logo
Men for what watch? Watch, watch and call. A tool that is used for timing on breitling replica the wrist. Men wear watches what kind, starting from the basic color and size, have their own right watches, you can follow the watch's color, shape, value, occasions to carefully match their own clothing. For the choice of rolex replica a watch, the first to look at and their identity are consistent with a rural old people wear watches, a bit unrealistic, even if there is, it would have been too ostentatious. A Multi Millionaire owner, wearing a few hundred dollars of high imitation table also lost their identity, and even make friends on their own business is not good. In the formal social occasions, watches are often regarded as jewelry, for usually only ring a jewelry can be worn by rolex replica uk men is respected. Some people even stressed that: "the watch is not only a man's jewelry, but also men's most important jewelry." In western countries, watches, pens, lighters was once known as adult men "three treasures", is every man even for a moment can not be away from the body.

Chào mừng các bạn! Mong bạn Đăng nhập. Xin lỗi bạn, tạm dừng việc đăng ký mới.►Nhấn hình ảnh nhỏ sẽ hiện ảnh lớn ‹(•¿•)›

Thông báo

Icon
Error

Tùy chọn
Xem bài viết cuối Go to first unread
song  
#1 Đã gửi : 14/12/2014 lúc 09:24:06(UTC)
song

Danh hiệu: Moderate

Nhóm: Registered
Gia nhập: 21-02-2012(UTC)
Bài viết: 24,173

Cảm ơn: 1 lần
Được cảm ơn: 2 lần trong 2 bài viết
Văn học Việt Nam có nhiều huyền thoại. Một trong những huyền thoại đó là huyền thoại về một vẻ đẹp đặc biệt nào đó của thơ, tức là thay vì nhìn nhận và chấp nhận tính chất đa dạng của thơ, quy luật vận động của thơ, người ta khăng khăng đòi hỏi thơ phải có một phẩm chất nhất định. Ở phương diện này, có hai quan niệm có ảnh hưởng sâu rộng.

Thứ nhất là đồng nhất cái đẹp và cái cao cả. Tại Việt Nam, người phát ngôn quan điểm này rõ ràng nhất có lẽ là Nguyễn Đình Thi. Ông viết: “Nói nghệ thuật tức là nói đến sự cao cả của tâm hồn. Đẹp tức là một cái gì cao cả. Đã nói đẹp là nói cao cả.” (1) Nguyễn Đình Thi không nói điều gì mới. Ở Trung Hoa và Việt Nam trước đây, khi chủ trương “văn dĩ tải đạo”, người ta đã ít nhiều đồng nhất cái đẹp và cái cao cả rồi. Ở Tây phương, sự đồng nhất này cũng xuất hiện rất sớm: ngay từ đầu công nguyên, Longinus đã có hẳn một chuyên luận về cái cao cả (2), các nhà thơ cổ điển và Tân cổ điển cũng từng tôn sùng cái cao cả, coi cái cao cả như một phạm trù thẩm mỹ chủ đạo. Các nhà văn Mác-xít chỉ có “công”, một mặt, làm cho huyền thoại này phổ biến hơn, mặt khác, làm cho nội dung của nó hẹp hòi hơn và giáo điều hơn.

Hoàng Ngọc Hiến phân tích quan niệm này một cách sắc sảo: “Trong lãnh vực mỹ học, dấu ấn của cái cao cả tương xứng với sự lấn át của bình diện cái phải tồn tại đối với bình diện cái đang tồn tại. Trong phương thức mô tả nghệ thuật là sự lấn át của cấp lý tính đối với cảm tính trong sự nhận thức của chủ thể mỹ học, sự lấn át của nội dung đối với hình thức trong cấu trúc của hình tượng và tác phẩm nghệ thuật, sự lấn át của lý trí đối với xúc cảm trong hình ảnh con người mới, sự lấn át của bản chất đối với hiện tượng trong hình ảnh được phản ánh vào tác phẩm.” (3)

Hậu quả, về phương diện sáng tác, nói như Hoàng Ngọc Hiến, nó dẫn đến “chủ nghĩa hiện thực phải đạo”, về phương diện thưởng thức văn học, theo tôi, nó dẫn đến một thứ có thể gọi là chủ nghĩa đề tài: người ta đánh giá một tác phẩm hoặc một nền văn học căn cứ vào tầm vóc của các vấn đề được đặt ra, được mô tả. Theo cách nhìn đó, một tác phẩm mô tả số phận của một dân tộc sẽ lớn hơn tác phẩm mô tả số phận của một địa phương, của một gia đình, và dĩ nhiên, lớn hơn hẳn tác phẩm mô tả số phận của một cá nhân; một vấn đề chính trị cao hơn một vấn đề xã hội, một vấn đề xã hội lại cao hơn một vấn đề tâm lý; hình ảnh người lính đang lao mình trên trận địa, giữa đạn bom ầm ầm, khói lửa mù mịt đẹp hơn hình ảnh một người lính đang đứng gác; và hình ảnh người lính gác ấy dù sao cũng đẹp hơn hình ảnh một người thiếu nữ nằm trằn trọc trên giường vì những xao xuyến của một mối tình đầu. Đó là lý do tại sao Chế Lan Viên có lần chê trách Nguyễn Du chỉ tả cuộc đời lênh đênh của Thuý Kiều mà không tả cuộc đại phá quân Thanh hào hùng dữ dội của Quang Trung, hoặc lần khác, chê trách cha ông ngày xưa nói chung:

Chỉ có Cô Tô! Chỉ có Tầm Dương! Chỉ nghe Xích Bích!

Ngòi bút xưa không hề viết: Hồng Gay!

(Cành phong lan bể)

Quan niệm thứ hai là đồng nhất cái đẹp của thơ với... Thơ Mới. Quan niệm này, chưa bao giờ được phát ngôn chính thức nên không ai đặt ra vấn đề nó đúng hay sai, song, tai hại thay, nó lại có ảnh hưởng rất lớn, ở rất đông người, từ giới làm thơ đến giới đọc thơ. Chỉ cần đọc lại các bài viết đả kích các cuộc vận động đổi mới thơ lâu nay, đặc biệt là gần đây, tại Việt Nam, chung quanh các tập thơ của Lê Đạt, Dương Tường, Hoàng Hưng, Nguyễn Quang Thiều... chúng ta thấy ngay là người ta đều, một cách có lẽ là vô ý thức, lấy Thơ Mới làm chỗ dựa cho các luận cứ của họ. Lý do hình thành quan niệm này, thật ra, không khó hiểu. Quá say mê thơ Xuân Diệu, Huy Cận, Vũ Hoàng Chương, Nguyễn Bính..., người ta dần dần, một cách tự phát, coi đó là những mẫu mực của thơ nói chung. Người ta đòi hỏi thơ, về ngôn ngữ, phải trong sáng và phải có... vần; về nhạc điệu, phải ngân nga, phải trầm bổng, phải nhịp nhàng; về hình tượng, phải có trăng, có sao, có hoa, có cỏ, có chim hót, có suối reo; về cảm xúc, phải làm cho họ, đọc xong, thấy nao nao, thấy bâng khuâng, thấy ngậm ngùi; và, quan trọng nhất, về tư tưởng, phải làm sao cho họ... hiểu. Để tăng cường sức thuyết phục, người ta thường coi những đặc điểm nêu trên là... “tính dân tộc”.

Không ai có thể phủ nhận Thơ Mới là một giai đoạn huy hoàng, thậm chí có thể nói, huy hoàng nhất trong lịch sử thơ ca Việt Nam. Chỉ trong một thời gian ngắn, cực ngắn, chưa tới mười lăm năm, nó đã đưa ra bao nhiêu thử nghiệm, bao nhiêu khám phá, và bao nhiêu là thành tựu rực rỡ trong sáng tác. Thơ Mới đáng được yêu, đáng được say. Đã mấy thế hệ yêu và say nó. Cả cái yêu lẫn cái say ấy chỉ là điều bình thường. Điều bất bình thường là ở đây người ta lại không dừng lại ở chỗ yêu và say ấy mà còn muốn người khác phải chấp nhận cái mình yêu, say như là định nghĩa độc nhất về thơ: đã là thơ thì nó phải thế, không được khác. Thái độ như thế vừa thô bạo lại vừa khờ dại: người ta quên mất quy luật vận động của thơ. Trước năm 1930: Thơ Mới chưa có. Sau năm 1945: không có gì bảo đảm là Thơ Mới sẽ tiếp tục. Mà nó không nên tiếp tục. Giá trị lớn nhất trong lãnh vực văn học nghệ thuật là sự sáng tạo. Sự tồn tại dai dẳng của một trào lưu, bất kể là trào lưu gì, không bao giờ là một sự kiện đáng mừng: nó chỉ là dấu hiệu của sự nghèo nàn và bế tắc.

Cũng vậy, cái chiêu bài “tính dân tộc” mà những người bảo thủ thường giương ra chả nói lên được điều gì cả. Chỉ có một tiêu chuẩn duy nhất xác định cái gọi là tính dân tộc: đó là thời gian. Nếu thế, hệ luận đương nhiên phải rút ra là: bất cứ cái gì, dù ngoại lai đến mấy, dù mới lạ đến mấy, nhưng đã trải qua được sự thử thách của thời gian, tồn tại trong xã hội đủ lâu thì tự nhiên nó lại mang “tính dân tộc”. Thơ Đường luật, lúc mới du nhập vào Việt Nam, hẳn người ta cũng thấy có chút bỡ ngỡ, sau, quen dần, lại thấy nó đầy “dân tộc tính”. Thơ Mới, lúc mới xuất hiện, bị chê là “Tây”, sau, chúng ta cứ đọc, đọc hoài, riết nó nhuốm màu “dân tộc”.

Trong ý nghĩa này, khái niệm tính dân tộc và tính truyền thống đồng nghĩa với nhau. Nhưng trên thực tế, cách sử dụng hai khái niệm này lại không giống hẳn nhau: trong vô số truyền thống, chỉ có một ít được chọn lọc và khuếch đại lên thành “dân tộc tính”. Cơ sở để tiến hành việc chọn lọc ấy là nhu cầu chính trị. Chẳng hạn, khi đang vận động mọi người tranh đấu giành quyền lực, Đảng cộng sản vẫn coi truyền thống kiên cường, bất khuất là dân tộc tính; nhưng khi đã giành được chính quyền rồi thì họ lại nêu cao khẩu hiệu “trung với đảng, hiếu với dân”, nghĩa là truyền thống phục tùng; thời gian gần đây, trong thời gọi là mở cửa, phải chung chạ và phải tiếp xúc với Tây phương nhiều, người ta lại hay nói đến truyền thống “hội nhập nhưng không bị đồng hoá của người Việt Nam”.

Như thế, tính dân tộc không phải chỉ là một truyền thống mà còn là một dự phóng, một dự phóng chính trị. Trong ý nghĩa này, dân tộc tính có thể là tất cả, mà cũng có thể không là gì cả. Nó giống như con cắc kè thay màu từng lúc. Trước đây, nhắm đến việc kích động quần chúng, Đảng cộng sản đề cao tuyệt đối loại văn học có “chất thép”, trong đó, nhà thơ là kẻ “biết xung phong” (Hồ Chí Minh), “đứng ngang tầm chiến luỹ” (Chế Lan Viên), ngược lại, văn học lãng mạn như sương như khói của thời 1932-45 lại bị coi là có hại, cần tiêu trừ triệt để; sau này, đứng trước nguy cơ bị lật đổ, họ lại đề cao loại văn chương lãng mạn: sách thời “tiền chiến” được tái bản ào ạt, nhưng ghét bỏ thậm tệ loại văn chương “chiến đấu”, văn chương “dự báo” vốn được ân sủng một thời. Thời nào họ cũng nhân danh việc bảo vệ “dân tộc tính” cả.

Do đó, khái niệm dân tộc tính thực chất cũng chỉ là một huyền thoại. Dân tộc tính không phải là cái vốn có của một dân tộc mà chỉ là cái mà dân tộc ấy cần có, muốn có khi đối diện với một tình huống đặc biệt nào đó. Nhân danh dân tộc tính để đánh giá thơ thực chất là nhân danh một tiêu chuẩn chính trị để đánh giá thơ: sai; hơn nữa, còn là nhân danh một huyền thoại để đánh giá một thực tại: càng sai. Ngay cả khi người ta không muốn tin vào tính chất huyền thoại của “tính dân tộc” thì việc nhìn từ cái nhìn quá khứ để đánh giá một cái gì trong hiện tại: đứng về phương pháp luận, nó cũng sai nốt.

Mỗi thời đại có một số đặc điểm riêng. Những đặc điểm ấy quy định diện mạo văn hoá - trong đó có thơ - của thời đại ấy. Trước đây, ngay những tài năng kiệt xuất như Phan Bội Châu và Tản Đà cũng không hiểu được Thơ Mới. Không phải tại họ thiếu nhạy cảm đối với thơ. Chủ yếu là tại họ thiếu nhạy cảm trước một hoàn cảnh mới, một khí hậu văn hoá mới, một xu hướng thẩm mỹ mới. Chính những yếu tố ấy có ảnh hưởng sâu đậm đến các trào lưu thơ. Người ta khó mà cưỡng lại được.
Theo Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc (VOA)
_________________
CHÚ THÍCH:
1. Nguyễn Đăng Mạnh (chủ biên) (1985), Các nhà văn nói về văn, tập 1, Tác Phẩm Mới, Hà Nội, tr. 64.
2. Longinus, On the Sublime, in trong tập Classical Literary Criticism, T.S. Dorsch dịch và giới thiệu, Penguin Books, London, 1965, tr. 97-158.
3. Hoàng Ngọc Hiến (1979), “Về một đặc điểm của văn học nghệ thuật ở ta trong giai đoạn vừa qua”, Văn Nghệ (Hà Nội) số 23 ra ngày 9.6.1979.

xuong  
#2 Đã gửi : 17/12/2014 lúc 06:00:05(UTC)
xuong

Danh hiệu: Moderate

Nhóm: Registered
Gia nhập: 21-02-2012(UTC)
Bài viết: 8,813

Cảm ơn: 1 lần
Được cảm ơn: 3 lần trong 3 bài viết
Huyền thoại về sứ mệnh của các nhà thơ

Ở Việt Nam, người ta hay nói về sứ mệnh cao cả của nhà thơ. Tôi cho vấn đề sứ mệnh ấy chỉ là một huyền thoại.

Tuy nhiên, trước hết, cần phân biệt khái niệm “sứ mệnh” và khái niệm “chức năng”. Nói đến chức năng là nói đến mối quan hệ giữa thơ và xã hội, chủ yếu là nói đến tác dụng của thơ. Nói đến sứ mệnh là nói đến mối quan hệ giữa nhà thơ và xã hội, chủ yếu là nói đến nhiệm vụ của nhà thơ. Nhiệm vụ ở đây là nhiệm vụ lúc cầm bút, lúc sáng tác chứ không phải là nhiệm vụ chung chung. Do đó, những nhiệm vụ ấy, trên nguyên tắc, chỉ có thể thực hiện được với điều kiện: chúng phải hợp với chức năng của thơ, bởi vì thơ là phương tiện để nhà thơ hoàn thành nhiệm vụ của mình. Ví dụ, nếu cho chức năng của thơ chủ yếu là chức năng thẩm mỹ thì sứ mệnh của nhà thơ chỉ là làm thế nào để có thơ thật hay, thật đẹp mà thôi. Trong trường hợp này, đòi hỏi nhà thơ phải dùng thơ như một thứ vũ khí tranh đấu là một điều vô duyên. Ngược lại, lời hô hào Nay ở trong thơ nên có thép chỉ có thể “nghe được” khi người ta tin chức năng chủ yếu của thơ là giáo dục và kích động.

Bởi vậy, giữa khái niệm sứ mệnh và khái niệm chức năng có quan hệ chặt chẽ với nhau: để xác định sứ mệnh của nhà thơ, người ta phải xác định chức năng của thơ trước. Nhưng, như René Wellek và Austin Warren đã nhắc nhở trong quyển Lý thuyết văn học (Theory of Literature), thơ có thể có nhiều chức năng, song chức năng chính yếu và tiên quyết của nó là phải trung thành với bản chất của chính nó (1).

Bản chất của thơ là gì? Đưa ra ý kiến của một nhân vật tên tuổi nào đó, trong hay ngoài lãnh vực văn học, về thơ rồi bảo bản chất của thơ đã rõ ràng như điều nhiều người thường làm ở Việt Nam chỉ là một sự nhảm nhí. Theo dõi lịch sử văn học cũng như lịch sử tư tưởng văn học của một số trung tâm văn hoá chính trên thế giới, chúng ta dễ dàng nhận ra những cái gọi là bản chất của thơ, hoặc của văn học nói chung, là cái gì rất bấp bênh: một nhà thơ lãng mạn sẽ nói khác hẳn một nhà thơ cổ điển; một nhà thơ hiện thực (?) sẽ lại nói khác hẳn nhà thơ lãng mạn; một nhà thơ siêu thực sẽ lại nói khác nữa, v.v... Ai đúng, ai sai? Có lẽ ở đây không có vấn đề đúng sai mà chỉ có vấn đề thay đổi cách nhìn, góc độ nhìn và từ đó, vấn đề vận động của bản thân thơ.

Nếu thơ là cái gì vận động liên tục, đặt ra vấn đề chức năng của thơ chỉ là một điều phiêu hốt: trừ Việt Nam và có lẽ, một số quốc gia theo chế độ xã hội chủ nghĩa khác, từ mấy thập niên gần đây, trên thế giới ít ai bàn đến vấn đề này nữa. Ngay trong các từ điển thuật ngữ lý thuyết văn học nổi tiếng, mục từ “chức năng” cũng biến mất từ thời nào.

Khi vấn đề chức năng của thơ không còn nữa, vấn đề sứ mệnh của nhà thơ cũng bị đổ nhào. Song với người Việt Nam, nó lại chưa bị đổ. Đây đó, trên sách báo, ở trong nước, một số người vẫn tiếp tục tru tréo về sứ mệnh của nhà thơ là phải thế này thế nọ; ở hải ngoại, một số người vẫn tiếp tục gào thét về sứ mệnh của nhà thơ là phải thế kia thế khác. Người ta nói bằng một giọng đầy quyền uy. Sự “lì lợm” ấy xuất phát từ nguyên nhân: người ta không quan tâm đến mối quan hệ giữa nhà thơ và thơ mà chỉ chăm chắm vào mối quan hệ giữa nhà thơ và xã hội. Cách nhìn như thế, một mặt, thể hiện thái độ bất cần thơ; mặt khác, nó chỉ là “tàn dư” của một quá khứ xa xăm.

Quá khứ đó là thời giới cầm bút là những người trí thức độc nhất trong xã hội. Theo phương pháp giáo dục ngày xưa, vào trường là chỉ để học về thơ văn kinh sử và mục tiêu tối hậu là phải biết làm thơ viết văn - chủ yếu là làm thơ - thành thạo. Với vốn học như thế, sau khi thi đậu, người ta được bổ làm quan, làm tướng để dẹp loạn, để an dân, để trị nước. Ở Việt Nam, từ gần một trăm năm nay, tình hình đã đổi khác: xã hội càng ngày càng được chuyên môn hoá, giới cầm bút không những mất vị trí độc tôn mà, nói một cách thành thực, cũng không còn giữ được một vai trò gì đáng kể trong sinh hoạt trí thức nữa. Kiến thức và khả năng của họ chỉ thu hẹp trong giới hạn của chữ nghĩa. Trong hoàn cảnh ấy, tiếp tục yêu sách nhà thơ, nhà văn tiếp tục đóng vai trò một người hướng đạo trong xã hội là một điều phi lý: nó xuất phát từ cái nhìn nhuốm đầy màu hoài cổ (2).

Quá khứ đó cũng là thời sách vở là hoạt động văn hoá có quy mô lớn nhất và mạnh nhất trong xã hội. Một buổi ca múa: vài chục hay may lắm, vài trăm người tham dự. Một bài thơ, một áng văn hay: hàng ngàn, hàng chục ngàn, hoặc thậm chí, hàng trăm ngàn người đọc, nghe, nhớ. Ảnh hưởng của nó cả hàng ngàn lần lớn hơn ảnh hưởng một buổi văn nghệ. Nhưng thời ấy qua rồi. Khi báo chí xuất hiện, rồi máy truyền thanh xuất hiện, rồi phim ảnh xuất hiện, rồi tivi xuất hiện, rồi máy vi tính xuất hiện, vị trí của sách vở càng lúc càng bị lung lay và mờ nhạt. Số người đọc sách so với số người nghe radio, xem tivi, xem phim ảnh trở thành cực kỳ khiêm tốn. Hơn nữa, vì số đầu sách được ấn hành càng ngày càng nhiều, càng tràn ngập, số lượng độc giả thực sự của mỗi đầu sách lại càng ngày càng giảm đi. Ở Việt Nam, chúng ta hay khen Võ Phiến, Nguyễn Mộng Giác, Trần Vũ, Đỗ Kh., Nguyễn Bá Trạc, Nguyễn Huy Thiệp, Dương Thu Hương, Phạm Thị Hoài... nhưng có bao nhiêu người thực sự đọc họ? Số ấn bản sách của họ thường chỉ vài ngàn cuốn, bán ì ạch cả mấy năm trời mới hết. Không còn nghi ngờ gì nữa, trong thời hiện đại, liên quan đến các vấn đề thời cuộc, tiếng nói của một nhạc sĩ, một ca sĩ, một tài tử điện ảnh, một nhà bình luận chính trị trên báo chí hoặc trong hệ thống truyền thanh, truyền hình có ảnh hưởng lớn lao hơn một nhà văn, một nhà thơ rất nhiều. Nỗi lo sợ của giới lãnh đạo cộng sản tại Việt Nam hiện nay đối với giới cầm bút, thực ra, chỉ là sự rơi rớt của một thứ tâm lý cổ lỗ.

Đặt vấn đề sứ mệnh của nhà thơ không những sai lầm và lỗi thời. Nó còn có hại. Nếu huyền thoại về một nước thơ chứa đựng một nghịch lý: một mặt chúng ta tự hào về lòng yêu thơ của mình, mặt khác, chúng ta lại rẻ rúng thơ, huyền thoại về sứ mệnh cao cả của nhà thơ lại gắn liền với một nghịch lý khác: chúng ta vừa đề cao thơ (và văn học) lại vừa rẻ rúng những người làm thơ (và những người cầm bút nói chung).

Chả khó khăn gì việc tìm dẫn chứng cho nghịch lý ấy. Chúng ta cứ nghe lời của Trần Thái Tông: “Văn bút tảo thiên quân chi trận” (Văn chương phải có thế trận đuổi nghìn quân giặc), lời Lê Quí Đôn: “Hảo bả văn chương tăng quốc thể” (Phải giỏi lấy văn chương để tăng thể diện quốc gia), lời của Phan Bội Châu: “Sức vãn hồi bút mạnh hơn gươm”... rồi nhìn lại cái chết oan khốc của Nguyễn Trãi, của Cao Bá Quát, thái độ rụt rè, khúm núm của Nguyễn Du trong triều nhà Nguyễn. Chúng ta cứ đọc lại những lời tán dương thơ và văn học của các nhà lãnh đạo Đảng cộng sản như Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng... rồi nhớ đến số phận thảm khốc của những người thuộc nhóm Nhân văn - Giai phẩm, những toan tính ê chề của Chế Lan Viên trước những chiếc bánh vẽ (3), những giọt nước mắt tuôn trào lã chã trên cốc rượu của Nguyễn Tuân (4), nghe lại lời của Nguyễn Đăng Mạnh: “Lãnh đạo khinh bỉ sâu sắc văn nghệ sĩ” (5), lời của Mai Văn Tạo: “Chưa bao giờ văn nghệ sĩ bị rẻ rúng như bây giờ” (6), lời của Nguyễn Minh Châu: “Nhà văn nước mình tận trong tâm can ai chẳng thấy mình hèn?” (7) Chúng ta cứ nhìn vào văn học Trung Hoa nơi có đầy những giai thoại thú vị về sự ưu ái của cuộc đời đối với nhà thơ: nhà thơ này say ngất ngưởng giữa triều mà vua không hề trách mắng, nhà thơ kia châm chọc vua mà vua không hề tức giận, nhà thơ nọ làm được một bài thơ hay được vua hay một nhà quý tộc nào đó thưởng cả trăm lượng vàng, cả ngàn thước lụa, rồi nhìn lại lịch sử văn học nước nhà, đố ai tìm ra người nào hưởng được một, dẫu chỉ một, trong vô vàn những sự may mắn ấy? Tự nhiên tôi lại nhớ đến hai câu thơ tương truyền của Lê Ngô Cát, tác giả quyển Quốc sử diễn ca, đời Tự Đức:

Vua khen thằng Cát có tài

Ban cho cái khố với hai đồng tiền.

Giai thoại kể tiếp: sau, hai câu thơ đầy vẻ châm biếm ấy, cuối cùng, lọt vào tai Tự Đức. Tự Đức nổi giận đẩy ông lên làm bố chánh Cao Bằng, một vùng biên ải xa xôi, hẻo lánh, chẳng khác gì một biện pháp lưu đày.

Bằng chứng về tính chất nghịch lý giữa một bên là lời ca tụng thơ nhiệt liệt và một bên là thái độ thờ ơ hay rẻ rúng trước nhà thơ ê hề trong lịch sử văn học Việt Nam, đặc biệt thời hiện đại, từ năm 1945 lại đây. Có điều, theo tôi, nếu tính chất nghịch lý trong huyền thoại về một nước thơ là một nghịch lý thật thì tính chất nghịch lý ở đây chỉ là một nghịch lý giả, nghĩa là, nghĩ cho cùng, nó chẳng có gì là nghịch lý cả. Nó tự nhiên, nó đương nhiên như thế. Thực chất giữa việc sốt sắng đề cao sứ mệnh của thơ, của nhà thơ và việc rẻ rúng người làm thơ có một mối quan hệ nhân quả: người ta càng đề cao sứ mệnh của thơ, của nhà thơ bao nhiêu, nhân phẩm của nhà thơ càng bị hạ thấp bấy nhiêu.

Thì cũng dễ hiểu. Trước hết, nên để ý: khi nói đến sứ mệnh, bao giờ người ta cũng nhắm đến khía cạnh đạo đức hoặc khía cạnh chính trị, thường nhất là khía cạnh chính trị, nhưng chính trị, ở đây, bao giờ cũng nhuốm màu đạo đức: người ta lấy một giá trị đạo đức như hoà bình, công bằng, tự do... để làm lý tưởng hầu dễ phát động một phong trào chính trị. Đạo đức, như vậy, ở đây, lại trở thành một công cụ cho chính trị. Khi nhà thơ hay nhà văn theo đuổi sứ mệnh đạo đức của mình, thực ra, họ đang phục vụ cho một mưu đồ chính trị. Dù muốn hay không, họ cũng biến thành chiến sĩ. Là chiến sĩ, người ta phải đứng trong đội ngũ: chỉ có văn chương đồng phục là được mùa. Là chiến sĩ, người ta phải có tinh thần kỷ luật: cái thường gọi là “văn nô” ra đời từ đấy. Là chiến sĩ, người ta phải coi mục đích cao hơn phương tiện, trong khi nghệ thuật, tự bản chất, là một cái gì ngược lại: ở đó, phương tiện, tức màu sắc, hình ảnh, làn điệu, ngôn ngữ lại cao hơn cái mục đích diễn đạt. Trong sự xung đột ấy, nghệ thuật thường bị thua thiệt, nhường bước cho tuyên truyền.

Cuối cùng, là chiến sĩ, người ta được đánh giá theo một tiêu chuẩn riêng: công trạng trong chiến đấu. Nhưng ở đây lại nảy sinh ra hai vấn đề.



Thứ nhất, từ cái nhìn của xã hội, công trạng của một bài thơ, một áng văn là một cái gì rất khó đánh giá, hết sức mơ hồ. Một mặt, vì mơ hồ, nó dễ bị quên lãng. Hiếm có nhà thơ nào được gắn huân chương chỉ vì sáng tác của họ. Chúng ta nhớ Nguyễn Trãi, trong cuộc kháng chiến chống Minh, được ghi nhận là “luôn luôn ở bên cạnh Lê Lợi, bên trong thì bày mưu, lập kế, bên ngoài thì viết thư, thảo hịch, trở thành bộ óc và tiếng nói của nghĩa quân Lam Sơn” (8), nhưng sau chiến thắng, lại chỉ được Lê Lợi phong cho tước Quan phục hầu, đứng sau hàng mấy chục người. Mặt khác, cũng vì tính chất mơ hồ ấy nên khi cuộc chiến đấu thất bại, người ta lại thường dễ, và trên thực tế, thường hay đổ tội cho những người cầm bút. Sau năm 1975, ở hải ngoại, thỉnh thoảng có người, trên báo chí và trong các cuộc hội thảo, trực tiếp hay gián tiếp ám chỉ giới văn nghệ sĩ phải chịu một phần trách nhiệm trong việc làm Miền Nam sụp đổ!



Thứ hai, từ cái nhìn của cá nhân, cũng vì tính chất mơ hồ trong việc đo lường hiệu quả chiến đấu bằng ngòi bút ấy, các nhà văn, nhà thơ hay bị mất tự tin. Do đó, trong những giai đoạn lịch sử có nhiều thử thách, họ thường buông bút với ý nghĩ: bất cứ việc làm nào cũng đều có ích hơn là việc viết lách. Hơn nữa, cũng vì mất tự tin, người ta tự thấy mình nhỏ nhoi, hèn hạ: khi viết về các chiến công, các anh hùng, người ta viết bằng cái nhìn của anh binh nhì khi đối diện với một vị tướng. Chữ nghĩa, bởi vậy, ít khi dám vượt ra ngoài vai trò của một thỏi son. Nó chỉ trang điểm. Năng lực sáng tạo bị thui chột.

Nguyễn Hưng Quốc (VOA)
___________

Chú thích:

1. Wellek, R. & Warren, A. (1977), Theory of Literature, Harcourt Brace Jovanovich publishers, San Diego, tr. 37.

2. Xem thêm Võ Phiến (1968), “Viết trong tiếng súng”, in lại trong Tạp Bút, Văn Nghệ, California, 1989, tr. 125-140.

3. Bài “Bánh vẽ” của Chế Lan Viên được đăng trên Hợp Lưu số 14 (12. 93 & 1. 94), tr. 63, như sau:



Chưa cần cầm lên nếm, anh đã biết là bánh vẽ

Thế nhưng anh vẫn ngồi vào bàn cùng bè bạn

Cầm lên nhấm nháp

Chả là nếu anh từ chối

Chúng sẽ bảo anh phá rối

Đêm vui.

Bảo anh không còn có khả năng nhai

Và đưa anh từ nay ra khỏi tiệc...

Thế thì còn dịp đâu nhai thứ thiệt?

Rốt cuộc anh lại ngồi vào bàn

Như không có gì xảy ra hết

Và những người khác thấy anh ngồi

Họ cũng ngồi thôi

Nhai ngồm ngoàm...g

4. Trong bài “Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh hoạ” đăng trên Văn Nghệ (Hà Nội) số 49-50 ra ngày 5.12.1987, Nguyễn Minh Châu viết: "Có một nhà văn đàn anh nâng chén rượu lên giữa đám đàn em: “Tao còn sống, còn cầm bút được đến bây giờ là nhờ biết sợ!”. Nói rồi ngửa mặt lên trời cười rung giường, nước mắt tuôn lã chã, giọt đổ xuống đất, giọt đổ vào lòng". Không nói ra, nhưng ai cũng đoán chắc nhà văn đàn anh ấy chính là Nguyễn Tuân.

5. Văn Nghệ số ra ngày 17.10.1987.

6. Dẫn theo Nguyễn Trọng Tín trên Văn Nghệ số ra ngày 3.7.1988.

7. Nguyễn Minh Châu, bđd.

8. Phan Sĩ Tấn & Trần Thanh Đạm (1980), Thơ văn Nguyễn Trãi, nxb Giáo Dục, Hà Nội. tr. 229.
Ai đang xem chủ đề này?
Guest
Di chuyển  
Bạn không thể tạo chủ đề mới trong diễn đàn này.
Bạn không thể trả lời chủ đề trong diễn đàn này.
Bạn không thể xóa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể sửa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể tạo bình chọn trong diễn đàn này.
Bạn không thể bỏ phiếu bình chọn trong diễn đàn này.

Powered by YAF.NET | YAF.NET © 2003-2024, Yet Another Forum.NET
Thời gian xử lý trang này hết 0.182 giây.