Một câu hỏi được đặt ra bởi Karl Marx, sau đó được nối tiếp bởi các đàn em từ Lénine qua Staline tới Mao, Lưu thiếu Kỳ, Hồ chí Minh, Lê Duẫn, là: "Cuộc tranh hùng tư bản - cộng sản, ai thắng ai?". Câu trả lời của người cộng sản, bắt đầu từ Marx, là người cộng sản chắc chắn sẽ thắng.
Có người cho rằng cuộc tranh hành hùng này, dưới hình thức Chiến tranh Lạnh, đã chấm dứt với sự sụp đổ của Liên sô. Có ý kiến lại cho rằng Chiến tranh Lạnh vẫn chưa chấm dứt, vẫn tiếp tục với cuộc tranh hùng Hoa kỳ - Trung cộng, Hoa kỳ - Nga, điểm nóng mới đây với vấn đề vũ khí hóa học ở Syrie. Và câu hỏi vẫn tiếp tục, đó là: “Trong cuộc tranh hùng này, ai sẽ thắng ai?”
Chúng ta hãy cùng nhau xem xét vấn đề trên từ đầu cho tới ngày hôm nay.
Cộng sản, nếu chúng ta lấy mốc thời gian là năm 1848, khi quyển Tuyên Ngôn thư Đảng cộng sản, viết bởi K. Marx, được xuất bản ở Anh vào năm này, cho tới nay là 165 năm; nếu chúng ta lấy mốc thời gian là năm 1917, khi Lénine cướp được chính quyền ở Nga, thì là 96 năm. Trong thời gian đó, có nhiều biến cố lịch sử đã xảy ra, và quả thực trong đó có cuộc tranh hùng tư bản và cộng sản.
Theo lời tiên tri của Marx và những người cộng sản, thì tư bản chắc chắn sẽ thua. Karl Marx viết: "Vũ khí mà giai cấp tư bản dùng để hạ bệ chế độ phong kiến sẽ quay trở lại chống họ ngày hôm nay. Giai cấp tư bản không những tạo ra những vũ khí tiêu diệt họ, mà còn tạo ra những người xử dụng vũ khí này: thợ thuyền hiện đại, giai cấp vô sản" (K. Marx - le manifeste du Parti communiste -trang 27 - Nhà xuất bản Union générale d’editions - Paris 1962).
Từ đó Marx đưa ra tư tưởng cách mạng tất yếu, không thể tránh được, theo đó, trong xã hội tư bản, giai cấp chủ ngày càng ít và càng giàu, giai cấp thợ ngày càng đông và càng nghèo; hố ngăn cách giàu nghèo ngày một lớn, tất yếu sẽ dẫn đến cách mạng.
Marx cho rằng cách mạng cộng sản sẽ xảy ra ở những nước kỹ nghệ tân tiến, vì chỉ ở những nước này mới có giai tầng thợ thuyền. Lúc đầu Marx hy vọng ở Anh, sau đó quay sang Đức. Nhưng Marx (1818 – 1883) chờ đợi cách mạng cho tới khi chết. (1)
Ba mươi bốn năm sau, Lénine cướp chính quyền ở Nga, thực hiện lý thuyết của Marx, vì vẫn tin tưởng cách mạng cộng sản tất yếu, vẫn nghĩ rằng cộng sản sẽ thắng tư bản. Lénine viết: “Tụi tư bản vừa ngu lại vừa tham. Chúng ngu và tham ở chỗ, người ta mua dây thừng để treo cổ chúng, thế mà chúng vẫn sản xuất và bán cho người ta.”
Chính vì vậy mà Lénine đã thành lập ra Đệ Tam Quốc Tế Cộng sản vào tháng 3 năm 1919, cho rằng Đệ Nhị Quốc tế Cộng sản, được thành lập trước đó vào tháng 7 /1889, bởi những đảng Xã hội, Dân chủ Xã hội, với những người như Bernstein, Kautski, Lassalle, đã bị đầu độc bởi tư bản; vì Đệ Nhị, mặc dầu vẫn giữ tư tưởng giai cấp, nhưng bãi bỏ quan niệm độc tài vô sản của Marx, điều mà Lénine chống lại.
Đệ Nhị sau trở thành Quốc tế Xã hội (Internationale Socialiste), từ năm 1939, như chúng ta thấy ngày hôm nay.
Lúc đầu Lénine nghĩ rằng có thể làm cách mạng ở Âu châu, nhưng những cuộc nổi dậy ở Âu châu như ở Đức năm 1919, ở Hung gia Lợi năm 1918, đều thất bại. Lénine nghĩ ra phương pháp xuất cảng cách mạng sang những nước chậm tiến, qua câu nói ở Đại hội của Đệ Tam Quốc tế Cộng sản kỳ IV: "Cách mạng cộng sản sẽ qua cửa ngõ Tân đề ly (Ấn độ), Bắc kinh (Tàu), rồi mới tới Paris và Luân đôn". Rồi Lénine chết năm 1924.
Ở đây, tôi không nói nhiều đến những cuộc đấu đá nội bộ trong đảng cộng sản Liên sô. Chúng ta chỉ nên biết là Đảng và Nhà nước do Lénine lập ra, mà bà Rosa Luxembourg, người của Đệ Nhị, bạn của Lénine, đã viết cho ông, ngay từ lúc đầu vào năm 1919: "Cái Đảng và Nhà nước mà Anh (tức Lénine, lời tác giả bài này) lập lên, Anh bảo là để phục vụ thợ thuyền và nhân dân. Nhưng trên thực tế, nó chẳng phục vụ một ai, vì nó đã đi ngược lại những nguyên tắc căn bản của xã hội chủ nghĩa: đó là tôn trọng tự do và dân chủ."
Cái Đảng và nhà nước này nó còn là một chiến trường để những người cộng sản đấu đá, thanh trừng, giết hại nhau, ngay từ cuối đời Lénine.
Thật vậy, Lénine chết vào năm 1924, nhưng từ những năm 22, 23, Lénine đã bệnh nặng, liệt nửa người, do mắc bệnh giang mai, đã ăn sâu vào hệ thần kinh và óc, mà lúc đó chưa có thuốc trụ sinh, người ta chỉ chữa cầm chừng, giảm đau qua việc cho uống "độc dược". Người lo chăm nom Lénine, không ai hơn là Stalin, lúc đó đang làm thư ký đảng. Khi Staline biết rằng Lénine không còn tin mình nữa, đang tìm cách loại mình ra khỏi Trung Ương Đảng, thì Staline đã cho Lénine uống liều độc dược cao, đưa đến cái chết. Đây là chính vợ của Lénine tố cáo. Sau khi Lénine chết những cuộc cuộc đấu đá trong Đảng không ngừng xảy ra. Đầu tiên là đấu đá giữa Staline và Trotski, sau đó đến những cuộc thanh trừng nội bộ do Staline thực hiện, đưa đến việc loại trừ 90% những người trong Trung Ương Đảng, 90% sĩ quan cao cấp trong quân đội, đưa đến 20 triệu người chết (theo Stéphane Courtois, Nicolac Werth v.v... - Le livre noire du communisme - Crimes, terreur, répression - trang 8 - nhà xuất bản Robert Laffont - 1997 - Paris).
Trở về cuộc tranh hùng tư bản - cộng sản, chúng ta nên nhớ là ngay sau khi Lénine cướp được chính quyền thì Anh, Pháp, Mỹ, Hoa kỳ v.v... gửi quân đến Nga giúp đỡ những người Bạch Nga, nhằm lấy lại chính quyền, nhưng thất bại, đi đến sự hòa hoãn tư bản - cộng sản. Bởi lẽ đó, Liên sô đã ký Hiệp Ước thân thiện, buôn bán với Anh năm 1921. Ngay thời điểm này, Lénine đã ý thức rõ sự không tưởng của lý thuyết Marx, trong thời gian áp dụng lý thuyết này 3 năm từ 1918 đến 1921, đưa đến nạn đói, vì sự phản đối của dân, vì cảnh "Cha chung không ai khóc. Ruộng chung không ai cày. Nhà chung không người chăm sóc". Chính vì vậy mà Lénine đã phải cho ra Chính Sách Kinh tế mới (NEP). Lénine còn nghĩ mình sai lầm qua việc cho Đảng đứng trên mọi tổ chức, ngay cả trên Nhà nước và Quân đội, mà lúc đó người nắm nhà nước và quân đội là Trotski; và người nắm đảng là Staline. Chính vì vậy mà Lénine muốn loại bỏ Staline lúc sau này, nhưng không kịp, thì chết. Từ đó sự đấu đá giữa Trotski và Staline đã được định sẵn là Trotski thua, vì Staline nắm Đảng, cao hơn mọi tổ chức.
Tình hình thế giới lúc bấy giờ, ngoài sự thanh trừng đẫm máu ở Liên Sô, người ta phải kể đến sự lên nắm quyền của Phát xít Ý, của Mussolini vào năm 1923, và của Phát xít Hitler vào năm 1933 ở Đức.
Rồi Đại Chiến thứ Nhì (1939 – 1945) xảy ra.
Trong thời gian đại chiến, sự hợp tác tư bản - cộng sản lại xảy ra qua việc hợp tác Hoa kỳ, Anh và Liên sô để diệt Phát xít. Sau khi đại chiến chấm dứt, thì chiến tranh giữa tư bản và cộng sản lại tái diễn, dưới hình thức Chiến tranh Lạnh.
Có người nói Chiến tranh Lạnh bắt đầu từ năm 1947, khi Churchil, Thủ tướng Anh, đọc bài diễn văn ở một đại học Hoa kỳ nói rằng: "Bức màn sắt đã buông xuống ngăn chặn 2 thế giới tự do và cộng sản". Nhưng thực ra thì Chiến tranh Lạnh đã bắt đầu ngay lúc còn Đại Chiến thứ Nhì, ngay sau khi Hội Nghi Yalta, họp từ ngày 4 đến ngày 11/2/1945, gồm có Roosevelt, Staline và Churchill; vì trong Hội Nghị này, Roosevelt đã nhượng bộ Staline quá nhiều, như nhiều người sau này than trách, và ngay sau hội nghị, trước khi chết vào ngày 12/4/1945, 2 tháng sau khi dự Hội nghị, qua những bức thư của Roosevelt gửi cho vợ và bạn bè thân, theo đó, ông đã bất mãn, vì nhận thấy rằng Staline đã đồng ý trên lý thuyết ở bàn hội nghị, nhưng trên thực tế làm hoàn toàn trái lại. Chỉ lấy thí dụ điển hình là nước Ba Lan, theo nguyên tắc, thì sau khi thoát khỏi Đức Quốc xã, phải có một cuộc bầu cử tự do để chọn ra người đại diện cho dân tộc này. Nhưng Staline đã ngầm giúp đỡ đảng cộng sản, xúi dục đảng này nổi lên cướp chính quyền. Không những thế, khi tràn quân sang Ba lan, Staline còn cho quân đội Liên sô ăn mặc giả dạng quân đội phát xít, tìm cách thủ tiêu hơn 20 000 sĩ quan quân đội quốc gia Ba lan chống Đức. Sự kiện này chính Gorbatchev, Tổng bí thư Đảng cộng sản Liên sô, tiết lộ sau này.
Có người còn cho rằng Chiến tranh Lạnh bắt đầu ở Hội Nghị Potsdam, họp từ ngày 17/7 đến ngày 2/8/ 1945, giữa Truman, Staline và Churchill, qua 2 sự việc:1) họ cho rằng tại hội nghị này, người Cố vấn cho Tổng thống Truman là ông Paul Nitzé, Chủ tịch Hội đồng An ninh quốc gia và cũng là tác giả của Chiến Lược Be Bờ (Containment Policy) suốt trong thời Gian Chiến tranh lạnh, đã suy nghĩ về chiến lược này, ngay trong hội nghị; 2) Sự việc thứ hai đó là chính trong Hội nghị này, Truman đã báo cho Staline về việc Hoa kỳ có bom nguyên tử.
Thật vậy, Paul Nitzé đã mang theo quyển truyện Trại Xúc Vật (Animal Farm) của nhà văn hào người Anh Georges Orwells, cũng là quyển sách gối đầu giường của ông; và có người nói rằng chính ông đã đưa cho Staline đọc.
Theo quyển truyện, và người đọc nhận ra rằng nhà văn hào Anh này đã chỉ trích và nhạo báng cộng sản. Theo đó, trong một trại súc vật nọ, nào là heo, gà, trâu, ngựa v.v... có một con heo già kia, mà người ta đoán ngay ra rằng đó là ám chỉ K. Marx, vì con heo này vừa già, vừa lười biếng, vừa ở dơ, hay ngủ trưa. Trong một giấc ngủ vào một đêm nọ, nó đã nằm mơ tới thiên đàng súc vật, trong đó mọi con vật đều sung sướng, ăn uống đầy đủ, không phải làm việc cực nhọc, còn được nghe âm nhạc, như nghe tiếng mẹ heo già ru con. Khi bừng mắt dậy, con heo già nhận thấy thực tế quá trái ngược và đau khổ. Nó suy nghĩ tìm ra nguyên nhân. Sau cùng nó đã tìm ra: đó là vì con người, tại con người bóc lột súc vật. Nó đã qui tụ súc vật lại để thuyết phục và hô hào nổi lên làm cách mạng súc vật. Lúc đầu ông chủ trại có kháng cự nhưng sức mạnh súc vật quá mạnh, ông đành buông tay.
Nhờ kho thóc do ông chủ để lại còn nhiều, nên thời đầu cách mạng, súc vật ăn uống hỉ hả, chia chác công bằng. Nhưng rồi sau đó, vì súc vật không biết làm kinh tế, kho thóc cạn dần, sinh ra cắn quái nhau.
Georges Orwells còn viết quyển truyện mang tên số “1984”, tố cáo sự độc tài của chế độ cộng sản và ông tiên đoán chế độ này sẽ sụp đổ vào năm 1984, nên quyển truyện mang tên như vậy.
Chính Paul Nitzé, với sự cộng tác của Georges Kennan, Thứ Trưởng Ngoại giao thời bấy giờ, đã lấy ý từ quyển truyện "Trại súc vật" này, để làm ra Chính Sách Be Bờ (Containment Policy), được gói ghém trong Chỉ thị mang tên Chỉ thị số 56 của Hội đồng An ninh Quốc gia, mà tất cả những nhà ngoại giao Hoa kỳ, suốt trong thời gian Chiến tranh Lạnh, coi như kim chỉ nam cho chính sách ngoại giao, và chỉ khi chiến tranh này chấm dứt, Chỉ thị này mới được tiết lộ ra ngoài.
Theo đó: Phải kiên nhẫn chờ đợi. Cố làm thế nào để Liên sô không dùng các nước Tây Âu để bắt chẹt Hoa kỳ. Phải hành xử khéo léo để đưa Liên sô trở lại con đường tự do, dân chủ với cộng đồng thế giới. Phải làm thế nào để ngăn chặn cộng sản tràn xuống vùng Đông Nam Á. Có người cho rằng Chính Sách Marshall, giúp đỡ kinh tế Tây Âu, để các nước này không bị lâm vào tình trạng đói nghèo, khủng hoảng kinh tế, bị những đảng cộng sản lợi dụng, xúi dục thợ thuyền đình công cũng như Chính sách Dominos ở Đông Nam Á ngăn chặn cộng sản, cả hai đều lấy ý từ Chính sách Be Bờ. Về việc Truman tiết lộ Hoa kỳ có bom nguyên tử cho Staline, rồi sau đó, 2 trái nguyên tử thả xuống Hiroshima ngày 06/8/1945 và 9/8, ba ngày sau, xuống Nagashaki, có người đặt câu hỏi tại sao Hoa kỳ làm vậy. Có nhiều câu trả lời, đại để là 3 câu chính: Vì Hoa kỳ muốn trả thù Nhật đã oanh tạc Trân châu cảng trước đó vào ngày 7/12/1941, mà không tuyên chiến với Hoa Kỳ; có người nghĩ rằng là để chấm dứt chiến tranh sớm, tiết kiệm xương máu cho lính Hoa kỳ; người khác lại cho rằng là để cảnh cáo Liên sô, phải giữ lời hứa, không thể xua quân chiếm đất thêm như đã hứa trong 2 hội nghị.
Qua nhiều tài liệu lịch sử, thì trước khi 2 trái bom được thả, Liên sô đã sửa soạn và định đổ bộ quân lên một số hòn đảo của Nhật gần với Liên sô, nhưng sau đó phải ngưng. Theo tôi nghĩ thì có cả 3 lý do.
Sở dĩ tôi nói rằng Chiến tranh Lạnh đã bắt đầu ngay trong Hội Nghị Potsdam là vì 2 lý do: Truman báo cho Staline rằng Hoa kỳ đã có bom nguyên tử, vừa để thông báo, vừa để cảnh cáo; và lý do nữa là Paul Nitzé đã suy ngẫm, ít nhất là từ lúc đó, về Chiến lược Be Bờ qua quyển truyện Trại súc vật vừa nói. Nếu nói từ cuối Thế Chiến thứ Hai đến lúc Liên Sô sụp đổ vào đầu năm 1991, thì như vậy là 46 năm, gần nửa thế kỷ. Trong thời gian nửa thế kỷ đó, cuộc tranh hùng tư bản - cộng sản đã diễn ra dưới hình thức mà người ta gọi là Chiến tranh Lạnh. Trong cuộc chiến này, với thời gian lâu dài như vậy, tất nhiên có nhiều biến cố lịch sử, chính trị, kinh tế và quân sự, có nhiều sự lên xuống, lúc thì người ta nghĩ bên này thắng, lúc thì người ta nghĩ ngược lại bên kia thắng. Cả 2 bên đều dùng chiến lược để đương đầu với nhau.
Có thể nói lúc đầu là phía cộng sản, đứng đầu bởi Liên sô, dùng chiến lược tấn công, còn phía tư bản, đứng đầu bởi Hoa kỳ dùng chiến lược phòng thủ, vì Chính sách Be bờ (Containment Policy) có nghĩa là phòng thủ, người ta tấn công, mình phòng thủ, be bờ để đỡ vỡ phòng tuyến. Nhưng sau đó, ngược lại, Hoa kỳ dùng chiến lược tấn công và Liên sô dùng chiến lược phòng thủ. Chiến tranh Lạnh có thể được chia ra một cách rất tương đối làm 2 thời ký: Thời kỳ đầu từ cuối Thế Chiến đến năm 1975 với mốc điểm của Hội Nghị Helsinski (1975); thời kỳ thứ nhì từ năm 1975 tới năm 1991.
Thời gian đầu của Chiến tranh Lạnh: Ở đây, có người lấy mốc điểm thời gian là 1972, từ cuộc gặp gỡ Nixon - Mao ở Bắc kinh, điều này cũng không sai; nhưng tôi lấy mốc điểm là 1975, với Hội nghị về An ninh và hợp tác châu Âu họp ở Helsinki, thủ đô nước Phần lan, mà bản văn kiện được ký vào ngày 1/8/1975, bởi tất cả những nước Âu châu, thêm sự có mặt của Hoa Kỳ và Gia nã đại. Theo tôi đây là mốc điểm mà Liên sô gần như chính thức từ bỏ mộng tranh hùng thế giới, từ thế công sang thế thủ, chấp nhận, và yêu cầu thế giới chấp nhận những phần đất mà mình đã chiếm được, tiêu biểu là phần đất chiếm của Ba Lan. Như chúng ta vừa trình bày, thời gian đầu của Chiến tranh Lạnh, cộng sản Liên sô dùng chiến lược tấn công, mà người ta có thể nói tiêu biểu là cuộc phong tỏa thành phố Bá Linh vào năm 1948. Sau Thế Chiến, nước Đức bị chia hai, một bên tư bản, một bên cộng sản. Nhưng một điều oái oăm là thủ đô Bá linh, nơi có đại diện của 4 cường quốc thắng trận là Hoa Kỳ, Liên sô, Anh và Pháp, lại nằm trong phần đất thuộc về cộng sản Đông Đức.
Để bắt đầu chiến lược tấn công của mình, Liên sô phong tỏa Bá linh, có nghĩa là chặn đường tiếp tế bằng đường bộ cho 3 Phái đoàn Hoa Kỳ, Anh, Pháp ở Bá linh và cả người dân sống dưới sự ảnh hưởng của 3 phái đoàn này. bắt buộc Hoa kỳ phải mở cầu không vận để tiếp viện.
Lúc này cũng là lúc chiến tranh quốc cộng giữa Tưởng giới Thạch và Mao trạch Đông đang diễn ra khốc liệt ở Tàu. Có người cho rằng cuộc phong tỏa Bá linh có ảnh hưởng đến cuộc nội chiến Tầu và cũng là một trong những nguyên nhân chính đưa đến sự thất bại của Tưởng giới Thạch. Điều này không sai. Bản cũ soạn lại, trên lý thuyết và nguyên tắc, thì Staline công nhận Tưởng giới Thạch là đại diện chính thức của Tàu, quyền giải giới quân đội Nhật ở Tàu là thuộc về Tưởng. Tuy nhiên ở Mãn châu, vùng đất gần Liên sô, Staline đã ngầm báo cho quân đội cộng sản Tàu của Mao gửi quân tới sớm để hẫng tay trên Tưởng giới Thạch. Chúng ta lấy một thí dụ đơn giản là trường hợp ông vua cuối cùng đời Mãn Thanh, được Nhật dựng lên từ năm 1933 ở vùng này, sau đó, do quân đội Liên sô đến trước, đã bắt ông này về Nga, sau mãi tới năm 1950, mới thả về Tàu cho Mao trạch Đông.
Staline đã giải giới quân Nhật sớm ở Mãn châu rồi trao vũ khí cho quân của Mao. Tưởng giới Thạch có gửi những đoàn quân tinh nhuệ tới vùng này, nhưng đã trễ, bị lâm vào hoàn cảnh sa lầy, bị quân của Mao bao vây, đường tiếp tế bằng xe lửa và xe hơi rất khó khăn, vì thường bị quân cộng sản chặn đánh, cướp phá. Chỉ còn con đường tiếp viện bằng hàng không và chỉ trông cậy vào Hoa kỳ. Tuy nhiên chính phủ Hoa kỳ, sau khi Nhật đầu hàng, thì coi như đại Chiến thứ Nhì chấm dứt, ngân sách quốc phòng bị cắt giảm, thêm vào đó không quân còn phải tiếp viện cho Bá linh. Tiếp theo vụ phong tỏa bá linh năm 1948, là vụ sụp đổ chính quyền Tưởng giới Thạch ở lục địa 1949.
Đây là một biến cố lịch sử vô cùng to lớn, cán cân chiến lược, quân sự ngả hẳn về phía cộng sản, vì ngoài những phần đất chiếm được ở Đông Âu, Hàn quốc và Việt Nam, nay có thêm một phần đất lớn như nước Tàu với một dân số cả nửa tỷ dân lúc bấy giờ. Tiếp theo cuộc nắm quyền của Mao, là chiến tranh Triều Tiên năm 1950, quân đội của Kim nhật Thành đã tràn xuống phía nam. Để ngăn chặn, Hoa Kỳ bắt buộc phải đổ quân vào bán đảo này. Để quân bằng lại, Trung cộng cũng gửi quân sang giúp Bắc Triều Tiên. Chiến tranh Triều Tiên, có nhà bình luận cho rằng việc Mao chiến thắng Tưởng quá lẹ, lại cướp được nhiều võ khi, khiến quân đội Mao trở nên lớn mạnh, được biểu hiện qua cuộc diễn binh chiến thắng liền sau đó, làm cho Staline đã nghĩ đến việc thế giới cộng sản sẽ bị hiểm họa chia hai, như chúng ta thấy sau này. Vì vậy Staline xúi dục Kim nhật Thành gây chiến ở Triều Tiên, vừa làm cho Mỹ khó khăn, vừa làm cho Trung cộng, nước sát bên cạnh, cũng phải gửi quân sang để giúp Kim nhật Thành, làm cho Trung cộng không có thời giờ để lo chấn chỉnh, kiến thiết, xây dựng để lớn mạnh, để có thể tranh quyền lãnh đạo thế giới cộng sản với Liên sô. Việc gửi quân sang Triều Tiên đã có 2 khuynh hướng ở Bộ Chính Trị Trung cộng, như nhiều nhà báo tiết lộ sau này: phe phản đối có Mao; phe ủng hộ, có tướng Bành đức Hoài, mà sau đó Mao đã phê bình họ Bành: "Ông ấy vẫn còn giữ bản tính của một người quân phiệt và tiểu tư sản".
Chiến tranh Triều Tiên kéo dài từ ngày 25/6/1950 đến ngày 27/7/1953. Theo như tinh thần Hội nghị Yalta (tháng 2/1945), thì Triều Tiên được đặt dưới sự bảo trợ của Liên Hiệp quốc trong 5 năm, phía bắc dưới sự bảo trợ của Liên Sô, phía nam dưới sự bảo trợ của Anh, lấy vĩ tuyến thứ 38 làm ranh giới. Cũng theo tinh thần Hội Nghị Yalta, Việt Nam cũng vậy, cũng được đặt dưới sự bảo trợ của Liên Hiệp quốc trong vòng 5 năm, sau đó thì được độc lập, miền bắc dưới sự bảo trợ của chính quyền Tưởng giới Thạch, miền nam dưới sự bảo trợ của Anh, lấy vĩ tuyến thứ 16 làm giới tuyến. Đó là trên nguyên tắc và lý thuyết ở hội nghị, nhưng trên thực tế, Staline và Đệ Tam quốc tế Cộng sản đã xúi dục đảng cộng sản ở những nước địa phương nổi lên cướp chính quyền và gây hấn chiến tranh. Staline chết ngày 5/3/1953.
Nhiều người cho rằng lịch sử là hữu lý, cá nhân không đóng vai trò quan trọng. Nhưng không hoàn toàn như vậy. Trong thời gian Chiến tranh Lạnh, những lãnh đạo của các cường quốc, nhất là Hoa kỳ và Liên sô giữ một vai trò rất quan trọng. Khrouschev (1953 – 1964), sau khi cùng Béria, đầu độc Staline chết, theo lời tố cáo của con Staline, lại cho tay em bắt Béria và xử tử ông này, lên nắm quyền ở Liên sô, vì nhận thấy những sự sai trái không tưởng của lý thuyết Marx, thấy chủ nghĩa tôn thờ cá nhân quá độ của Staline, nên chủ trương bên trong đóng cửa để sửa sai, bên ngoài hòa hoãn với tư bản. Phía Hoa kỳ, Truman (1945-1952), đảng Dân chủ, bị thất cử cuối năm 1951, Eishenhower (1952 – 1960), đảng Cộng hòa, lên thay thế, cũng chủ trương hòa hoãn, trong cuộc tranh cử đã hứa với dân Mỹ là sẽ triệu hồi quân đội ở Triều tiên về nước. Chính vì vậy mà có cuộc Họp Thượng đỉnh, bốn cường quốc Hoa Kỳ, Liên Sô, Anh, Pháp ở Berlin vào năm 1953. Sau đó 4 cường quốc đồng ý họp lại ở Genève để giải quyết vấn đề Triều tiên vào cùng năm. Theo lời yêu cầu của Pháp, với sự đồng ý của Liên sô, với điều kiện là phải có sự hiện diện của Trung cộng, hội nghị Genève về Triều tiên quay sang bàn về Đông Dương, mà dân Việt ai cũng biết đó là Hội nghị chia đôi nước Việt Nam lấy vĩ tuyến thứ 17 làn ranh giới.
Tuy nhiên sự hòa hoãn cũng chỉ được một thời gian, rồi cuộc tranh hùng tư bản - cộng sản lại trở nên căng thẳng: căng thẳng vì Việt cộng gửi quân vào miền Nam, thành lập ra cái gọi là Mặt trận giải phóng, căng thẳng vì Kennedy (1960-1963) lên thay thế Eisenhower, sau đó gửi quân sang Cuba định lật đổ Fidel Castro, nhưng thất bại trong vụ vịnh Con heo 1960; sau đó Khrouschev đặt những giàn hỏa tiễn ở Cuba, Kennedy ép buộc Liên sô phải rút khỏi, nếu không thì sẽ có chiến tranh thứ 3. Bên cạnh đó có sự tranh chấp Nga Hoa ngày càng trở nên cao độ. Thêm vào đó có cuộc đảo chính ở miền Nam Việt Nam 1963.
Vì tình hình phía tư bản có vẻ bất ổn, phe bảo thủ, muốn trở lại Chiến tranh Lạnh đã thắng thế ở Trung ương Đảng Cộng sản Liên sô, đưa đến việc Khrouschev bị hạ bệ năm 1964 và Brejnev lên thay. Brejnev đã đưa ra một kế sách gồm 2 sách lược đại ý như sau: Đừng nghĩ rằng phía cộng sản yếu và phía tư bản mạnh, mà ngược lại cần quên đi khó khăn nội bộ, phải tấn công tư bản ở mọi nơi để đưa cộng sản chiến thắng trên toàn thế giới. Đó là thượng sách. Trung sách là cùng lắm sẽ chia đôi thế giới, lấy trục Sài gòn, Phnom Pen, Bangkok, Kaboul, Moscou làm giới tuyến, phía đông thuộc về cộng sản, phía tây thuộc về tư bản. Kế sách này đã làm mê hoặc Trung Ương đảng, chính vì vậy mà Khrouschev bị hạ bệ, Brejnev lên thay. Theo kế sách này thì Liên sô dùng 3 con chốt chính: ở Âu châu là Đông Đức, ở nam Mỹ là Cuba và ở Á châu là Việt Nam. Lê Duẫn, Tổng bí thư đảng Cộng sản Việt nam, lúc đó đã hết sức tin tưởng vào Liên sô, vào Brejnev. Ông đã viết trong tờ báo Học tập, sau này mang tên là Tạp Chí Cộng sản, số tháng 2/ 1964, trang 1 đến trang 20, nói về Nghị quyết của Hội Nghị Trung Ương Đảng lần thứ 9 (khóa 3), bài viết có tựa đề: "Một vài vấn đề trong nhiệm vụ quốc tế của đảng ta", với những đoạn như sau: "Nhìn tổng quát tình hình thế giới, phân tích những đặc điểm và những qui luật phát triển của ba vùng (vùng cộng sản, vùng tư bản, vùng các nước thứ ba - lời chú thích của tác giả bài này), chúng ta thấy rằng, lực lượng của cách mạng, lực lượng của chủ nghĩa xã hội và của hòa bình hơn hẳn lực lượng của đế quốc phản động và chiến tranh. Chúng ta mạnh hơn địch. Vì vậy cách mạng không phải ở thế thủ, chiến lược cách mạng không nên ở thế thủ; mà cách mạng đang ở thế tấn công; chiến lược cách mạng nên là chiến lược tấn công, phá từng chính sách chiến tranh một, đi đến phá toàn bộ kế hoạch gây chiến tranh của chủ nghĩa đế quốc do Mỹ cầm đầu, nhằm đánh lùi từng bước và đánh đổ từng bộ phận chủ nghĩa đế quốc, đi đến thủ tiêu hoàn toàn chủ nghĩa đế quốc". Cuộc Họp Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ 9 (Khóa 3) là đúng vào đầu năm 1964, ngay sau cuộc đảo chính 11/11/1963, đưa đến cái chết của 2 nhà lãnh đạo miền Nam Ngô đình Diệm và Ngô đình Nhu. Sau đó 3 tuần thì Kennedy bị ám sát ở Texas. Điều này chứng tỏ một lần nữa cộng sản Việt Nam quyết chiếm đánh miền nam, nên những con bài như Mặt trận Giải phóng miền Nam chỉ là cái bình phong và những người chủ trương trung lập miền Nam và hơn thế nữa chủ trương trung lập Đông Dương qua diễn văn của tướng de Gaulle ở Phnom Penh vào năm 1965 chỉ là ảo tưởng.
Theo trên, Brejnev lên ngôi với kế hoạch gồm 2 kế sách, thượng sách là toàn thắng, trung sách là chia đôi thế giới.
Thượng sách này được sửa soạn trong vòng 4 năm và đợt tấn công tư bản đầu tiên và lớn nhất là vào năm 1968, mà chúng ta thấy có vụ tấn công Tết Mậu thân 68 ở Việt nam. Trong khi đó ở Âu châu và ngay ở Hoa kỳ, những tình báo của Đông Đức, Liên sô thâm nhập vào những phong trào phản chiến, cùng với những người, những tổ chức, những đảng cộng sản sẵn có, nổi lên biểu tình ở khắp nơi, từ Âu châu cho tới Mỹ châu. Cộng thêm với những cuộc đảo chính của những phần tử quân đội, thân cộng sản, ở Phi châu và những cuộc ám sát các chủ tịch, những chủ nhân các hãng xưởng như ở bên Ý và bên Đức.
Phải công nhận rằng Thượng sách của Brejnev có mang lại một số kết quả ngoạn mục bề ngoài vào lúc ban đầu, nhưng cũng không thể làm sụp đổ được chế độ tư bản. Trong khi đó thì những khó khăn nội bộ của cộng sản, ngay từ chính Liên sô, ngày càng trở nên trầm trọng, việc tranh chấp Nga – Hoa nổ ra càng lớn, kinh tế đình trệ, dân tình chán nản, tham nhũng hối lộ lan tràn, để đến nỗi trước khi chết, Brejnev phải than lên: "Xã hội chủ nghĩa gì mà 1/3 xe chạy ngoài đường là ăn cắp săng của công, 1/3 bằng cấp là bằng cấp giả, công chức đến sở làm việc là để chỉ có mặt, sau đó là đi coi hát hay làm việc riêng". Brejnev chết năm 1983. Chiến lược tấn công tư bản của Brejnev ngừng vào năm 1972, trở về thế thủ, khi có cuộc gặp gỡ giữa Nixon và Mao ở Bắc Kinh, rồi có bản Tuyên bố chung ở Thượng hải. Từ thời điểm này, một cách tổng quát và tương đối, người ta có thể nói là tư bản, dẫn đầu bởi Hoa kỳ, đã từ bỏ chiến lược phòng thủ, để bước sang chiến lược tấn công cộng sản. Hoa kỳ cũng tấn công cộng sản trên 3 bình diện: ý thức hệ, kinh tế và quân sự.
Về ý thức hệ, Hoa kỳ tăng cường những đài tiếng nói tự do về phía cộng sản, chứng minh cho người dân cộng sản và thế giới thấy rằng:
a) Lý thuyết Mác Lê chỉ là ảo tưởng, không đưa đến việc giải phóng con người mà chỉ đưa đến sự đàn áp, tù đày, chém giết, không những người dân mà ngay cả đối với người cộng sản qua những sự đấu đá nội bộ. Chính ở điểm này mà có người cho rằng sự phản công của tư bản bắt đầu từ tháng 8/1975, với Hội nghị An ninh châu Âu, vì ở hội nghị này Liên sô chấp nhận không phá sóng những đài tiếng nói tự do, chấp nhận có giao thương kinh tế; nhưng ngược lại Âu châu và thế giới phải chấp nhận biên giới sẵn có của Liên sô, đó là biên giới với Ba Lan, vì vào Đệ Nhị thế Chiến, Liên sô đã chiếm một phần đất phía đông của Ba lan. Một người tướng Liên sô, trong phe bảo thủ, chống Hội nghị này, đã nói: "Với Hội nghị Helsinski, địch thủ đã chọc thủng phòng tuyến của chúng ta".
b) Lý thuyết Mác Lê không những không dẫn đến thiên đàng cộng sản, mà dẫn đến các nước anh em cộng sản cắn quái lẫn nhau, không phải là "Môi hở, răng lạnh", mà là răng cắn vào môi, như vụ tranh chấp Nga – Hoa; tranh chấp Việt – Hoa, đánh nhau ở biên giới năm 1979; tranh chấp Việt – Căm bốt, cộng sản Việt Nam xua quân đánh Căm bốt năm 1978.
c) Về kinh tế, tư bản tìm cách buôn bán với cộng sản, bắt đầu bằng coca cola, quần jeans, rồi đi đến lập các hãng xưởng, để biến kinh tế cộng sản từ kinh tế quốc doanh, thành kinh tế tư doanh làm kinh tế từ từ vuột khỏi tay nhà nước.
d) Về quân sự, thì Hoa kỳ tìm cách làm cho cộng sản Việt Nam sa lầy ở Căm bốt, cộng sản Liên sô sa lầy ở A phú hãn, khai thác tối đa sự bất đồng giữa cộng sản Liên sô và cộng sản Trung quốc.
Quả thật phía cộng sản bị vô cùng khó khăn, sa lầy không những ở thế giới mà sa lầy trong chính nội bộ của mình: kinh tế, xã hội, chính trị trở nên trì trệ, khó khăn ở ngay chính tại Liên bang Cộng Hòa xã hội Chủ nghĩa Nga, sa lầy giữa anh em với nhau. Chính vì vậy, mà khi lên ngôi năm 1964, Brejnev lạc quan bao nhiêu, thì trước khi chết, năm 1983, lại bi quan bấy nhiêu, nên mới có lời than như trên.
Bejnev chết, kế tiếp là Andropov (1983 -1984), rồi Tchernenko (1984 – 1985), hai người này nắm quyền không được lâu, trong vòng không dầy 3 năm, thì năm 1985 Gorbatchev lên, đưa đến sự sụp đổ của Liên sô và các nước Đông Âu, khi Gorbatchev tuyên bố từ chức Chủ tịch Liên bang Liên viết vào đầu năm 1991.
Có người cho rằng Gorbachev không phải là cộng sản thì không đúng. Gorbatchev lên nhận lãnh một gia tài cộng sản đầy thối nát và khó khăn. Khrouschev chủ trương chính sách sửa sai nội bộ, nghĩ rằng hãy hòa hoãn với tư bản và đặt ưu tiên cho sự sửa sai trong nước trước. Nhưng ngược lại, Brejnev cho rằng chính sách này không đúng, hãy dập đi khó khăn nội bộ, tấn công tư bản trước, sau khi toàn thắng, rồi trở về sửa sai cũng chưa muộn. Vì lẽ đó mà Brejnev đã dồn hết nỗ lực trong cuộc chạy đua vũ trang, sản xuất đầu đạn nguyên tử hơn cả Hoa kỳ, sản xuất mỗi năm 7 000 chiếc xe tăng, bằng tổng số còn lại của toàn thế giới kể cả Hoa kỳ, bỏ tiền giúp đỡ những đảng cộng sản, những tổ chức phản chiến, khủng bố, giết người trên toàn thế giới, lâm vào cảnh « Con ếch muốn to bằng con bò «, thi đua tiêu tiền với kẻ giàu, thi đua chạy với anh lực sĩ khỏe, dài hơi. Chính vì vậy nên khi Liên sô ngừng chạy đua vũ trang thì hết hơi và quị ngã. Thực tế, ít nhất là cho tới năm 1991, khi đế quốc cộng sản Liên sô sụp đổ, cho thấy cộng sản đã thua. Tuy nhiên, có người cho rằng cuộc tranh hùng tư bản - cộng sản đã chấm dứt. Nhưng có người lại cho rằng chiến tranh lạnh chưa chấm dứt và vẫn tiếp tục kéo dài với cuộc tranh hùng Mỹ - Trung và gần đây nhất với sự đối đầu Mỹ - Nga qua vụ Syrie.
Những người cho rằng, từ năm 1991 cho tới nay không còn cuộc tranh hùng tư bản cộng sản nữa, hay nói khác đi là không còn Chiến tranh Lạnh nữa, với những lý do như sau:
Thế giới cộng sản, với sự lãnh đạo của Liên sô, với khí thế mạnh mẽ và to lớn như vậy, nhất là sau Đệ Nhị Thế Chiến, cộng với Phong trào Độc lập, thế mà còn thua, nay mấy nước cộng sản còn lại, tiêu biểu là Trung cộng và Việt nam, không dám nghĩ mình là cộng sản, không có lãnh đạo, ngay cả Trung cộng cũng không dám nhận vai trò này, huống chi những nước như Việt nam, Bắc Hàn, Cuba, thì làm sao dám đương đầu với tư bản, trở về Chiến tranh Lạnh.
Tuy nhiên gần đây, với vấn đề vũ khí hóa học ở Syrie, có người cho rằng Chiến tranh Lạnh lại trở lại, qua sự đối đầu Nga - Mỹ: một bên là Hoa Kỳ và Pháp muốn dùng bom hay hỏa tiễn để oanh tạc những căn cứ dự trữ hay chế tạo vũ khí hóa học của Tổng thống Assad, bên kia Nga và Trung cộng nhất định phản đối. Sự kiện này làm cho bang giao giữa Hoa Kỳ và Nga trở nên khó khăn, Tổng thống Obama không muốn gặp riêng Tổng thống Putin, trong cuộc Họp Thượng đỉnh G8, rồi G20 ở tại Saint Péterbourg thuộc Nga.
Chúng ta hãy cùng nhau xét phải chăng thực sự có chiến tranh Lạnh giữa Hoa Kỳ - Nga, rồi Hoa kỳ - Trung cộng:
(Còn tiếp)