Trại Sikiew, đêm văn nghệ mừng Năm Mới diễn ra trên Bãi Đá năm ấy có vài giọng ca gây bất ngờ. Đầu tiên phải kể đến Vân Đại Bàng với bài hát Đường Xưa Lối Cũ hay thần sầu, bà con vỗ tay rần rần.
Nói về “đại bàng”, hổng biết các trại tỵ nạn khác có không, chớ trại tỵ nạn Thailand thuở ấy thì nhiều vô số kể. Có những “đại bàng” từ Việt Nam “tiền án nhiều hơn tiền mặt”, có những “đại bàng” lang bạt sang Cambodia, rồi theo dòng đời nổi trôi đến trại tỵ nạn tiếp tục hành “nghề”, có những “đại bàng” do thời cuộc đời tỵ nạn nhào nặn bắt buộc phải làm “đại bàng” để mưu sinh, để tồn tại. Vì Thailand sát biên giới Cambodia và Cambodia sát biên giới Việt Nam nên có thể nói trại tỵ nạn Thailand có đủ các kiểu: đại gia, đại bàng và đại ca.
Tôi đã từng viết về đại bàng trại tỵ nạn, và chuyện đại gia trại tỵ nạn là mấy người trong đường dây nước hoa Thanh Hương Nguyễn Văn Mười Hai chạy qua trại trốn lệnh truy nã, hôm nay tôi xin kể chút xíu về đại ca cho đủ “bộ tam sên”.
Lúc mới nhập trại, bốn đứa chúng tôi bị nhóm dân miền tây khu kế bên gọi là "bốn cô Bắc Kỳ Hải Phòng" vì giọng nói của chúng tôi khác hẳn với kiểu nói "mình ên", "cá gô nằm trong gổ" của họ.
Bỗng một ngày kia, có một nhóm thanh niên, tướng tá khá ngầu, có người còn xăm trổ đầy mình, tìm đến nhà chúng tôi:
– Nghe nói mấy em là dân Bắc Kỳ nên các anh đến nhận "đồng hương đồng khói" đây.
– Úi chu choa, lộn rồi mấy anh ơi, tụi em là Bắc Kỳ 1954... 9 nút chớ hổng phải 2 nút 1975 như mấy anh đâu ạ!
Sau vài câu thăm hỏi quê quán ngoài ấy, cuối cùng họ bảo rằng "dù sao thì chúng ta vẫn là đồng hương Bắc Kỳ, mấy nút không quan trọng".
Từ đó, thỉnh thoảng trong trại, hễ có gặp nhau, hai bên vẫn gật đầu chào nhau, gọi nhau là "đồng hương đồng khói" rộn ràng.
Một thời gian sau, nhóm tôi chỉ có tôi đậu thanh lọc, nhóm "hai nút" cũng chỉ có một người đậu thanh lọc, đó là Nam Đại Ca hay còn gọi là Nam Nghệ Tĩnh. Nghe nói Nam trong nhóm bộ đội Việt Nam đóng quân bên Cambodia đào ngũ chạy qua trại tỵ nạn Thailand, chẳng biết thực hư ra sao, và cũng chẳng cần tìm hiểu tại sao người ta gọi là Nam Đại Ca.
Về trại Transit, chúng tôi ở chung lô, nhưng hầu như Nam Đại Ca ít khi có mặt ở nhà, tôi đi làm bên Cao Ủy từ sáng đến chiều về, luôn luôn thấy nhà Nam Đại Ca đóng cửa kín mít, chắc đại ca bận rộn đâu đó, có trời mới biết. Có lần hiếm hoi đụng mặt nhau, anh Nam bảo tôi:
– Nếu trong trại có ai gây sự với em thì cho anh biết, "đồng hương đồng khói" giúp đỡ nhau, anh sẽ "nói chuyện" phải trái với họ, em đừng lo.
Câu này quen quen vì anh Vân Đại Bàng cũng từng nói với chúng tôi như thế tại Sikiew, và tôi cũng đáp y chang:
– Úi anh ơi, em nhát hít, nào dám gây sự với ai. Họ mà lớn tiếng là em co giò chạy trước.
Thỉnh thoảng trời về khuya, Nam Đại Ca tụ tập vài thanh niên, dù là giờ giới nghiêm, chắc là “quen lớn” với Ban An Ninh trại, nên vẫn ngồi đàn guitar, hát nhạc mùi bolero, cả lô mọi người nằm im, nghe lại những bản nhạc vàng trước năm 1975 mà thả hồn về quá khứ mộng mơ. Riêng tôi có khi thao thức đến nửa đêm về sáng, vì những lời nhạc gợi nhớ quê hương, nhớ kỷ niệm bỏ lại quê nhà, chớ hổng phải thao thức vì ... đại ca đâu á. Sau đó, Nam Đại Ca đi định cư bên Úc, không biết bây giờ ở bên Úc, anh Nam còn là "đại ca" không nhỉ.
Trở lại chuyện đêm nhạc có anh chàng Vân Đại Bàng ca bài Đường Xưa Lối Cũ.Tôi thích bài này lắm, nhưng tôi đâu có “số má” mà được quen biết với “đại bàng” để hỏi chép giùm bài hát.
Một tuần sau, Vân Đại Bàng sau chầu guýnh lộn say xỉn, bị bắt giam. Tôi có đi theo bà boss Cao Ủy vào lập danh sách tù nhân. Tôi được dịp trò chuyện với Vân Đại Bàng, khen anh hát Đường Xưa Lối Cũ thật truyền cảm, và ngỏ ý muốn có bài hát ấy. Vân Đại Bàng vui vẻ, kêu tôi đưa giấy bút, vài ngày sau anh gửi bài hát ra cho tôi, và ngoài sự mong đợi, anh ấy viết lời bài hát trên nền một bức tranh, có “trăng treo trên đồi”, có “bóng tre che thôn nghèo” mơ màng, rất đẹp. Nét chữ lả lướt, tranh vẽ cũng lả lướt bằng nét bút chì, dưới góc phải ký tên Vân, đó là cả một tác phẩm chan chứa tâm hồn nghệ sĩ, tôi say sưa ngắm bài hát trên bức tranh, quên hẳn anh ấy là... “đại bàng”! (Tôi sẽ có một bài viết riêng về cuộc đời Vân Đại Bàng).
Cũng trong đêm văn nghệ ấy, còn có tiết mục “Sài Gòn Đẹp Lắm” do chú Sanh trình bày. Nếu Vân Đại Bàng hát Đường Xưa Lối Cũ ngọt ngào, thiết tha làm mọi người thổn thức, thì chú Sanh khuấy động cả trại với điệu chachacha vui nhộn, giọng hát đầy nội lực, khán giả reo hò nhún nhảy theo.
Chú Sanh là hàng xóm dưới lầu chung lô. Sáng nào chú cũng mặc quần shorts áo thun ra bãi đá đánh tennis. Buổi trưa chú hay ngồi trước nhà, đeo mắt kiếng đọc sách báo hoặc uống trà với vài người quen, nói chung là cuộc sống rất nề nếp.
Trước khi làm việc cho Cao Ủy, tôi từng là nhân viên bưu điện trong trại, chú Sanh là người thường xuyên lên lãnh thư bảo đảm có tiền thân nhân nước ngoài gửi đều đặn, thành ra tôi cũng gọi là có chút quen mặt với chú ấy.
Nói hổng phải khoe (mà thực sự cũng là ... khoe), hồi đó nhân viên bưu điện có giá lắm, vì mỗi ngày có hàng trăm người xếp hàng chờ lãnh thư, ai cũng biết mặt.
Mỗi chiều đi làm về, ngang qua các lô nhà, bà con chào hỏi thân thiện, luôn kèm theo câu hỏi: “ngày mai tui có thư không cô Loan?” (chả là mỗi cuối giờ trưa, bưu điện đón nhận cả một xe thư, chúng tôi đổ các bao bố đựng thư ra, phân loại, rồi ghi vào list, sáng hôm sau dán list cho người tỵ nạn đến dò thư ). Có vậy thôi, nhưng là đem niềm vui đến trước, dù chỉ một đêm, mà bà con ghi nhớ và…thương mến.
Chị Hảo nhóm chúng tôi nghe chú Sanh ca “Sài Gòn Đẹp Lắm” là mê tơi, muốn có bài hát đó để tập múa cho mấy em trong Thiếu Nhi nhân dịp Lễ và văn nghệ của Nhà Thờ, nên chạy đến chú Sanh nhờ chép giùm bài này, nhưng đã bị chú từ chối thẳng thừng, tôi nghe tin mà chưng hửng! Dẫu biết chú Sanh là người khó tính và sống khá xa cách với mọi người xung quanh, nhưng chỉ là chép lời một bài hát thôi mà, Vân “Đại Bàng” còn nhận lời chép cái rụp không nghĩ suy, có sao!?
Bỗng nhiên, chị Hảo reo lên:
– Loan ơi, chỉ có em mới giúp chị chuyện này.
– Em giúp được ư?
Chị nhìn tôi, mắt long lanh:
– Chúng ta đành phải áp dụng “mỹ nhơn kế”, ý lộn, nói chính xác là “Loan bưu điện kế”, chắc chắn với cái uy bưu điện của em, chú Sanh sẽ nhận lời.
Hà và Quyên, hai nàng còn lại trong nhóm cùng vỗ tay, tán thành “tuyệt chiêu” của chị Hảo. Gì chớ, bốn đứa ăn ở chung với nhau nên họ rành lắm cái “uy” của tôi.
Còn nhớ thời kỳ cao điểm ở trại, hàng tuần đều có hàng trăm người tỵ nạn nhập trại, cả đường bộ lẫn đường biển, dân số gia tăng chóng mặt, nên trại phải mở thêm trại mới bên kia con đường, cách nhau hai lớp hàng rào kẽm gai. Lúc này, trại bắt đầu giải quyết cho những trường hợp người thân của hai bên qua lại thăm nhau, sáng đi chiều về, nhưng phải xin giấy phép từ văn phòng cộng đồng. Người ta nườm nượp xếp hàng dài, vì mỗi tuần chỉ có một chuyến vào ngày chủ nhật, mỗi chuyến cỡ chục người, có ban An Ninh dẫn đầu, đi qua cổng lính Thái, băng qua con lộ lớn, đi một đoạn vào con đường đất đỏ, là tới cổng trại mới, trình giấy tờ cho lính Thái, xong tha hồ rong chơi, đến 4 giờ chiều tập trung lại ngay cổng để đi về.
Tôi thuộc loại… ham vui, cũng muốn qua bển xem nó tròn méo ra sao, nhưng chưa có lý do chính đáng. May quá, lúc đó nghe tin một chị “bà con” xa lắc xa lơ mới nhập trại, tôi bèn mạnh dạn đến gặp chú trưởng trại người Việt, chú hỏi:
– Cô đi thăm ai? Nên nhớ là bây giờ chỉ ưu tiên cho người thân, họ hàng thôi nhé.
– Dạ, con có… bà con xa.
– Xa như thế nào, nói nghe coi.
– Dạ, đại khái… rằng… thì… là, mẹ của chị ấy là… chị dâu của… anh rể con.
– Trời, hiểu chết liền! Cô nói rõ cho dễ hiểu chút đi.
– Hay nói cụ thể hơn nè chú: Bố của chị ấy là anh ruột của anh rể con, hay có thể nói gọn hơn là, chị ấy gọi chị ruột của con là Thím. Nghe có gần hơn hông chú?!
Chú trưởng trại lắc đầu nguây nguẩy:
– Thôi cô càng nói tôi càng nhức đầu, nhưng vì cô làm nhân viên bưu điện, tôi ưu tiên giải quyết lần này thôi nhe.
Tôi cám ơn chú rối rít và trong bụng cũng cám ơn cái job “nhân viên bưu điện” của mình biết bao. Có lần, một anh chàng lạ hoắc nói giọng rặt miền Tây nam bộ đến nhà tôi:
– Chiều mai mời chị đến nhà em ăn vịt nấu chao nha, con vợ em nó nấu ngon lắm, ăn quên sầu luôn.
– Mà có gì sao em mời chị?
– Dạ, ngày giỗ ba em đó chị, nhà em ở lô bên kia, em mời chị tại vì chị làm…bưu điện!
Cho nên, được sự tin tưởng của cả nhóm, tôi mạnh dạn hớn hở đến nhà chú Sanh vào buổi sáng chúa nhật đẹp trời, chú đang thong thả bên ấm trà và đọc sách.
Tôi giả lả:
– Chào chú Sanh, chú đọc sách gì vậy cà?
Chú tháo cặp mặt kiếng, nhận ra tôi, cũng mỉm cười:
– À, cuốn Hợp Lưu bạn bè bên Mỹ gửi.
Rồi chú nhìn tôi như biết được “ý đồ” của cuộc thăm viếng bất ngờ này:
– Cô Loan đến tìm tôi có chuyện gì không?
Đã thế thì tôi chẳng cần rào trước đón sau nữa:
– Chú ơi, hôm bữa chú ca bài “Sài Gòn đẹp lắm” hay quá chừng luôn, nhờ chú chép lại cho tụi con tập múa cho mấy em trong nhà thờ, nhé?
Sắc mặt chú thay đổi, có vẻ không vui, rồi nhìn ra ngoài sân:
– Tui ca đại chớ hổng nhớ lời!
– Ủa, bữa đó chú ca ngon lành suông sẻ lắm mà?
– Thì nhớ gì ca nấy, chớ có bài bản gì đâu!
Tôi cố tiếp tục:
– Dạ, chú nhớ sao thì chép cho tụi con vậy cũng được.
Lần này thì chú nghiêm mặt, dứt khoát:
– Thôi cô đừng năn nỉ mất công, tôi đã nói với cô Hảo rồi, khi nào nhớ ra tui sẽ chép cho.
Tôi tiu nghỉu bước ra về, lần đầu tiên trong đời... tỵ nạn, cái uy “Loan bưu điện” chẳng có kí lô nào. Về tới nhà, cả nhóm đang chờ, nhìn tôi với những cặp mắt hy vọng, miệng chúm chím chuẩn bị những nụ cười rạng rỡ. Tôi đi thẳng ra sau nhà, vẫn kịp liếc chị Hảo một cái, rồi hờn mát (hờn ai, hổng biết!):
– Ối, còn thiếu gì bài hát hay để múa, cần gì “Sài Gòn Đẹp Lắm”?! Chị lo kiếm bài khác mà tập cho mấy đứa nhỏ, chú ấy sẽ không bao giờ… nhớ ra đâu!
Tháng Bảy 2023
Kim Loan