Vâng! Tôi cũng định dừng sự việc đau đớn này ở đây, bởi tình tiết trên, không phải là điều chính, tôi muốn viết, muốn
bàn trong bài này. Nhưng trời đã về khuya, màn đêm dày đặc trước ô cửa, không có gió, mà lòng cứ thấy nao xao,
buộc tôi phải bật dậy. Tôi ngồi, viết những suy nghĩ của mình, gửi cho hai người anh văn chương lớn tuổi. Các anh là
sĩ quan cấp tá quân đội VNCH, đều chỉ huy trung đoàn ngoài mặt trận. Rất may, cả hai anh đều viết, trả lời những
thắc mắc, suy nghĩ của tôi. Tuy nhiên, là kẻ hậu bối, tôi không dám, không đủ khả năng kết luận đúng sai. Nhưng khi
đi sâu vào phân tích Tiểu Thuyết Vô Đề, tôi giữ nguyên những tình tiết vốn có trong tác phẩm.
Và cũng xin phép các anh, tôi đưa nguyên văn bức thư ấy lên đây, để bạn đọc tự suy xét, có đánh giá của riêng
mình vậy:
“1/- Lính thám báo (biệt kích) hầu hết đều được chọn lựa rất kỹ càng, sau đó cũng phải trải qua một thời kỳ huấn
luyện nghiêm khắc. Không phài chỉ có khả năng tác chiến, mưu sinh giỏi mà quan trọng là tinh thần kỷ luật rất cao.
Tất cả đều đáng tin cẩn. Vì các toán thám báo hoạt động đơn độc và hầu hết trong các công tác thật nguy hiểm, nếu
không có kỷ luật, họ sẽ không thi hành nghiêm chỉnh mệnh lệnh của cấp chỉ huy, nhất là trong tình trạng sinh tử. Vì
vậy, việc nhà văn Bảo Ninh (hay là Dương Thu Hương) kể về hành động của tham báo (biệt kích) trong các tác
phẩm của họ, dưới con mắt của người lính miền Nam, sẽ trở nên quá cường điệu, nếu không nói là... không thể.
Điều nên nhớ là nhiệm vụ chính của lính thám báo hay biệt kích là đột nhập (âm thầm) vào vùng địch để ghi nhận tin
tức, tình hình của quân địch, hay bắt sống địch mang về khai thác. Chỉ nổ súng khi thực sự cần tự vệ (nếu bị phát
hiện), và nhanh chóng phân tán, tìm mọi cách thoát ra khỏi vùng địch. Với họ, nổ súng là điều tối kỵ và bất lợi nhất.
Như vậy các sự kiện (theo Bảo Ninh và DTH) kể: các thám báo bắt địch quân (lính gái hay TNXP) tra khảo, hãm
hiếp... (nhẩn nha ngay trong lòng địch một thời gian khá dài) là điều không đúng!
2/- Về chuyện đám lính TQLC bắn giết các quân nhân không cùng binh chủng trên các tàu di tản từ Đà Nẵng ( theo
Tháng Ba Gãy Súng của Cao Xuân Huy) là chuyện có thật. Là một vết nhơ đáng lên án. Nhưng bản chất sự việc
khác hẳn với chuyện Thám Báo.
Vì đám lính này thuộc loại vô kỷ luật. (Có nhiều thanh niên du đảng, phạm pháp, sau thời gian thụ xong án, cũng
được đưa vào lính, bổ sung cho một số đơn vị hao hụt quân số). Với bản chất (xấu) ấy, lợi dụng khi đơn vị gặp lúc
xáo trộn, mạnh ai nấy sống, không còn được sự chỉ huy chặt chẽ nữa, thì những con người này trở về với bản chất
xấu của họ, giết người , cướp bóc. Vì vậy, sau khi các chiếc tàu di tản từ miền Trung vào Nam, đã không cho cặp
bến Vũng Tàu hay Sài gòn, mà tất cả được lệnh cặp vào Đảo Phú Quốc. Một Tòa Án Mặt Trận đã được thành lập
khẩn cấp tại đây, hầu hết những người lính TQLC phạm tội đều bị xử bắn.
Do đó, theo mình, những tên lính lưu manh, phạm tội này, không thể so sánh với những người lính thám báo hay
biệt kích. Khác nhau rất xa, mà người sĩ quan miền Nam nào cũng nhận thấy khác biệt rất rõ ràng."
Tuy có lần, nhà văn Dương Thu Hương đã tuyên bố, dùng văn chương để làm chính trị. Nhưng khi đọc, nghiên cứu,
tôi thấy những tác phẩm của chị được chia thành hai mảng, chính luận và văn hiện thực phê phán nhân đạo, rất rõ
ràng. Nếu như, văn chính luận của chị đanh thép, quyết liệt, hừng hực sức chiến đấu chống bạo quyền, làm nên tên
tuổi nhà văn phản kháng Dương Thu Hương, thì văn học hiện thực, nhân đạo xoáy sâu vào nỗi đau của con người,
xã hội, lại làm nên một nhà văn Dương Thu Hương can trường và tài hoa khác.
Phải nói thẳng, từ sau Nhân Văn- Giai Phẩm bị đàn áp, đến năm đầu đầu thế kỷ này, chưa có nhà văn nào, can đảm
viết thẳng thắn, máu lửa như Dương Thu Hương. Những ngày tháng tù đày ấy, dường như càng làm cho tinh thần
chị vững vàng và can đảm hơn lên. Những bài viết, những trang sách của chị, không chỉ còn là nhát dao chọc vào
ung nhọt của xã hội nữa, mà nó như trái bom, dội xuống đầu chế độ và nhà cầm quyền. Do vậy, sách của chị, cho
đến nay, hoàn toàn bị cấm xuất bản và phát hành trong nước.
Việc cấm xuất bản và phát hành, kể cả những cuốn sách văn học hiện thực nhân đạo, của những nhà văn Dương
Thu Hương, Võ Thị Hảo, Phạm Thị Hoài… gần đây, cho thấy rõ một điều, nhà nước chưa bao giờ từ bỏ lý lịch hóa,
chính trị hóa văn học. Với cách quản lý văn hóa, nhưng lại thiếu văn hóa, ích kỷ, thiển cận như vậy, gây thiệt thòi cho
người đọc và tổn hại cho cả nền văn học, vốn dĩ đã èo uột.
Hệ quả quái thai được sinh ra từ chiến tranh
Ngược dòng lịch sử, đất Việt ta đã trải qua bao phen chống ngoại xâm và những năm tháng dài nội chiến, chém
ngang hình đất nước, nhưng chưa cuộc chiến nào tàn nhẫn, man rợ như cuộc chiến huynh đệ tương tàn vừa qua.
Chủ thuyết nào, ý thức hệ nào, đã ấn súng, ấn dao vào tay học sinh, sinh viên, và cả những người nông dân chất
phác, hiền lành, để họ lao vào nhau chém giết, một cách thú vật, điên cuồng như vậy?
Một câu hỏi tưởng chừng đơn giản, vậy mà, trải qua mấy chục năm và bao thế hệ, không tìm ra câu trả lời. Bởi, lời
giải đáp ấy, đã được che giấu, bằng họng súng và tù đầy. Và chỉ đến khi, người nghệ sĩ, nhà văn Dương Thu Hương
dám đánh đổi tù đày, thì sự thật mới được phơi bày. Một sự thật, ai cũng biết, nhưng không đủ can đảm nói và viết
ra.
Để viết những trang sách này, Dương Thu Hương đã bước ra khỏi cuộc chiến, ra khỏi hận thù, để tìm góc nhìn trung
thực nhất. Thông qua lời tự thú của Quân, nhà văn không chỉ vạch trần tội ác dã man tàn bạo, của người lính miền
Bắc, mà còn vạch ra hành động vô nhân đối với đồng loại của người lính thám kích miền Nam. Chúng ta, đọc lại
đoạn trích dưới đây, để thấy được cách giết người man rợ của người lính miền Bắc:
“…Hùng thường nghĩ ra những cách giết người đặc sắc trong các trận giáp lá cà. Và gã kể lại cho đồng đội nghe
với khoái cảm không che đậy. Kẻ thì gã xọc lê từ họng xuống tim, - kẻ gã chọc từ nách bên phải qua bên trái, - kẻ
gã lại đâm từ hạ bộ ngược lên ở bụng. Kỳ thú nhất là một lần đánh ấp, gã bò vào phòng riêng một tên sĩ quan Nguỵ ,
chờ tên này dính chặt với cô vợ trắng phôm phốp của y như một cặp cá thờn bơn, gã mới phóng lê từ trên xuống
"Một xọc xuyên hai, bảo đảm là sướng mắt…".(chương 11)
Khi người lính miền Bắc, đang sung sướng, vui mừng, tìm ra những kiểu giết người mới, thì người lính miền Nam lại
điên cuồng với những với những kiểu hãm hiếp, giết người thời trung cổ:
“…Chúng tôi hướng vào góc rừng đã tỏa ra mùi thối khủng khiếp mà đi. Tới vực cô hồn, gặp sáu cái xác truồng. Xác
đàn bà. Vú và cửa mình bị xẻo, ném vung vãi khắp đám cỏ xung quanh.
Nhờ những tấm khăn dù, nhờ những chiếc cổ áo sơ mi kiểu lá sen tròn và hai ve nhọn mà chúng tôi nhận ra đấy là
những người con gái miền Bắc. Có lẽ họ thuộc một binh trạm hoặc một đơn vị thanh niên xung phong cơ động nào
đó bị lạc. Cũng có thể họ đi kiếm măng hoặc rau rừng như chúng tôi rồi vấp bọn thám báo.
Chúng đã hiếp các cô tàn bạo trước khi giết! Những cái xác bầm đập méo mó! Da thịt con gái nõn nà tươi thắm vậy
mà khi chết cũng thối rữa y như da thịt một lão già phung lỡ hay một con cóc chết!…"(chương 1)
Viết đến những hình ảnh man rợ này, chợt làm tôi nhớ đến câu chuyện, hơn bốn mươi năm trước. Tôi có người chị
họ khá xinh đẹp, làm việc ở Hòa Bình. Đầu những năm 1969-1970, chị đang là đối tượng kết nạp Đảng. Thời kỳ đó,
thương binh, bộ đội người miền Nam ra Bắc tập kết, an dưỡng khá đông. Thành phần này, rất được chính quyền ưu
đãi. Bọn này, thường tụ tập bầy đàn, rượu chè, ăn nhậu, không chịu trả tiền, đập phá, đốt nhà, đánh người vô cớ…
Nhưng chính quyền thường làm ngơ. Không hiểu sao, có một thương binh quê ở miền núi An Khê, Bình Định, đem
lòng yêu người chị họ tôi. Lúc đầu, chị không chịu, nhưng có lẽ, do sắp xếp của tổ chức hay vì cái thẻ Đảng viên,
nên chị gật đầu. Cưới được một thời gian, chị dẫn hắn về nhà tôi chơi. Bữa tối, mẹ tôi mua lòng lợn, đãi khách. Cả
nhà đang ăn ngon lành, tự nhiên hắn kể chuyện chiến trường. Đến đoạn giết tù binh, lấy gan xào với rau rừng ăn, làm
cả nhà buông bát đứng dậy. Lúc đó, tôi hơn chục tuổi, nhưng do tính tò mò, ngồi nghe hết câu chuyện ăn gan người
của bọn hắn. Theo hắn, bọn hắn ăn thịt đồng loại, không hẳn là vì đói, mà cần cảm giác và ăn cho biết vậy thôi. Sau
năm 1975, hắn cũng không chịu về quê Bình Định. Sau này, nghe nói hắn bị điên. Không rõ, bị điên vì bị vợ bỏ, hay
bị vật, bởi những linh hồn người, hắn đã ăn gan xẻ thịt.
Không ai có thể giải thích được, những cái quái đản, mà người ta đã đưa vào cuộc chiến này. Nó như những thứ
bùa ngải hận thù, không chỉ nhử một dòng họ, gia đình, anh em, mà cả dân tộc lao vào chém giết nhau.
Vâng! Một sự nhồi sọ của chủ thuyết quái thai, không tưởng, hay một học thuyết bán mua chiến tranh của những kẻ
đến từ bên kia bán cầu. Chúng cùng nhau, đưa cả dân tộc đến tuyệt lộ. Đoạn văn diễn tả sự dã man, lòng hận thù
đến mù quáng, lên tới tột đỉnh, dưới đây, là những tiếng kêu bi thảm, xót xa, hay là một lời ai điếu cho cả một dân
tộc, của Dương Thu Hương?
“…Hai bên đều hò hét, cả hai bên đều điên cuồng chém giết, - cả hai bên đều rú lên khoái trá khi máu đối phương
phụt khỏi tim, óc đối phương vọt khỏi não, - cả hai bên đều quằn quại như sâu bọ dưới những làn đạn lửa, - phần
sống sót lê khỏi chiến địa để làm mồi dự trữ cho các mặt trận tiếp theo, - phần đã chết tự hiến nốt hình hài cho các
loài ác thú và dòi bọ.
Cả hai bên đều yên trí là mình đã hy sinh xứng đáng cho lý tưởng. Than ôi, họ có chung một nòi giống, con của mẹ
Âu Cơ và cha Lạc Long Quân. Họ là những hữu thể được tái sinh trong cùng một bào thai - không xứ sở nào có
được cái huyền thoại mê ly đến thế!."(chương 13)
Quan tài, đường đi đến của cuộc chiến huynh đệ tương tàn
Hành trình, dòng người cõng những cỗ quan tài, đi ra nơi có tiếng súng nổ, là biểu tượng, là con đường chết của
cuộc chiến này. Và đó cũng là thông điệp nhà văn muốn gửi đến người đọc, về giá trị, kết cục của nó, trong tác
phẩm Tiểu Thuyết Vô Đề. Chiếc quan tài đó, không chỉ chứa thể xác, mà nó còn là những nấm mồ chôn đi ham
muốn, linh hồn khát vọng của con người.
Nếu ta đã đọc, Bên Kia Bờ Ảo Vọng, hay Những Thiên Đường Mù, thì thấy tính ẩn dụ, so sánh trong Tiểu Thuyết Vô
Đề, đã đạt đến mức độ cao hơn. Thủ pháp nghệ thuật này, được chiếu rọi từ những ký ức rời rạc, đứt quãng của
Quân, (người thuật truyện) xuyên suốt tác phẩm.
Đọc đoạn văn dưới đây, ngoài cái quặn đau cho một kiếp nhân sinh, ta còn thấy được, trong binh đao khói lửa, còn
đâu nữa cái đẹp, thanh bình từ tạo hóa sinh ra. Chiến tranh đã nhập đồng vào linh hồn, với người lính, vẻ đẹp chỉ còn
hiển hiện trong cái chết, trong sự chém giết nhau điên cuồng. Đây là một trong những đoạn văn ẩn dụ, so sánh, hay
và rung động nhất, mà tôi đã được đọc: “… Đoàn người mang những cỗ quan tài in hình trên đường viền của núi,
giữa khung cảnh rạng đông. Bóng họ đi động chậm chạp nhưng kiên nhẫn, mê mải. Hành trình. Con người tự vắt
kiệt sức mình để đem được quà dâng cho chiến trường. Trong các tặng vật ấy, biết đâu chẳng có một chiếc dành
cho tôi?... Và tôi, và bất cứ người lính nào cũng đã sẵn sàng tiếp nhận món quà kì lạ đó... Trong cả hai hành động,
có chung vẻ đẹp tuyệt vời của chiến tranh.
Bất chợt, tôi sực nhớ tiếng kêu xé ruột, man đại của mẹ tôi, gương mặt dầm mồ hôi, nỗi đau làm méo mó một cách
kinh dị. Rồi cũng chính trên gương mặt méo mó kinh dị ấy, ngời lên nụ cười rạng rỡ hạnh phúc khi tiếng khóc oe oe
của đứa con cất lên và đôi bàn chân đỏ hỏn của nó quẫy đạp trong không khí... Đó, vẻ đẹp mặn mòi của đời sống,
vẻ đẹp của tạo sinh. Vẻ đẹp ấy đã xa vời. Nó lẩn khuất với những kỷ niệm vụn vặt thời thơ bé. Tôi bỗng kinh hoàng.
Người ta không thể cùng một lần đắm mình vào hai dòng nước…” (chương 9 )
Có người đã mạt sát, hành vi chủ động, van xin được làm tình với Quân là thú vật của Viếng, người nữ quân nhân,
một mình quanh năm canh nghĩa địa, sống với xác chết, giữa rừng. Tôi cho đây là cái nhìn khắt khe, thiếu cảm thông.
Bởi, hành động đó là bản năng, khao khát sống, khao khát yêu, khao khát làm tình của con người. Ai cho Viếng, một
cơ hội, một ước vọng đó? Khi chiến tranh bom đạn và những xác chết đang bủa vây lấy cô. Nếu như, ta đã đọc
những câu thơ của người lính VNCH Huỳnh Hữu Võ, chắc chắn sẽ có cái nhìn khách quan, cảm thông hơn về Viếng,
về những người lính cả hai phía, nơi chiến trường: Anh phải ngủ thật nhiều ban ngày/để đêm từng đêm ngồi ôm
súng gác/anh phải cười nơi đây thật to/để khỏi nghe tiếng súng/anh phải văng tục nơi đây cho đã/vì thiếu bóng đàn
bà suốt tháng/anh phải thủ dâm.
Tôi nghĩ, nếu như nhà văn để Quân không từ chối cự tuyệt Viếng, thì tính nhân đạo sẽ nhân lên. Và chắc chắn,
người đọc sẽ thỏa mãn hơn. Tuy nhiên, ý đồ của tác giả, muốn bật lên cái tàn nhẫn tận cùng của chiến tranh, sẽ phải
giảm đi.
Đọc Tiểu Thuyết Vô Đề, ta không chỉ thấy được bản năng sống, khao khát yêu, nhu cầu sinh lý con người bị tước
bỏ, để cho những người lính, như Biền phải làm tình với cả súc vật, một cách nhục nhã như vậy. Mà ta còn thấy
được, sự giả dối lưu manh ngay trong chiến tranh, của những tướng lãnh, những kẻ chuyên giảng giải đạo đức.
Hình ảnh so sánh dưới đây, cho ta thấy rõ điều đó:
“…Lũ dân thường như chúng ta, chịu cực đủ điều, bóp miệng bóp mồm, bóp cả đến con c... Tụi tướng lĩnh nó có
khổ như thế đâu? Ra Bắc vào Nam, đâu đâu chúng nó cũng có đàn bà. Ngày xưa thì là phi là thiếp, giờ thì các
đồng-chí-nữ phục vụ! Trò đểu, thời nào cũng giống nhau là thế!...” (chương 6)
Sự lưu manh, giả dối ấy, không dừng lại mức độ ăn chơi hưởng lạc, nó đã được đẩy lên mức giết người tàn nhẫn.
Nhân danh đảng, cùng với sự dốt nát của mình, chính ủy trung đoàn đã đưa cả đại đội nướng vào cái cối say thịt. Từ
đây, ta thấy rõ hơn, sinh mạng người lính trong chiến tranh, dưới bàn tay của những kẻ cuồng vọng này, quả thật, chỉ
là trò chơi, quá rẻ mạt:
“Lão Hữu muốn lập công với sư đoàn nên quyết định đánh lẻ. Bọn dưới nịnh lão, ủng hộ kế hoạch tác chiến vắng
mặt sư trưởng. Lão lại là bí thư đảng ủy trung đoàn, toàn thể các đảng ủy viên nhất trí quyết định của ban thường vụ.
Đại đội trinh sát vừa muốn lấy lòng lão Hữu, vừa lười nên báo cáo ẩu, địa hình địa vật hoàn toàn sai. Thế là đại đội
B41 của thằng em tôi được lệnh tiêu diệt các hỏa điểm của địch, mở đầu trận F.E.18. Chúng nó bò tới trận địa, vừa
rút xẻng ra đào hầm trú ẩn thì bị ngay. Ở đó, không phải loại đất pha cát như tụi trinh sát báo cáo, thuần một thứ đất
sỏi pha đá ong già, lưỡi xẻng chọc xuống là lửa lóe lên. Các hỏa điểm đích cứ thấy đốm lửa lóe lên ở đâu là nã cối
và các loại đạn nóng vào đó. Đại đội B41 phơi lưng, không một hòn đá, gốc cây ẩn núp. Địch trút cả núi đạn xuống.
Hôm sau phải điều động ba đại đội tới đánh trả và lấy xác các tử sĩ ra. Lại thêm năm mươi nhân mạng hy
sinh...”(chương12)
Lời sám hối dưới cái nhìn nhân bản
Thật kỳ lạ, hai cuốn tiểu thuyết có cách viết và cái nhìn rất mới về chiến tranh lại thuộc về hai nhà văn nữ. Đó là Tiểu
Thuyết Vô Đề của Dương Thu Hương và Dạ Tiệc Qủi của Võ Thị Hảo. Khi đọc, tôi có cảm giác khác hẳn, bởi nó đã
giải mã được bản chất của sự việc, cùng bộ mặt thật của những kẻ đứng sau cuộc chiến vừa qua. Mà những cuốn
sách khác chỉ mới dừng ở mức độ, bóc trần sự tàn nhẫn, khốc liệt và thân phận con người sau chiến tranh, kể cả
Nỗi Buồn Chiến Tranh của Bảo Ninh.
Thật vậy! Khải hoàn môn ấy, được tạo bằng xương máu của cả một dân tộc khổ đau, nhưng vinh danh lại thuộc về
những kẻ bán mua chiến tranh. Những lý tưởng, những hình tượng thánh thần, chỉ là liều thuốc, ru người vào trong
khói lửa binh đao. Từ cái nhìn ấy, Dương Thu Hương đã mỉa mai, điểm mặt chỉ tên, những kẻ đứng sau, thực sự là
ông chủ của cái Khải hoàn môn đó: "Chúng tao thờ một chủ thuyết. Chúng mày cũng thờ một chủ thuyết. Vị thần
chúng tao thờ tên là Mác, mũi lõ, mắt xanh, râu rậm. Còn vị thần chúng mày thờ tên là gì? Tóc thưa hay tóc rậm?
Trán hói hay trán vuông? Để râu dê hay râu cáo?"(chương 12)
Và cũng chính cái chủ thuyết hoang tưởng đó, đã đẻ ra tầng lớp thống trị mới, với những phương thức cai trị quái
đản, phi nhân. Nếu nhìn lại lịch sử, từ cải cách ruộng đất đến những gì đang xảy ra trên đất mẹ hôm nay, ta mới thấy
được trái tim nhạy cảm trong con người nghệ sĩ, nhà văn Dương Thu Hương:
“…Bây giờ, đa phần là bọn phong học cương thường đạo lý. Họ học luân lý Mác-lê. Cướp vườn cướp ruộng nhà
người ta cũng là theo sách Mác. Lột quần vợ người ta mà ngủ cũng là vì lợi ích của đấu tranh giai cấp…” (chương 6)
Khi chưa tàn cuộc chiến, Dương Thu Hương đã nhận ra bộ mặt tráo trở của chế độ. Và đã vạch ra, sự coi thường,
rẻ rúng con người, của những kẻ ngồi trên, sau cuộc chiến. Đây là cái nhìn sáng suốt, đầy ắp nhân bản của nhà văn.
Sự đập phá kho hàng chiến lợi phẩm, không để rơi vào tay những kẻ có chức, có quyền của những người lính, tuy là
hành động tiêu cực, nhưng nó lại là phát súng, báo hiệu sớm, cho sự phản kháng của người dân lương thiện với
cường quyền, sau này. Rất cảm ơn, nhà văn Dương Thu Hương, đã sớm chỉ ra điều này, từ mấy chục năm về
trước: “- Em nghĩ nhiều... Em cũng nghe chán vạn điều thiên hạ nói. Nhưng mà, nhân dân lúc có thật, lúc như bóng
ma: Nếu cần lúa, nhân dân là con bò kéo cày. Lúc có chiến tranh, con bò ấy mặc áo giáp và cầm súng. Rồi, khi mọi
sự đã qua, vào những ngày lễ lạt, hội hè... người ta tôn xưng nhân dân như hú vọng các hồn ma, tưởng thưởng cho
khói thơm và tro tiền, còn phần xôi thịt thì kẻ khác hưởng…”(chương 15)
Có thể nói, Tiểu Thuyết Vô Đề có lời văn đẹp và súc tích nhất, trong những cuốn sách của Dương Thu Hương, mà
tôi đã đọc. Tâm trạng, cũng như cái nhìn của tác giả về chiến tranh và xã hội đương thời, đã hiện lên rõ nét, từ diễn
biến nội tâm của (nhân vật) người lính. Và tác giả, đã giải quyết thành công mâu thuẫn nội tâm nhân vật. Tuy nhiên,
không riêng Tiểu Thuyết Vô Đề, mà các tác phẩm khác, của Dương Thu Hương, có nhân vật và những câu thoại
căng, khá lên gân làm cho người đọc, đôi khi cảm giác hơi bị hẫng.
Tôi không dám nghĩ, Tiểu Thuyết Vô Đề là kêu tiếng kêu đau đớn, lời sám hối chung cho một nòi giống, một cộng
đồng, như có lần nhà văn Dương Thu Hương đã viết. Nhưng đọc nó, quả thật, tôi đã cảm được nỗi lòng người nghệ
sĩ, nhà văn qua những hành động, hay giằng xé nội tâm nhân vật của mình. Và đây, là một trong ba cuốn sách viết về
chiến tranh, mà tôi thích. Đọc xong, gấp cuốn sách lại, tôi vẫn cảm thấy thiêu thiếu, dường như có điều gì nhà văn
chưa nói hết….
Đức Quốc ngày 25-10-2014
Đỗ Trường