Tuyên bố báo chí Về chuyến thăm Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam của Báo cáo viên Đặc biệt LHQ về tự do tôn giáo
Hà Nội, Việt Nam, 31/7/2014
Với tư cách là Báo cáo viên Đặc biệt của Liên Hợp Quốc về tự do tôn giáo hay tín ngưỡng, tôi đã được Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam mời tiến hành một chuyến thăm quốc gia từ ngày 21 đến 31 tháng 7 năm 2014.
Trước hết, tôi cảm ơn Chính phủ Việt Nam đã mời tôi đến đây và đã duy trì mối quan hệ hợp tác mang tính xây dựng với Thủ tục Đặc biệt mà tôi phụ trách. Báo cáo viên tiền nhiệm của tôi, ông Abdelfattah Amor đã quá cố, cũng đã đến thăm Việt Nam vào năm 1998. Từ năm 2010 đến nay, Việt Nam đã tích cực hợp tác với các Thủ tục Đặc biệt và đã mời sáu chuyên gia thực thi các thủ tục này, trong đó có tôi, tiến hành các chuyến thăm quốc gia. Việt Nam cũng là một thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc. Bộ Ngoại giao Việt Nam cũng đã rất tích cực trong việc chuẩn bị và hỗ trợ trong suốt chuyến thăm này. Bộ cũng tạo điều kiện để chúng tôi thăm một tù nhân.
Tôi cảm ơn tất cả các bên đã gặp và tham gia trao đổi với tôi trong chuyến thăm này, từ các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp của Chính phủ, các cộng đồng hay tổ chức tôn giáo (đã được công nhận hay chưa được công nhận), đến cộng đồng ngoại giao và các cơ quan Liên Hợp Quốc. Tôi cũng muốn cảm ơn Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) tại Hà Nội đã hỗ trợ về hậu cần cho chuyến đi. Những cuộc thảo luận ở Hà Nội, Tuyên Quang, thành phố Hồ Chí Minh và Vĩnh Long nhìn chung đều cởi mở, thẳng thắn và mang tính xây dựng.
Dự định đi thăm An Giang, Gia Lai và Kon Tum của đoàn không may đã bị gián đoạn từ ngày 28 đến 30 tháng 7. Tôi nhận được những thông tin đáng tin cậy là một số cá nhân tôi muốn gặp đã bị đặt dưới sự theo dõi chặt chẽ, cảnh cáo, đe dọa, sách nhiễu hoặc bị công an ngăn cản việc đi lại. Ngay cả những người đã gặp được tôi cũng không tránh khỏi việc bị công an theo dõi hoặc chất vấn ở một mức độ nhất định. Ngoài ra, việc di chuyển của tôi cũng bị giám sát chặt bởi “những cán bộ an ninh hoặc công an” mà chúng tôi không được thông báo rõ, đồng thời sự riêng tư và bảo mật của một số cuộc gặp gỡ cũng bị ảnh hưởng. Những việc này là sự vi phạm rõ ràng các điều khoản tham chiếu củabất kỳ chuyến thăm quốc gia nào.
Hôm nay, tôi trình bày với các bạn ở đây những phát hiện sơ bộ và một số nhận xét chính của tôi mà tôi muốn các bạn chú ý tới. Tuyên bố báo chí này không phải là báo cáo cuối cùng. Báo cáo chính thức sẽ được trình bày tại kỳ họp thứ 28 của Hội đồng Nhân quyền vào tháng 3 năm 2015. Trong quá trình chuẩn bị báo cáo, tôi sẽ tiếp tục hợp tác và làm việc trên cơ sở tham vấn với Chính phủ và tất cả các bên liên quan để có thêm các thông tin và làm sáng tỏ những điểm chưa rõ, đặc biệt về các vấn đề liên quan đến những vùng tôi không thể đến thăm.
I. Tóm lược tình hình tôn giáo ở Việt Nam
Việt Nam có nhiều tôn giáo và tín ngưỡng. Ban Tôn giáo Chính phủ cho tôi biết hiện có 37 tổ chức tôn giáo được đăng ký trong cả nước. Theo con số thống kê của Chính phủ, tổng số tín đồ của các tôn giáo được công nhận là khoảng 24 triệu người trong tổng dân số 90 triệu người. Các cộng đồng tôn giáo được công nhận chính thức gồm 11 triệu Phật tử, 6,2 triệu tín đồ Công giáo, 1,4 triệu người theo đạo Tin lành, 4,4 triệu người theo đạo Cao Đài, 1,3 triệu phật tử Hòa Hảo cùng với 75.000 người Hồi giáo, 7.000 người Baha’ís, 1.500 người Ấn Độ giáo và những người theo các tôn giáo khác. Chính thức có 26.387 cơ sở thờ tự gồm chùa, đền thờ, nhà thờ và các nơi thờ tự khác. Việt Nam tự hào đã tổ chức các hội nghị quốc tế của các nhà lãnh đạo tôn giáo, cụ thể là một đại hội các chức sắc Phật giáo được tổ chức vào Đại lễ Vesak Liên Hợp Quốc vào tháng 5/2014. Tôi cũng được cho biết là ở Việt Nam có 54 dân tộc. Đôi khi các nhóm dân tộc thiểu số cũng chính là các nhóm tôn giáo thiểu số.
Trong khi đa số người dân Việt Nam không thuộc một cộng đồng tôn giáo được chính thức công nhận, họ cũng vẫn thỉnh thoảng hoặc thường xuyên thực hiện những nghi lễ truyền thống – mà ở Việt Nam thường gọi là “tín ngưỡng”. Nhiều nghi lễ truyền thống biểu đạt sự tôn kính tổ tiên. Ngoài ra, trong thực tế có những niềm tin và thực hành tôn giáo nằm ngoài các cộng đồng tôn giáo đã chính thức được công nhận. Khó có thể có một bức tranh rõ ràng và đầy đủ về vấn đề này, nếu không muốn nói là không thể. Một vài chuyên gia của Chính phủ đưa ra ước tính tương đối thấp về số người đang thực hành các tôn giáo bên ngoài các cộng đồng đã được công nhận. Nhưng đồng thời tôi cũng nghe được những phỏng đoán rằng số người đang thực hành tôn giáo ngoài các cộng đồng đã được đăng ký – hoặc đang muốn đăng ký – có thể lên đến hàng triệu người. Bên cạnh những ước đoán khác nhau về con số, tôi cũng nhận được những thông tin trái ngược nhau về các điều kiện để những người này có thể thụ hưởng quyền con người về tự do tư tưởng, lương tâm và tôn giáo hay tín ngưỡng.
Nhiều người chúng tôi tiếp xúc nhấn mạnh một thực tế rằng các điều kiện để thực hành tự do tôn giáo ở Việt Nam nhìn chung đã được cải thiện so với tình hình sau năm 1975. Nhiều đại diện các cộng đồng tôn giáo cũng chia sẻ nhận xét này, và họ công nhận rằng, mặc dù còn có nhiều khó khăn nhưng hiện nay nhìn chung họ có nhiều không gian để thực hành tôn giáo hơn trong quá khứ. Mặt khác, điều kiện để các cá nhân hoặc các nhóm thực hành tôn giáo hay tín ngưỡng cũng khó đoán, và thường phụ thuộc vào thiện chí của các cơ quan Chính phủ, đặc biệt là chính quyền địa phương. Ngoài ra, thành viên của các nhóm thiểu số về tôn giáo không được công nhận chính thức tiếp tục gặp nhiều khó khăn trong việc thực hành tự do tôn giáo tín ngưỡng của mình, đặc biệt khi các thực hành tôn giáo hay nghi lễ của họ bị cho là không phù hợp với “lợi ích chính đáng của số đông” – một cụm từ thường được nhắc đến trong một số cuộc thảo luận.
II. Các qui định pháp lý và việc thực hiện
a) Quy định pháp lý điều chỉnh thực hành tôn giáo hay tín ngưỡng
Việt Nam đã phê chuẩn hầu hết các công ước nhân quyền quốc tế, bao gồm Công ước quốc tế về Các quyền Dân sự và Chính trị, trong đó Điều 18 bảo vệ chung tự do tư tưởng, lương tâm, tôn giáo hay tín ngưỡng.
Hiến pháp mới sửa đổi của Việt Nam[1] quy định chương II “Quyền con người, Các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”. Tại đó, Hiến pháp 2013 cũng nhắc đến tự do tôn giáo hay tín ngưỡng trong Điều 24. Các đại diện của Chính phủ đã nhắc lại nhiều lần và nhấn mạnh rằng những người có quyền được quy định trong điều này bao gồm tất cả mọi người, trong khi quy định tương ứng tại Hiến pháp 1992 giới hạn ở các công dân Việt Nam. Điều này được trình bày như một dấu hiệu cho thấy thái độ nhìn chung là tích cực hơn đối với tự do tôn giáo hay tín ngưỡng. Điều 24 quy định như sau:
1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật.
2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
3. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật.
Việt Nam chưa có một luật riêng điều chỉnh các vấn đề tôn giáo. Văn bản pháp lý liên quan nhất là Pháp lệnh về Tôn giáo và Tín ngưỡng ban hành ngày 18 tháng 6 năm 2004. Nghị định số 92 ngày 8/11/2012 quy định chi tiết các điều khoản trong Pháp lệnh. Trong Pháp lệnh về Tôn giáo và Tín ngưỡng, Điều 38 khẳng định các quy định trong các điều ước quốc tế sẽ có hiệu lực trong trường hợp có sự khác biệt giữa quy định của Pháp lệnh và các điều ước quốc tế.[2]
Tôi được biết một dự án xây dựng luật về các vấn đề tôn giáo trên nền tảng Pháp lệnh hiện hành sẽ được đưa ra trong năm 2015, và dự kiến được thông qua năm 2016. Ngoài việc vị thế pháp lý của một văn bản luật sẽ cao hơn so với một pháp lệnh, quá trình soạn thảo một luật mới toàn diện có thể là cơ hội để có những sửa đổi cụ thể với mục đích thúc đẩy quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng và việc thực thi quyền này trong thực tế. Khi thảo luận vấn đề này với các chuyên gia của Chính phủ về vấn đề tôn giáo, đã có những nhận định rằng vấn đề đất đai sẽ được giải quyết tốt hơn, đồng thời người nước ngoài cũng sẽ có điều kiện dễ dàng hơn để thực hành tự do tôn giáo hay tín ngưỡng. Những người khác cũng bày tỏ sự sẵn sàng cân nhắc những thay đổi cụ thể để khắc phục những quy định hạn chế trong Pháp lệnh năm 2004.
b) Những hạn chế đối với tự do tôn giáo hay tín ngưỡng
Theo tiêu chuẩn quốc tế, việc thực hành quyền con người về tự do tôn giáo hay tín ngưỡng không phải là không thể có một số hạn chế được đặt ra. Đồng thời, Điều 18 Công ước Quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị (ICCPR) liệt kê một số tiêu chuẩn cần đạt được để những hạn chế đặt ra đó được coi là chính đáng. Việc tuân thủ nghiêm ngặt tất cả các tiêu chí này là cốt yếu để đảm bảo rằng tự do tôn giáo hay tín ngưỡng trở thành sự thực.
Các điều khoản hạn chế được quy định trong các văn bản luật có liên quan của Việt Nam hiện nay rộng hơn nhiều so với các điều khoản hạn chế quy định trong ICCPR. Tuy nhiên quy định giới hạn quá rộng có thể làm nhòe ranh giới của tự do tôn giáo hay tín ngưỡng, vì thế gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc thực thi quyền này trong thực tế. Điều còn thiếu trong các quy định pháp luật của Việt Nam về tôn giáo, trước hết là chưa nêu rõ rằng khía cạnh cá nhân trong niềm tin và nhận thức tôn giáo, đạo đức hay triết lý của một người – thường được gọi là “forum internum” (tâm linh, hay thế giới nội tâm) – phải được tôn trọng vô điều kiện và không bao giờ được áp dụng bất kỳ giới hạn chính đáng hay can thiệp nào với bất kỳ lý do nào, ngay cả trong trường hợp khủng hoảng nghiêm trọng hay tình trạng khẩn cấp. Việc bảo vệ vô điều kiện đối với tâm linh cá nhân phản ánh quan niệm rằng cưỡng ép con người giả mạo một niềm tin không thực hoặc từ bỏ điều họ tin tưởng sâu sắc có thể phá hủy lòng tự tôn của họ. Việc cấm bất kỳ sự can thiệp mang tính cưỡng ép nào đối với nội tâm trong niềm tin tôn giáo, đạo đức hay triết lý của một người vì thế cũng có vị trí quan trọng trong luật quốc tế tương đương với việc cấm nô lệ hay cấm tra tấn. Đây là những quy định tuyệt đối không có bất kỳ ngoại lệ nào. Trong khi đó, Điều 24 Hiến pháp 2013 nhắc đến tự do tôn giáo hay tín ngưỡng nói chung mà không quy định cụ thể việc bảo vệ khía cạnh tâm linh cá nhân trong tự do tôn giáo hay tín ngưỡng.
Không như tâm linh bên trong con người, việc truyền bá tôn giáo hay tín ngưỡng trong phạm vi xã hội (“forum externum”, hay thế giới bên ngoài) không được bảo vệ vô điều kiện, theo luật quốc tế quy định. Vì vậy phải quy định cụ thể các điều kiện được phép áp dụng các hạn chế một cách rõ ràng và dự đoán được. Việc này cần được thực hiện trên cơ sở nhận thức rằng tự do tôn giáo hay tín ngưỡng, ở cả khía cạnh cá nhân và cộng đồng, có vị thế quy định là một quyền con người phổ quát. Mối quan hệ giữa quyền tự do này và những hạn chế đối với quyền ấy, vì thế, cần được xem xét như một mối quan hệ giữa quy định và ngoại lệ. Theo đó, việc đưa ra các lập luận chứng minh không phải là nghĩa vụ của những người muốn thực hành quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng của họ; mà là nghĩa vụ của những người cho rằng việc hạn chế là cần thiết. Trong trường hợp có nghi vấn, quy định sẽ được áp dụng, còn ngoại lệ luôn luôn yêu cầu phải có thêm lập luận chứng minh, cả ở mức độ bằng chứng cụ thể và lập luận lý thuyết.
Khi trao đổi với các đại diện của Chính phủ, tôi thường nghe nhắc đến “pháp luật Việt Nam” nói chung. Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu đối với các biện pháp hạn chế quy định trong điều 18 ICCPR, những hạn chế này phải cụ thể hơn và đáp ứng được các tiêu chí đặt ra. Ngoài việc phải được quy định về mặt pháp lý một cách rõ ràng, cụ thể và đoán trước được, những hạn chế phải là cần thiết để phục vụ một mục đích chính đáng – bảo vệ “an toàn của công chúng, trật tự công, sức khỏe, hay đạo đức hay các quyền và tự do căn bản của những người khác”.[3] Thêm nữa, các hạn chế phải tuân thủ chặt chẽ tính cân xứng, nghĩa là các hạn chế phải luôn luôn giữ ở mức can thiệp tối thiểu. Những tiêu chuẩn này và một số tiêu chuẩn khác đã được quy định với mục đích bảo vệ các thành tố của tự do tôn giáo hay tín ngưỡng ngay cả trong những tình huống (có vẻ, hay thực sự) có xung đột với những quyền khác, hay với lợi ích chung quan trọng.
Để so sánh, các văn bản pháp lý liên quan của Việt Nam đã cho các cơ quan chính quyền nhiều không gian để quy định, giới hạn, hạn chế hay cấm việc thực hành tự do tôn giáo hay tín ngưỡng. Điều 14 Hiến pháp 2013 liệt kê một số lý do để hạn chế các quyền con người và quyền công dân mà, tôi cho rằng, cũng áp dụng với tự do tôn giáo hay tín ngưỡng. Khả năng hạn chế các quyền con người vì lợi ích của “quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng” [4] đã khác so với các mục đích được liệt kê trong điều 18 ICCPR. Mặt khác, Pháp lệnh về Tôn giáo và Tín ngưỡng cũng đưa ra các mục đích như “lòng yêu nước”, “thống nhất đất nước”, “đoàn kết nhân dân” và “truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc”. Thêm nữa, theo điều 8, khoản 2 của Pháp lệnh, “Không được lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để phá hoại hoà bình, độc lập, thống nhất đất nước; kích động bạo lực hoặc tuyên truyền chiến tranh, tuyên truyền trái với pháp luật, chính sách của Nhà nước; chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, chia rẽ tôn giáo; gây rối trật tự công cộng, xâm hại đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự, tài sản của người khác, cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân; hoạt động mê tín dị đoan và thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật khác.”
Trong các cuộc thảo luận với các quan chức Chính phủ ở các cơ quan khác nhau, bao gồm đại diện cấp cao của cơ quan lập pháp, tôi thấy những hạn chế rất rộng này được nhắc đến nhiều lần. Viện dẫn “lợi ích xã hội” không rõ ràng cũng có thể, thậm chí, dẫn đến truy tố tội hình sự, theo Điều 258 Bộ luật Hình sự. Khoản 1 của Điều này quy định: “Người nào lợi dụng các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do hội họp, lập hội và các quyền tự do dân chủ khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.“ Tôi thấy một điều đáng lo ngại trong điều khoản này là việc không có quy định cụ thể hành vi như thế nào sẽ bị coi là “lợi dụng” tự do tôn giáo hoặc các quyền tự do dân chủ khác. Các thành viên của Tòa án Nhân dân Tối cao không đưa ra hướng dẫn cụ thể nào để giải thích thuật ngữ “lợi dụng”. Cách thức quy định rộng và không rõ ràng trong Điều 258 đã đem lại cho các cơ quan chức năng liên quan khả năng tự ý định đoạt để ngăn người dân trong tất cả các loại hoạt động – kể cả thái độ ngầm của họ - nếu những hoạt động này bằng cách nào đó bị coi là mâu thuẫn với lợi ích của Nhà nước. Từ nhiều trao đổi thảo luận tôi đã nghe, đây không phải là một vấn đề lý thuyết đơn thuần, và Điều 258 Bộ luật Hình sự đã được áp dụng thường xuyên, và được áp dụng để hạn chế quyền tự do tôn giáo tín ngưỡng và các quyền con người khác. Khi đặt ra câu hỏi về tù nhân lương tâm, tôi được cho biết không có vụ việc nào về tù nhân lương tâm. Với quy định không rõ ràng và con số lớn các vụ việc bị buộc tội theo Điều 258 bộ Luật Hình sự, người ta tự hỏi làm thế nào cơ quan có thẩm quyền có thể loại trừ được khả năng này.
c) Yêu cầu hành chính với thực hành tôn giáo
Pháp lệnh về Tôn giáo và Tín ngưỡng bao gồm rất nhiều quy định mà các cộng đồng tôn giáo phải tuân thủ để có thể hoạt động. Các quy định này được hướng dẫn chi tiết hơn trong Nghị định 92. Ví dụ, các cộng đồng tôn giáo được yêu cầu phải đăng ký tư cách với Ban Tôn giáo Chính phủ; họ phải xin các giấy phép cụ thể để xây dựng hay kiến thiết nơi thờ tự; họ phải trình với chính quyền địa phương một bản kế hoạch các hoạt động hàng năm; họ phải thông báo với chính quyền về việc bổ nhiệm các chức sắc tôn giáo; họ phải được chính quyền địa phương liên quan cho phép mới có thể tiến hành các nghi lễ ở nơi công cộng, v.v... Các yêu cầu trong Pháp lệnh và Nghị định bao gồm những nghĩa vụ về thông tin và thông báo cũng như quy định phải được phê duyệt trước khi tiến hành một số hoạt động tôn giáo nhất định. Nghị định cũng quy định thời hạn mà chính quyền được yêu cầu phải trả lời các đơn được gửi đến. Nếu có một quyết định không thuận, cơ quan có thẩm quyền phải nêu rõ lý do.
Những phát hiện sơ bộ của tôi không nhằm mục đích đưa ra một đánh giá tổng thể những quy định hành chính rất cụ thể trong Pháp lệnh và Nghị định xem các quy định này có phản ánh phù hợp sự tôn trọng tự do tôn giáo tín ngưỡng không. Thay vào đó, tôi sẽ tập trung vào một vấn đề xuất hiện trong hầu hết tất cả các cuộc thảo luận của chúng tôi, đó là yêu cầu các cộng đồng tôn giáo phải có đăng ký với cơ quan có thẩm quyền. Theo Điều 16 của Pháp lệnh, các tổ chức cần phải đáp ứng được một số tiêu chí để được công nhận trước pháp luật là một tổ chức tôn giáo. Cụ thể là, các điều kiện này nhằm đảm bảo tôn trọng “thuần phong, mỹ tục và lợi ích của dân tộc”. [5] Không đề cập đến các chi tiết về thủ tục và nội dung cụ thể, tôi muốn tập trung vào hai khía cạnh đặc biệt quan trọng.
Khía cạnh đầu tiên liên quan đến bản chất của việc đăng ký. Đây là một đề nghị, hay một yêu cầu chính thức? Khi thảo luận vấn đề này, tôi nhận được những câu trả lời khác nhau, và có vẻ như thiếu sự rõ ràng. Trong khi một số đại diện của Chính phủ tuyên bố không chút ngập ngừng rằng không có đăng ký với chính quyền thì các cộng đồng sẽ không được hoạt động, một số khác cho rằng một cộng đồng tôn giáo vẫn có thể tiến hành một số hoạt động tôn giáo căn bản như tụ họp để sinh hoạt tôn giáo tại nhà riêng. Ngay cả với cách diễn giải thứ hai mang tính tạo thuận lợi hơn, tôi kinh ngạc thấy phạm vi của tự do tôn giáo vẫn còn rất hạn chế và không rõ ràng.
Trong bối cảnh này, thuật ngữ “công nhận” được sử dụng trong Pháp lệnh và cũng được đề cập đến trong nhiều cuộc trao đổi, có thể cần được giải nghĩa ngắn gọn. Việc thực thi quyền con người đối với tự do tôn giáo hay tín ngưỡng, bởi cá nhân và/hoặc trong một cộng đồng với những người khác, không thể diễn ra phụ thuộc vào bất kỳ hành vi công nhận hay phê duyệt hành chính cụ thể nào. Là một quyền phổ quát, tự do tôn giáo hay tín ngưỡng vốn có trong tất cả con người và vì thế có vị thế quy chuẩn cao hơn bất kỳ một hành vi hay thủ tục hành chính nào. Lời nói đầu của Tuyên ngôn Nhân quyền Toàn cầu bắt đầu bằng “công nhận nhân phẩm vốn có và các quyền bình đẳng và không thể bị tước đoạt của tất cả các thành viên trong gia đình nhân loại”. Rõ ràng là “công nhận” ở đây có nghĩa cơ bản là bất kỳ tương tác có nghĩa nào giữa con người với nhau đều phải tôn trọng nhân phẩm và các quyền con người. “Công nhận” trong nghĩa căn bản là tôn trọng nhân phẩm và nhân quyền, vì thế, vượt trên bất kỳ sự “công nhận” nào về mặt hành vi hành chính cụ thể.
Như vậy, quyền của một cá nhân hay một nhóm đối với tự do tôn giáo hay tín ngưỡng của họ không bao giờ có thể “được tạo ra” bằng bất kỳ thủ tục hành chính nào. Đúng ra là ngược lại, việc đăng ký phải là phương tiện cho quyền con người này, mà bản thân quyền ấy phải được tôn trọng là có trước bất kỳ việc đăng ký nào. Trên cơ sở nhận thức chung ấy, việc đăng ký phải là một đề nghị của Nhà nước, không phải một yêu cầu bắt buộc về mặt pháp lý. Tình trạng của các cộng đồng tôn giáo không đăng ký, vì thế, gợi ý kết quả của một phép thử quan trọng đối với nhận thức về vị thế chuẩn của tự do tôn giáo hay tín ngưỡng nói chung.
Điểm thứ hai, tôi muốn đưa ra những quan ngại về việc có tồn tại một tư cách pháp nhân nào khác đối với một số cộng đồng không được đăng ký như tổ chức tôn giáo. Với các tiêu chí khá cao như quy định trong Điều 16 của Pháp lệnh, việc các cộng đồng tôn giáo hoặc tín ngưỡng có một phương án lựa chọn đáng tin cậy để được nhận một hình thức tư cách pháp nhân nào đó – nếu họ muốn – là rất quan trọng. Với tự do tôn giáo hay tín ngưỡng, Nhà nước có trách nhiệm cung cấp khuôn khổ pháp lý và thể chế phù hợp để các cộng đồng tôn giáo và tín ngưỡng có thể hoạt động tự do, không phải chịu những gánh nặng không phù hợp và không có sự phân biệt đối xử. Điều này bao gồm phương án lựa chọn để các cộng đồng tôn giáo và tín ngưỡng có thể nhận được các tư cách pháp nhân khác mà họ có thể cần để thực hiện các chức năng cộng đồng quan trọng khác như mua bất động sản, tuyển dụng nhân viên chuyên nghiệp, vận hành các tổ chức từ thiện, thiết lập các viện đào tạo chức sắc tôn giáo hay giáo dục thế hệ trẻ, vv.. Không có, và không thực sự tiếp cận được với vị trí tư cách pháp nhân phù hợp, tương lai phát triển của các cộng đồng tôn giáo và tín ngưỡng, đặc biệt là các nhóm nhỏ, có thể bị nguy hiểm nghiêm trọng. Tôi được biết rằng có khả năng cho các cộng đồng tôn giáo đăng ký như các hiệp hội, nhưng tôi không có điều kiện để tìm hiểu kỹ hơn phương án này trên thực tế đã được áp dụng đến mức độ nào.
Trao đổi với nhiều đại diện khác nhau của Chính phủ về vấn đề đăng ký, tôi tin rằng đây là một vấn đề cần quan tâm, đòi hỏi các biện pháp lập pháp và các biện pháp khác. Tôi khuyến nghị rằng những cải cách pháp lý mới cần (1) làm rõ rằng tự do tôn giáo hay tín ngưỡng, với vị thế là một quyền con người, cao hơn bất kỳ một hành vi phê duyệt hành chính nào và có thể được thực hành bởi các cá nhân và các nhóm người trước khi đăng ký và độc lập với việc đăng ký; (2) đem lại cho các cộng đồng tôn giáo các phương án lựa chọn đáng tin cậy và dễ tiếp cận hơn để họ có được tư cách pháp nhân phù hợp nhằm tạo điều kiện cho sự phát triển tự do của một cơ cấu tổ chức phù hợp. Ban Tôn giáo Chính phủ cần đóng một vai trò cốt yếu trong việc hướng dẫn và đào tạo các cơ quan địa phương diễn giải các quy định theo các quyền con người phổ quát.
d) Vấn đề truy đòi khắc phục pháp lý
Điều 30 Hiến pháp 2013 quy định mọi người có quyền khiếu nại với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Việc thực thi hiệu quả các quyền con người, bao gồm tự do tôn giáo hay tín ngưỡng, phụ thuộc nhiều vào sự tồn tại của một cơ chế truy đòi khắc phục pháp lý phù hợp. Mọi người phải có thể khắc phục, mà không bị yêu cầu đáp ứng những giới hạn hay gánh nặng bất hợp lý nào, bằng những công cụ pháp lý để có thể không thừa nhận một quyết định được cơ quan chức năng đưa ra nếu họ thấy các quyền có họ đã bị vi phạm, căn cứ vào tất cả các nguyên tắc về đảm bảo một quá trình thích đáng và công bằng. Mục đích chính của biện pháp truy đòi khắc phục pháp lý không phải để xác định xem cá nhân nào trong hệ thống hành chính đã làm sai, mà để đảm bảo việc thực hiện một cách nhất quán các quyền con người cho tất cả mọi người.
Khi hỏi về các ví dụ liên quan đến các vụ việc trong đó người dân thành công trong việc không thừa nhận và khắc phục những cáo buộc vi phạm tự do tôn giáo và tín ngưỡng của họ như được quy định tại Điều 24 của Hiến pháp, tôi được biết chưa có trường hợp nào như vậy được biết đến ở Việt Nam. Kể cả thành viên của Tòa án Nhân dân Tối cao cũng không biết một vụ việc nào. Đây là một kết quả đáng ngạc nhiên – và càng ngạc nhiên hơn khi trong thực tế có nhiều mâu thuẫn về đất đai đã được thông tin đến tôi. Một số mâu thuẫn có vẻ có liên quan đến khía cạnh tự do tôn giáo, ví dụ như khi mảnh đất trước kia đã được dùng cho nghĩa địa tôn giáo hay các nhà thờ tự đã bị lấy đi để phục vụ phát triển kinh tế.
Khi trao đổi về vấn đề biện pháp truy đòi khắc phục pháp lý, khả năng thường được nhắc đến là gửi đơn kháng nghị đến cấp hành chính cao hơn. Tuy nhiên phương án này không thể được tính là tương đương với một cơ quan tư pháp độc lập có nhiệm vụ bảo đảm quyền con người của tất cả mọi người, bao gồm trường hợp xung đột giữa cá nhân hay nhóm người với cơ quan hành chính. Mặc dù tôi đã nghe nói có một số trường hợp kháng nghị lên cấp cao hơn, bao gồm cả Thủ tướng, đã giúp giảm nhẹ mâu thuẫn, nhưng trong nhiều trường hợp khác, người kháng nghị không thấy cơ quan hành chính có phản ứng gì. Với một số trường hợp khác, cấp hành chính cao hơn chỉ đơn thuần chuyển lại vụ việc cho cơ quan có thẩm quyền ở địa phương để xem xét lại, nghĩa là vụ việc có thể rơi vào quên lãng. Từ góc độ pháp quyền, tình trạng này còn xa mới được coi là thỏa mãn tinh thần thượng tôn pháp luật.