dân tộc thông minh, kiên cường như thế mà địa vị ngày nay trên trường
quốc tế lại bị xếp hạng gần cuối bảng? Phải chăng đến một thời điểm nào đó trong lịch sử thì nguyên
khí, trí tuệ giống nòi Lạc Việt tự nhiên biến mất?”
Ông Nguyễn Trường Tộ sau khi du học nước người trở về, đã viết một bản điều trần dâng lên vua để đề
nghị canh tân xứ sở thì bị các quần thần phê đó là những lời yêu ngôn, hoặc chúng, không đáng tin cậy.
Tại sao vua không cử sứ giả đến các nước văn minh kia để xem hư thực như thế nào mà lại nghe lời
xàm tấu của quan lại thủ cựu sợ làm cuộc cách mạng? Giá như vua Tự Đức đừng miệt mài trong thơ
phú, sáng suốt một chút thì nước Việt Nam mình đâu đến nỗi tồi tệ như ngày nay? Tôi trộm nghĩ: Sở dĩ
nước ta không ngóc đầu lên được là bởi vì hàng ngũ trí thức lãnh đạo xứ sở ta bị rơi vào chứng bệnh
khủng hoảng trí tuệ quá lâu.
Khi tôi gọi điện thoại về Việt Nam cho bác sĩ Nguyễn Khắc Viện để hỏi tại sao một người thông minh lỗi
lạc như anh mà đi theo Đảng cộng sản, một đảng đã đấu tố thân phụ anh cho đến chết, ông đáp: “Vì
mình chống bọn Thực dân, vì mình quá khao khát độc lập tự do nên mình ngây thơ”. Qua câu trả lời ấy,
tôi nhận thấy rằng đa số trí thức Việt Nam lúc bấy giờ đều ngây thơ chết người (!) như bác sĩ Nguyễn
Khắc Viện, nghĩa là giống như kỹ sư Hồ Đắc Liên đã nhìn thấy cái ác, cái bất lương, cái gian dối của
cộng sản trong kháng chiến, nhưng đặt mục tiêu đánh đuổi Thực dân Pháp cao hơn hết, thành thử vấn
đề thanh toán cộng sản sẽ tính sau. Ngờ đâu khi sa vào cái bẫy cộng sản, chẳng những không thể thanh
toán chúng được, mà lại còn bị chúng giẫm đạp, tàn hại suốt cả một đời!
Năm 1959, đọc cuốn “Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc” của cụ Hoàng văn Chí, tôi quá đỗi xót xa thương
cảm những nhà trí thức yêu nước ở Miền Bắc vì mê cái khẩu hiệu “Độc Lập, Tự Do, Hạnh Phúc” mà bị
đày đọa, bị sỉ nhục. Đồng thời, tôi lại tự hỏi: “Tại sao những nhà trí thức thông thái lỗi lạc như quý vị giáo
sư Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Tạ Quang Bửu không chịu đọc những tác phẩm “Trại Súc Vật”
(Animal Farm) của George Orwell hoặc “Le Retour d’ URSS” (Trở về từ Liên Bang Xô Viết) của André
Gide do nhà xuất bản Gallimard phát hành từ tháng 11 năm 1936 để biết cộng sản là như thế nào, mà lại
nhắm mắt đi với cộng sản chỉ vì câu khẩu hiệu đểu giả “Độc Lập, Tự Do, Hạnh Phúc” của Hồ Chí Minh?
Sự sai lầm (hay ngây thơ, nông cạn) của các bậc đại trí thức thời ấy rất tai hại vì nó khiến cho lớp học trò
của thế hệ đàn em cứ thế nhắm mắt đi theo đàn anh.
Tôi biết ghê tởm sự tàn ác bất nhân của cộng sản rất sớm nhờ tận mắt chứng kiến mấy thằng du kích
cộng sản chém bay đầu ông phu xe kéo và đập vỡ sọ một thiếu niên bị nghi ngờ làm mật thám cho Tây.
Sau khi đọc cuốn “Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc” của cụ Hoàng văn Chí vào năm 1959 thì sự quyết
tâm chống Cộng của tôi càng kiên định hơn. Tôi bí mật gia nhập đảng Đại Việt là thể hiện sự quyết tâm
của mình. Vì bị ảnh hưởng bởi đảng chống Tổng thống Ngô Đình Diệm, do đó tôi có tư tưởng chống
ông Diệm. Nhưng sau cuộc đảo chánh năm 1963, các cuộc đảo chánh giữa các tướng lãnh liên tục xảy
ra, hệ phái của các đảng chống Cộng không đoàn kết với nhau thì tôi nghiệm rằng mình có tư tưởng
chống ông Diệm là sai lầm. Rất nhiều đêm tôi thầm khấn nguyện vong linh Tổng thống Diệm tha thứ cho
tôi.
Do tinh thần ái quốc, những nhà trí thức ở thời điểm gọi là “Cách Mạng Mùa Thu” đã đặt trái tim trên bộ
não (tình cảm trên lý trí), nên bị sa chân vào cái bẫy cộng sản, rồi rút chân ra không được. Tôi hoàn toàn
chia sẻ, cảm thông và xót xa nỗi bất hạnh của các nhà trí thức đó. Nhưng sau Hiệp định Genève năm
1954 chia đôi đất nước với gần một triệu đồng bào Miền Bắc phải rời bỏ mồ mả tổ tiên, nhà cửa ruộng
vườn đi tìm tự do và sau khi cuốn sách “Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc” của cụ Hoàng văn Chí ra đời
mà những người trí thức (!) còn chạy theo cộng sản thì tôi hết sức khinh miệt trí tuệ của những con
người đó. Những trí thức theo Cộng ấy chống chế rằng họ đấu tranh vì chống ngoại xâm và vì lý tưởng
công bằng xã hội. Có lẽ họ nghĩ rằng nhân dân Miền Nam đều ngu cả nên tin vào cái lập luận ấu trĩ của
họ dễ dàng. Tôi có thể khẳng định rằng Miền Nam rơi vào sự thống trị của cộng sản Miền Bắc là do bọn
mang danh trí thức nhưng ngu xuẩn làm mất chính nghĩa bảo vệ nền tự do của Miền Nam và bọn nằm
vùng “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản” làm tay sai đắc lực cho bọn xâm lược.
Hoa Kỳ đến giúp Miền Nam không phải là quân xâm lược. Bằng cớ là họ đã giải thoát Âu châu khỏi sự
thống trị của Đức quốc xã và Phát xít Ý, nhưng họ không chiếm nước nào làm thuộc địa; lại còn có kế
hoạch Marshall giúp nền kinh tế Âu châu phục hồi. Họ đánh bại quân phiệt Nhật, nhưng giúp Nhật trở
thành quốc gia hùng cường vào hàng thứ hai về kinh tế. Nhờ Mỹ mới có phương tiện đưa gần một triệu
người Miền Bắc đi tìm tự do. Tố cáo Mỹ xâm lược là luận điệu tuyên truyền xảo trá của cộng sản và
được bọn trí thức ngu xuẩn ở Miền Nam cất giọng phụ họa.
Có hai nhân vật từ Miền Bắc vào Nam sau 1975 mà tôi trọng vọng và kính nể là nhà văn Dương Thu
Hương và nhà lý luận Hà Sĩ Phu Nguyễn Xuân Tụ. Một người sinh ra và lớn lên ở đất Bắc, bị nền giáo
dục chuyên chính nhồi sọ, trở thành đảng viên cộng sản, lòng phơi phới mừng rỡ trước sự thống nhất xứ
sở “từ nay sạch bóng quân thù” (chữ của cộng sản), nhưng bà Dương Thu Hương chỉ sau một buổi vào
nhà sách ở Miền Nam thấy bày bán đủ loại tác phẩm văn chương, chính trị, nghệ thuật là nhận ra ngay
rằng Miền Nam có tự do. Bà đã ngồi xuống vệ đường và khóc cho một nền văn minh bị bọn man rợ xâm
chiếm. Tôi dám nghĩ rằng nếu nhà văn Dương Thu Hương là vị Tổng Tư lệnh đoàn quân “giải phóng” thì
chắc chắn bà sẽ thống lĩnh Quân lực Việt Nam Cộng Hòa và Quân Đội Nhân Dân quay ngược ra Miền
Bắc giải phóng đồng bào. Một người khác là Tiến sĩ Nguyễn Xuân Tụ, ngành Sinh học, bút hiệu Hà Sĩ
Phu, cũng lớn lên ở Miền Bắc nhưng không gia nhập đảng cộng sản để tiến thân. Sau khi Tổng Bí thư
Nguyễn văn Linh đề ra chủ trương “đổi mới hay là chết”, cởi trói văn nghệ sĩ vào năm 1986, ông Hà Sĩ
Phu đã viết những bài tham luận chính trị để chỉ ra con đường “xã hội chủ nghĩa” là sai lầm bằng những
lập luận hết sức ôn hòa, vừa có lý vừa có tình. Nhưng không ai thấy có “sĩ phu Bắc Hà” nào dám công
khai lên tiếng phụ họa. Tội nghiệp cho triết gia Trần Đức Thảo bị đảng yêu cầu viết bài phản bác lập luận
của ông Hà Sĩ Phu, nhưng vì quá sợ đảng nên triết gia không dám trích dẫn những gì ông Hà Sĩ Phu đã
viết. Ai làm cho trí thức sợ hãi đến độ đánh mất tính chất kẻ sĩ, nếu không phải là Hồ Chí Minh và tập
đoàn chuyên chính? Vậy thì tại sao tới giờ này mà vẫn còn có hạng người như ông Nguyễn Trọng Vĩnh
tâng bốc, sùng bái “Bác Hồ”? Có phải đúng là do căn bệnh “khủng hoảng trí tuệ” không?
Một số người đi theo cộng sản từ 1945 như các ông Nguyễn Hộ, Trần Độ, Nguyễn văn Trấn … và những
trí thức (!) ở Miền Nam sau này như bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, điệp viên Phạm Xuân Ẩn. luật sư Ngô Bá
Thành (tên thật là Phạm thị Thanh Vân, con gái ông Phạm văn Huyến) … dần dần mở mắt. Nhưng tiếc
thay con số “trí thức mở mắt” quá ít ỏi, nên bọn cầm quyền cứ nhất định xông lên cái đích Xã Hội Chủ
Nghĩa” mà chẳng có lực nào cản nổi! Năm ngoái, giáo sư Trần Phương, nguyên phó Thủ tướng, triệu
tập một cuộc hội thảo trước Ngày Đại hội Đảng gồm những nhân vật từng là tai to mặt lớn trong đảng,
gay gắt đặt câu hỏi: “Trong các anh, ai có thể giải thích cho tôi nghe chủ nghĩa xã hội là gì nào?”. Tuyệt
nhiên không nghe một ai có thể giải thích được! Thế mà các vị ấy cứ ở trong cái đảng cương quyết đi
theo con đường xã hội chủ nghĩa. Vậy có tội nghiệp cho dân Việt Nam không? Đó không phải là cuộc
khủng hoảng trí tuệ, thì là gì?
Mới đây, đọc bài “Suy nghĩ trong lúc nằm bệnh viện” của ông Lê Hiếu Đằng làm tôi nhớ một truyện ngắn
đăng trong “Trăm hoa đua nở trên đất Bắc” có tựa đề “Bức thư gửi người bạn cũ” của nhà văn Trần Lê
Văn, cháu nhà thơ trào phúng Trần Kế Xương, tức Tú Xương. Tên người bạn lúc mới đẻ ra được ông bố
đặt cho là Nguyễn Vinh Hoa nhằm nói lên sự phú quý con nhà tiểu tư sản, nhưng sau “Cách Mạng” thì
Vinh Hoa tự ý đổi sang Nguyễn Hùng Tiến, có nghĩa là anh hùng và tiến bộ để hợp với thời thế. Nhờ giỏi
đóng kịch thành con người hoàn toàn dấn thân cho “cách mạng”, Nguyễn Vinh Hoa dễ dàng bước lên địa
vị lãnh đạo cơ sở, mặt mũi lúc nào cũng khó đăm đăm, luôn luôn khắc nghiệt “giáo dục” cấp dưới về
quan điểm lập trường. Một hôm bị ốm, được người bạn Trần Lê Văn săn sóc, hắn thổ lộ con người thật
của hắn: cũng biết nhớ nhà, nhớ cha, nhớ mẹ rất là … tiểu tư sản. Tác giả kết luận bài viết của mình bằng
một câu rất hóm hỉnh, “Tôi có ý nghĩ hơi tệ: giá anh ốm mãi lại hoá hay”. Sau khi đọc xong bài viết của
ông Đằng đòi “thanh toán”, “tính sổ” với Đảng cộng sản, tôi cũng có ý nghĩ như ông Trần Lê Văn: “Giá
như ông Lê Hiếu Đằng bị nằm bệnh viện sớm sủa hơn thì ông ta đã tỉnh ngộ từ khuya rồi!”. Nhờ cơn thập
tử nhất sinh, ông Lê Hiếu Đằng mới chịu đọc sách (!) của các tác giả Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu,
Lê Lựu, Trần Dần rồi ông thổ lộ: “Các nhà văn đã cho tôi thấy thêm sự bi thảm của thân phận con người
trong cái gọi là CNXH ở Miền Bắc, một xã hội không có bóng người.”. Nữ ca sĩ Hoa Kỳ, Joan Baez
chống chiến tranh Việt Nam, ủng hộ Miền Bắc vì không hiểu dã tâm cộng sản; nhưng sau khi chứng kiến
hàng triệu người vượt biên, vượt biển tử nạn trên đường đi tìm tự do thì cô ta lập tức tỉnh ngộ và kêu gọi
những trí thức phản chiến danh tiếng trên thế giới như Jean Paul Sartre, Bertrand Russell công bố một
bản cáo trạng lên án bọn cầm quyền Việt Nam man rợ; còn ông Lê Hiếu Đằng phải đợi cho đến hơn 38
năm sau, nhờ ốm liệt giường liệt chiếu thì mới biết đường … tính sổ! Cái gì đã khiến cho ông Đằng
chậm tiêu, tối dạ, mãi đến bây giờ mới nhìn ra cái ác, cái lưu manh của cộng sản, nếu không phải là do
“khủng hoảng trí tuệ” mà người Mỹ gọi là căn bệnh “down syndrome symtoms”?
Tôi nói không sai: Sau năm 1954, gần một triệu người Miền Bắc bỏ lại tất cả để vào Nam tìm tự do; phim
“Chúng tôi muốn sống” trình bày cho nhân dân Miền Nam thấy một phần nào sự tàn ác cộng sản trong
cải cách ruộng đất; sách của cụ Hoàng văn Chí tố cáo cái chế độ ở Miền Bắc đối xử với con người giống
như con vật cũng không mở mắt được bọn mang danh trí thức mắc chứng “khủng hoảng trí tuệ” chạy
theo cộng sản. Rõ ràng một bọn ngu, nhưng không chịu nhìn nhận là ngu, cứ dẻo mồm khoe mình chạy
theo cộng sản vì yêu lý tưởng công bằng xã hội!
Là con người, ai ai cũng bị phạm lỗi lầm trong đời. Cái lỗi lầm chạy theo cộng sản là ghê gớm nhất, vì nó
đã khiến cho đồng bào mình điêu đứng, đất nước mình tan hoang. Sau khi thức tỉnh, nhận ra lỗi lầm mà
không dám công khai nói một lời ân hận để chuộc lỗi là hèn, là bất xứng để mang cái nhãn hiệu trí thức.
Ông Đằng kể chuyện bị tù trong lao Thừa Phủ, Huế, nhưng đến ngày thi mẹ ông hú họa làm đơn xin cho
con ra thi, thì được chính quyền chấp thuận, rồi tự hỏi: “Tôi không biết với chế độ gọi là “ưu việt” hiện
nay có người tù nào đã được cho ra đi thi như chúng tôi hay không?”. Tội nghiệp cho ông Đằng, hơn 38
năm sau ông mới thấy sự nhân đạo của chế độ Việt Nam Cộng Hòa, cái chế độ mà ông đã thẳng tay giật
sập. Thế mà ông Đằng vẫn xem chế độ nhân đạo ấy là “địch” vì bắt bỏ tù anh cộng sản nằm vùng
Nguyễn Ngọc Phương. Nhờ bố ông gửi cho mấy cuốn sách của các giáo sư Nguyễn Văn Trung, Trần
Văn Toàn và các tạp chí Sáng tạo, Hiện đại của nhà văn Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, nhà thơ Nguyên
Sa, Tô Hoàng Yên (có phải ông định viết Tô Thùy Yên?) để đọc mà ông Đằng thi đỗ bằng Tú tài hạng
thứ. Giá như bố ông gửi thêm cho cuốn “Trăm hoa ..” của cụ Hoàng văn Chí để ông đọc những bài viết
của cụ Phan Khôi (nhà cách mạng đồng hương Quảng Nam với ông) và những bài do bọn trí thức bồi
bút của chế độ cộng sản chửi cụ Phan Khôi thậm tệ thì có lẽ ông Đằng sẽ không chạy theo cộng sản?
Nên nhớ từ hồi bấy giờ, cụ Phan Khôi đã cảnh báo nước nhà sẽ bị nô lệ Tàu một lần nữa; chứ không đợi
cho tới bây giờ ông cựu Đại sứ Việt Nam ở Bắc Kinh – tướng Nguyễn Trọng Vĩnh – la hoảng về hiểm
họa Hán hóa! Nghĩa là cụ Phan Khôi đã biết chắc chắn rằng Hồ Chí Minh là kẻ bán nước.
Trước đây ông Đằng khoe ông từng bị Tòa án Mặt trận Vùng III Chiến thuật kết án tử hình khiếm diện,
nhưng ông vẫn không sợ, vẫn can đảm hoạt động nội thành. Nhưng nay sống trong cái chế độ cộng sản
của ông thì ông sợ, chưa bao giờ dám hé môi lên án sự bất nhân, bất nghĩa, bất lương của chế độ. Đợi
cho đến khi nữ nghệ sĩ Kim Chi tuyên bố không thèm nhận tấm bằng ban khen của một anh Thủ tướng
tham nhũng, ăn cắp tài sản nhân dân thì ông mới lợi dụng cơ hội viết bài khen sự dũng cảm của bà Kim
Chi đăng trên trang mạng bauxitevn.
Trong bài viết khi nằm bệnh viện của ông Đằng, tôi thấy có rất nhiều điểm mâu thuẫn nhưng tôi chưa cần
nêu lên bây giờ vì ngại bài viết đã khá dài. Tuy nhiên, có một điểm đáng khen ông Đằng tiến bộ hơn ông
Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh một chút. Đó là ông Đằmg không còn mang Hồ Chí Minh ra vái lạy như trong
cái thư ông viết cho bà Kim Chi. Còn ông Tướng Vĩnh thì hết thuốc chữa! Tôi đã viết cho ông Vĩnh một
bức thư nêu rõ cái ác, cái gian trá, phản phúc bán nước của Hồ chí Minh qua những bằng chứng lịch sử,
ông Vĩnh càng ca ngợi Hồ Chí Minh mạnh mẽ hơn, có lẽ vì ông Vĩnh vẫn tự cho rằng mình đi làm cách
mạng; chứ không hề nghĩ rằng mình là thủ phạm đã nằm trong một Đảng Cướp!
Ông Đằng viết: “Tôi nghĩ trong một thời gian dài ĐCS sẽ là một lực lượng chính trị mà không có bất cứ
lực lượng nào có thể tranh chấp được”. E rằng ông Đằng chủ quan quá chăng? Nếu có cuộc bầu cử
minh bạch dưới sự kiểm soát quốc tế đàng hoàng, tôi tin chắc rằng các đoàn thể tôn giáo, những nhà
tranh đấu cho dân chủ nhân quyền được tự do phơi bày tội ác của cộng sản hơn 70 năm qua thì sẽ họ
thu được phiếu của dân oan hoặc phiếu của người dân không phải đảng viên để loại bỏ chế độ cộng sản
độc tài toàn trị hiện nay ngay. Chính vì sợ mất vị thế thống trị nên bọn cầm quyền cương quyết thẳng tay
đàn áp ngay cả người biểu tình yêu nước. Làm đầu nậu cộng sản sướng lắm! Tha hồ ăn cướp, ăn cắp.
Ai phản đối thì cứ việc sai côn đồ, du đãng đánh đập, “Côn An” bỏ tù. Dại gì những ông cộng sản đầu
nậu rời bỏ chiếc ghế thơm phức? Chỉ khi nào mất chức mất quyền, mấy ông cộng sản đầu nậu mới nói
đôi câu nghe lọt lỗ tai như ông Võ văn Kiệt, Nguyễn văn An, Nguyễn Khoa Điềm …
Ông Đằng viết: “Không nên ngồi tranh luận với nhau về sự đúng, sai khi chọn lựa đứng bên này hay bên
kia.” Tôi nghĩ chẳng ai thèm ngồi tranh luận về sự đúng sự sai đối với những người chạy theo cộng sản.
Người ta nói về sự sai trái, độc ác của cộng sản là để mở mắt những kẻ còn u tối, mê muội còn tiếp tục
đi theo con đường tà. Đối với kẻ có một chút lương tri thì chỉ nhìn vào thực trạng đất nước hôm nay,
người dân điêu đứng ra sao, bọn cầm quyền nhu nhược ra sao thì đủ thấy cộng sản là sai bét bè be rồi!
Cái loại đần độn, ngu si như Nguyễn Phú Trọng và bè đảng còn bám vào cái gọi là “chủ nghĩa xã hội” là
vì cố bám vào chiếc ghế để dễ bề ăn cắp; chứ chẳng phải vì lý tưởng cái quái gì cả đâu. Ai nấy đều
thừa biết điều đó.
Tôi không phải là hạng người chống Cộng cực đoan. Tôi rất ý thức về sự hòa hợp hòa giải dân tộc, sự
đoàn kết để có sức mạnh chống ngoại xâm. Nhưng tôi không thể đứng chung hàng ngũ với hạng người
chẳng nhìn nhận mình đi theo cộng sản là sai, là làm khổ dân tộc, là làm mất nước và cứ xưng tụng, vái
lạy Hồ Chí Minh, một kẻ tiêu diệt trí thức (nguyên khí quốc gia), bán nước cầu vinh. Tôi muốn thấy sự
ngay thẳng, phân minh, dứt khoát.
Tôi cũng không phải là người theo chủ nghĩa hoài nghi, ngờ vực bất cứ điều gì, nhưng là người có kinh
nghiệm cộng sản. Cho nên khi đọc bài viết của ông Đằng kêu gọi đảng viên bỏ đảng tập thể, khen Việt
Nam Cộng Hòa nhân đạo mà sau đó ông vẫn bình an viết tiếp và tiếng nói của ông vẫn oang oang trên
đài phát thanh quốc tế thì tất nhiên tôi tự hỏi phải chăng Đảng cho phép ông Đằng viết và nói? Bởi vì chỉ
cần trương lên tấm bảng “Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam” như cựu chiến binh Điếu Cày Nguyễn
văn Hải là đủ lãnh 16 năm tù vì tội … trốn thuế hoặc nhạc sĩ Việt Khang chỉ làm vài bài nhạc tỏ lòng yêu
nước là đi tù. Tôi cứ phân vân tự hỏi rằng những lời tâm huyết của ông Đằng là thực hay giả, giống như
khi xưa Đảng bày ra chủ trương “trăm hoa đua nở” là nhằm quăng ra một mẻ lưới để biết ai trung thành
với đảng, ai chống đảng để bỏ tù.
Tôi hoan nghênh, cổ vũ những cựu đảng viên hay cảm tình viên cộng sản phản tỉnh, quay về với dân tộc.
Đồng thời, tôi cũng phải thận trọng để khỏi bị mắc lừa, rồi hối hận không kịp.
Nhận định sau cùng của tôi về bài viết trên giường bệnh của ông Lê Hiếu Đằng là sau khi đọc vài ba
cuốn sách mới nhìn thấy cái tệ hại của cộng sản đối với đồng bào và đất nước. Là luật gia, là nhà hoạt
động chính trị, ông Đằng nói đến thành lập đảng đối lập với chính quyền cộng sản có vẻ rất tài tử, khơi
khơi. Ít nhất ông phải phác họa vắn tắt về cái chủ trương, đường lối như thế nào để người đọc biết ý ông
ra sao. Tôi tự hỏi: Hoặc tại vì bản chất con người ông dễ dãi như khi ông tuyên thệ vào đảng cộng sản,
chẳng cần nghiên cứu điều lệ đảng, cứ việc đưa tay tuyên thệ trong “một buổi kết nạp chẳng có lời thề
thốt, cờ quạt gì cả”; hoặc ông bỗng nhiên được chỉ thị cấp trên gấp gáp quá nên cứ thế phóng ra bài viết
mà chưa kịp sửa soạn!?
Hiện nay các phe cánh trong đảng đang đấu đá lẫn nhau túi bụi. Tôi không chắc ông Lê Hiếu Đằng đứng
về phe nào. Dường ông Đằng đứng vào phe ông Nguyễn Tấn Dũng qua đoạn văn ông viết như sau: “Tôi
rất mừng nghe Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố ở hội nghị Shangri-La chống lại nền chính trị
cường quyền và những đối xử vô nhân đạo đối với ngư dân Việt Nam. Trả lời phỏng vấn một thiếu tướng
Trung Quốc, Thủ tướng đã khéo léo nói nước đó là nước nào ai cũng biết. Rõ ràng đây là cú đấm đích
đáng bọn bành trướng Bắc Kinh trong một diễn đàn quốc tế. Tôi càng thấy vui hơn khi được biết đây là ý
kiến của cá nhân Thủ tướng dám chịu trách nhiệm để tuyên bố như vậy chứ không có sự chỉ đạo nào
của Bộ chính trị cả. Vì thế mà Hạ Đình Nguyên trong một bài viết về vấn đề này đã hoan hô Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng đến 5 lần.”
Khi mới lên nhậm chức Thủ tướng, ông Dũng tuyên bố một câu làm cho mọi người “hồ hởi” (chữ của
cộng sản): “Trong đời, tôi thích nhất là sự chân thật và ghét nhất là sự dối trá”. Cách đây không lâu, ông
Dũng phê phán người xử lý vụ Đoàn văn Vươn là sai pháp luật, nhưng tiếp theo đó ông Dũng lại thăng
chức Tướng cho cái anh Đại tá Công An sai phạm và ra lệnh cho tòa án vẫn bỏ tù Đoàn văn Vươn sau
khi chống án. Vậy lời nói của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đâu có giá trị khả tín gì ở cái hội nghị
Shangri-La mà ông Đằng hoan nghênh nhặng xị lên thế kia? Đó là thêm một sự kiện nữa khiến cho tôi
không mấy tin tưởng vào thiện chí dân chủ hóa nền cai trị độc tài, độc đảng hiện nay.
Ông Lê Hiếu Đằng kêu gọi đảng viên cộng sản từ bỏ đảng. Chẳng hay bản thân ông Đằng đã bỏ đảng
chưa hay vẫn còn là người cộng sản. Nếu ông Đằng vẫn còn là người cộng sản thì tôi phải nhớ lời dặn
của cố Tổng thống Nguyễn văn Thiệu: “Đừng tin những gì cộng sản nói, mà hãy nhìn kỹ những gì cộng
sản làm!”. Tôi chờ đợi những hành động cụ thể kế tiếp của ông Đằng và cầu mong lời kêu gọi các đồng
chí bỏ đảng ngày càng đông. Nhất là những đồng chí Công An sống chết với đảng qua câu khẩu hiệu:
“Còn đảng còn mình”.
Chúc ông Lê Hiếu Đằng sớm hồi phục sức khỏe để có thể đóng góp một điều gì tốt lành cho nhân dân
cơ cực dưới chế độ cộng sản bất nhân, bất nghĩa hiện nay.
Tác giả: Bằng Phong Đặng văn Âu