Trong Hiến pháp của tất cả các nước trên thế giới đều qui định quyền lực tối thượng của quốc gia thuộc về nhân dân. Và tất cả những gì có liên quan đến tự do đều thuộc về Hiến pháp. Hiến pháp không chỉ là văn kiện pháp lý cao nhất qui định hình thức hay thể chế chính trị quốc gia, mà còn là một văn kiện pháp lý cao nhất bảo đảm quyền của người dân chống lại mọi trường hợp lạm quyền của chính phủ. Bổn phận của mọi quyền lực quốc gia là bảo vệ và kính trọng phẩm giá con người.
Quốc hội Việt Nam bắt đầu đưa bản dự thảo Hiến pháp 1992 sửa đổi ra lấy ý kiến nhân dân. Mục đích của việc lấy ý kiến của nhân dân là để cho bản dự thảo Hiến pháp sửa đổi sẽ hoàn thiện hơn trước khi được Quốc hội thông qua. Tất cả mọi người dân Việt Nam đều mong muốn có một bản Hiến pháp mới tôn trọng và bảo đảm nhân phẩm và các quyền con người. Và Hiến pháp mới phải định định hình nên một thể chế dân chủ để cho mọi người dân đều có quyền ngang nhau trong việc xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng và văn minh. Bởi quyền và trách nhiệm của mỗi công dân, chúng ta có nghĩa vụ phải góp ý vào bản dự thảo Hiến pháp sửa đổi.
Trong bài viết này, tôi chỉ đề cập đến sự xung đột, mâu thuẫn giữa điều 4 Hiến pháp với các quyền con người về chính trị.
Điều 2 bản dự thảo Hiến pháp sửa đổi qui định “Nhà nước là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”. Điều này được hiểu là đa số người dân có toàn quyền quyết định về thể chế chính trị, kinh tế, đối ngoại, an ninh, quốc phòng,… thông qua trưng cầu dân ý. Đa số người dân có quyền lựa chọn đảng cầm quyền, người đứng đầu quốc gia thông qua cuộc bầu cử tự do và công bằng. Tức là đa số người dân có quyền quyết định đảng nào là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Tóm lại là đa số người dân có quyền quyết định về mọi vấn đề của đất nước. Các tổ chức, đảng phái chính trị có trách nhiệm đưa ra các ứng cử viên, cương lĩnh, đường lối của mình để nhân dân lựa chọn và quyết định. Trong khi đó điều 4 của bản dự thảo Hiến pháp sửa đổi qui định “đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Điều này đã phủ nhận quyền lực của nhân dân trong việc lựa chọn đảng cầm quyền thông qua bầu cử cũng như phủ nhận quyền lực của nhân dân trong các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Qui định của điều 4 trái với nguyên tắc của một thể chế Nhà nước dân chủ. Như vậy rất rõ ràng là điều 4 đã mâu thuẫn và xung đột với điều 2. Nếu Quốc hội giữ điều 4 qui định quyền lãnh đạo Nhà nước và xã hội là của đảng Cộng sản thì điều 2 phải sửa lại là “Nhà nước là của đảng Cộng sản, do đảng Cộng sản và vì đảng Cộng sản. Tất cả mọi quyền lực Nhà nước thuộc về đảng Cộng sản.” Hoặc là ngược lại, Quốc hội muốn giữ điều 2 qui định “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân thì phải sửa đổi toàn bộ điều 4.
Điều 6 của bản dự thảo Hiến pháp sửa đổi qui định “Nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước bằng các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước.” Điều này được hiểu là mọi công dân Việt Nam không phân biệt dân tộc, đảng phái, quan điểm chính trị, tôn giáo,… đều có quyền ứng cử trực tiếp vào vị trí lãnh đạo trong các cơ quan Nhà nước, chính quyền từ trung ương đến địa phương. Nhưng điều 4 lại chỉ cho phép những công dân là đảng viên đảng Cộng sản có quyền lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Điều 4 đã bóp chết quyền của những công dân không phải đảng viên đảng Cộng sản thực hiện quyền lực Nhà nước bằng hình thức dân chủ trực tiếp. Như vậy điều 4 đã mâu thuẫn và xung đột với điều 6.
Điều 17 qui định “ Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật; không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội”. Điều này được thể hiện là nhu cầu của một chủ thể tự nhiên với tư cách một con người cần phải có và buộc phải có. Trong xã hội sẽ không có tự do nếu không có sự bình đẳng thực sự giữa các thành viên trong xã hội với nhau. Quyền bình đẳng còn là một giá trị nhân bản của xã hội loài người. Quyền bình đẳng trước pháp luật là quyền không bị pháp luật phân biệt đối xử do sự khác nhau về chủng tộc, giới tính, tôn giáo, quan điểm chính trị,… Trong đời sống chính trị, quyền bình đẳng trước pháp luật được hiểu là mọi công dân Việt Nam đều bình đẳng, có quyền và cơ hội ngang nhau trong việc tự do tham gia ứng cử vào các vị trí lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Trong khi đó theo tinh thần của điều 4 thì chỉ những công dân Việt Nam là đảng viên đảng Cộng sản mới có quyền và cơ hội tham gia ứng cử vào các vị trí để lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Hiện nay, ở Việt Nam chỉ có hơn 3 triệu công dân là đảng viên đảng Cộng sản, trong khi có hơn 80 triệu công dân không phải đảng viên đảng Cộng sản. Như vậy, thật rõ ràng là hơn 3 triệu đảng viên đảng Cộng sản đã tước đoạt quyền và cơ hội của hơn 80 triệu công dân khác. Như vậy điều 4 đã phủ nhận quyền bình đẳng trước pháp luật của công dân. Điều 4 đã mâu thuẫn và xung đột với điều 17 và trái với nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt quan điểm chính trị, đảng phái,…
Điều 29 của bản dự thảo Hiến pháp sửa đổi qui định “Công dân có quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội”. Theo tinh thần của điều này thì mọi công dân Việt Nam không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, đảng phái, quan điểm chính trị, tôn giáo, nghề nghiệp, thời gian cư trú,…đều có quyền tham gia quản lý, lãnh đạo đất nước một cách trực tiếp hoặc thông qua đại diện mà họ lựa chọn trong việc tham gia ứng cử hay bầu cử. Nhưng theo qui định của điều 4 thì chỉ những công dân Việt Nam là đảng viên đảng Cộng sản mới có quyền và cơ hội để tham gia quản lý, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Một lần nữa, điều 4 lại phủ nhận quyền và cơ hội của những công dân không phải đảng viên đảng Cộng sản trong việc tham gia quản lý Nhà nước và xã hội. Như vậy điều 4 đã mâu thuẫn và xung đột với điều 29.
Qua các phân tích trên, chúng ta thấy rằng các điều 2, điều 6, điều 17 và điều 29 có mối liên hệ mật thiết với nhau, bổ sung cho nhau nhằm khẳng định các quyền con người về chính trị của công dân là bất khả xâm phạm. Qui định của điều 4 thể hiện nguyên tắc phản dân chủ, nó trái với nguyên tắc của một thể chế chính trị dân chủ. Điều 4 đã vô hiệu hóa việc công dân thực hiện quyền lực Nhà nước bằng hình thức dân chủ trực tiếp. Điều 4 đã xóa bỏ quyền bình đẳng và quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội của hơn 80 triệu công dân Việt Nam không phải là đảng viên đảng Cộng sản.
Trong một Nhà nước dân chủ và tôn trọng các quyền con người thì quyền lực, quyền lãnh đạo của một đảng chính trị phải do đa số người dân trao cho thông qua một cuộc bầu cử tự do và công bằng. Một đảng chính trị chân chính, trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh sẽ nhận được sự ủng hộ của đa số người dân để nắm quyền lãnh đạo Nhà nước và xã hội mà không cần qui định quyền lãnh đạo của mình trong Hiến pháp.
Trong thực tế, từ khi quyền lãnh đạo Nhà nước và xã hội của đảng Cộng sản đã được qui định trong điều 4 Hiến pháp 1980 đã không làm cho đảng Cộng sản mạnh hơn. Ngược lại đã làm cho đảng Cộng sản ngày càng suy yếu về đạo đức, năng lực lãnh đạo và quản lý. Trước hiện trạng tham nhũng trở thành quốc nạn, giặc nội xâm của dân tộc, sự suy đồi về đạo đức và lối sống của các đảng viên. Hầu hết những lãnh đạo cao cấp của đảng Cộng sản đều thừa nhận một thực tế hiển nhiên là họ ngày càng đánh mất uy tín và niềm tin của nhân dân. Họ đã thừa nhận nguy cơ đảng Cộng sản bị mất quyền lực trong một cuộc cách mạng xã hội do nhân dân tiến hành.
Quan điểm của tôi cho rằng khi đảng Cộng sản Việt Nam từ bỏ quyền lãnh đạo trong điều 4 Hiến pháp thì sẽ tạo ra thách thức thực sự cho đảng Cộng sản. Từ đó, họ sẽ có động lực để chỉnh đốn đảng và xây dựng một đội ngũ những nhà lãnh đạo có đạo đức, năng lực, uy tín để giới thiệu với nhân dân. Thách thức đó sẽ làm cho đảng Cộng sản mạnh lên chứ không yếu đi nếu họ dám loại bỏ những thành phần cơ hội, tham nhũng ra khỏi đảng. Đảng Cộng sản cần phải thể hiện bản lĩnh, trí tuệ, đạo đức và năng lực lãnh đạo Nhà nước và xã hội trong một thể chế chính trị dân chủ đa đảng. Muốn vậy, đảng Cộng sản phải tôn trọng quyền lực của nhân dân, tôn trọng các quyền con người, quyền bình đẳng của mọi công dân trong xã hội.
Hà Nội, ngày 17 tháng 1 năm 2013.
Luật sư Nguyễn Văn Đài
Source: vietnamhumanrightscommitte.wordpress.com