logo
Men for what watch? Watch, watch and call. A tool that is used for timing on breitling replica the wrist. Men wear watches what kind, starting from the basic color and size, have their own right watches, you can follow the watch's color, shape, value, occasions to carefully match their own clothing. For the choice of rolex replica a watch, the first to look at and their identity are consistent with a rural old people wear watches, a bit unrealistic, even if there is, it would have been too ostentatious. A Multi Millionaire owner, wearing a few hundred dollars of high imitation table also lost their identity, and even make friends on their own business is not good. In the formal social occasions, watches are often regarded as jewelry, for usually only ring a jewelry can be worn by rolex replica uk men is respected. Some people even stressed that: "the watch is not only a man's jewelry, but also men's most important jewelry." In western countries, watches, pens, lighters was once known as adult men "three treasures", is every man even for a moment can not be away from the body.

Chào mừng các bạn! Mong bạn Đăng nhập. Xin lỗi bạn, tạm dừng việc đăng ký mới.►Nhấn hình ảnh nhỏ sẽ hiện ảnh lớn ‹(•¿•)›

Thông báo

Icon
Error

Tùy chọn
Xem bài viết cuối Go to first unread
phai  
#1 Đã gửi : 12/02/2015 lúc 05:59:43(UTC)
phai

Danh hiệu: Moderate

Nhóm: Registered
Gia nhập: 21-02-2012(UTC)
Bài viết: 13,123

Cảm ơn: 4 lần
Được cảm ơn: 3 lần trong 3 bài viết
Câu hỏi hàng đầu trong mỗi người Việt Nam ở hai đầu chiến tuyến sau 40 năm kết thúc chiến tranh ngày 30 tháng 04 năm

1975 là tại sao dân tộc Việt Nam vẫn chia rẽ để đất nước tiếp tục suy yếu trước đe dọa xâm lược của láng giềng Trung

Quốc?


Sau đây là những lý do căn cứ vào những việc đã xảy ra:


Thứ nhất, đảng cầm quyền duy nhất Cộng sản Việt Nam không chịu chia chác quyền lực với ai và không chấp nhận “đa

nguyên đa đảng”.


Các nhà tư tưởng của Đảng tiếp tục lý luận cối chày rằng: “Tính tất yếu cầm quyền của Đảng ta như là một vấn đề có tính

quy luật - quy luật vận động của thời đại và xã hội nước ta, nhu cầu về tư tưởng, tình cảm của nhân dân ta, trực tiếp là sự

phát triển của giai cấp công nhân, của phong trào yêu nước cách mạng và được thể hiện qua hoạt động của Đảng ta trong

85 năm qua.” (Trích ý kiến từ Hội thảo “Nâng cao vị thế, vai trò và trách nhiệm cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam

hiện nay” tại Quảng Ninh ngày 28/01/2015).


Nhưng “tất yếu” và “quy luật” nào hay toàn chuyện đảng vẽ ra để tự biên tự diễn, tiếm quyền và khoác vào mình “chiếc áo

tình cảm của nhân dân” để xỏ mũi dân kéo đi vì giai cấp công nhân và nhân dân lao động, từ sau “Cách mạng tháng Tám

1945” có được chia cho miếng đỉnh chung nào đâu?


Thứ hai, quyền làm chủ đất nước của dân đã bị tước bỏ để tuyên truyền cho chế độ qua các cuộc bỏ phiếu giả tạo “đảng

cử dân bầu”, dù vẫn phải nghe tuyên truyền khống rằng “Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền, của dân, do dân và vì dân”.


Thứ ba, đất nước Độc lập rồi mà Tự do thì không, ngược với lời nguyền “không gì quý hơn độc lập, tự do” của ông Hồ Chí

Minh, người lập ra đảng CSVN cách nay 85 năm (03/02/1930-03/02/2015)


Thứ tư, đảng tiếp tục lấy chủ nghĩa phá sản Cộng sản Mác-Lênin và tư tưởng độc tài Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi

hành động đi ngược lại trào lưu tiến bộ của nhân loại để tiếp tục làm cho dân nghèo, nước mạt.


Thứ năm, quyền lợi của dân bị trắng trợn xâm hại bởi cán bộ, đảng viên mất phẩm chất đã được các cấp có chức có quyền

bao che để thỏa mãn quyền lợi phe nhóm tạo thành mạng lưới tham nhũng để bóc lột nông dân và công nhân - hai lực

lượng nồng cốt đã giúp đảng Cộng sản lên cầm quyền. Những vụ cán bộ bầy mưu chiếm đất, lấy ruộng của dân trong

nhiều dự án đô thị, kinh tế, làm đường để bán lấy tiền bỏ túi và chia chác cho các nhóm lợi ích từ mấy năm qua là nguyên

nhân của những vụ khiếu kiện đông người mỗi ngày một nhiều.


Thứ sáu, việc đảng tiếp tục độc quyền kiểm soát và điều hành nền kinh tế quốc gia dựa trên lý thuyết viển vông “kinh tế thị

trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” mà thực chất chỉ làm thuê cho nước ngoài đã đưa kinh tế lệ thuộc vào Trung

Quốc là chính.


Bằng chứng từ các thống kê chính thức của Việt Nam cho thấy hàng hóa nhập siêu từ Trung Quốc đã lên đến 23,7 tỉ USD.


Báo Thanh Niên ngày 14/05/2014 viết: “Điều đáng nói là, với cơ cấu nhập khẩu nguyên liệu từ Trung Quốc về gia công và

xuất khẩu, chúng ta thực ra đang xuất khẩu giùm nước này và phần giá trị gia tăng được hưởng rất ít ỏi. Theo Tổng cục Hải

quan, cả năm 2013, Việt Nam xuất khẩu 17,95 tỉ USD hàng dệt may, nhưng phải nhập tới 14,81 tỉ USD, trong đó nhập khẩu

của Trung Quốc 5,56 tỉ USD. Công thức là, Việt Nam nhập nguyên liệu của Trung Quốc về gia công và xuất khẩu hàng dệt

may sang Mỹ, EU (European Union -Liên hiệp Châu Âu). Ở hoàn cảnh tương tự là điện thoại các loại và linh kiện, Việt Nam

xuất được 21,24 tỉ USD cả năm 2013 nhưng phải nhập khẩu 8 tỉ USD, riêng Trung Quốc gần 5,7 tỉ USD...


Không chỉ bán hàng hộ, chúng ta còn tiêu thụ công nghệ cho các doanh nghiệp Trung Quốc. Năm 2013, Việt Nam nhập từ

Trung Quốc tới 36,8 tỉ USD, chiếm tới 28% tổng kim ngạch nhập khẩu chủ yếu là tư liệu sản xuất, máy móc, phụ tùng,

nguyên vật liệu… Riêng 3 tháng đầu năm, nhóm hàng này nhập khẩu từ Trung Quốc vào Việt Nam với tổng trị giá là 1,58 tỉ

USD, tăng 29,7%.”


Đó là lý do tại sao nhà nước cứ “tái cơ cấu” mãi mà kinh tế vẫn lệ thuộc vào nước ngoài.


Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã nhìn nhận: “Mấy năm qua, tăng trưởng kinh tế còn dựa nhiều vào tăng vốn đầu tư, sử

dụng nhiều tài nguyên và lao động với năng suất, chất lượng thấp… ảnh hưởng không tốt tới sự phát triển kinh tế nhanh và

bền vững.


Lĩnh vực đầu tư công nhìn chung hiệu quả vẫn còn thấp, cơ sở hạ tầng mặc dù đã khá lên hơn rất nhiều nhưng vẫn còn

kém so với các nước tiên tiến trong khu vực.


Sức cạnh tranh của Việt Nam sẽ khó cải thiện nếu cứ tiếp tục kéo dài tình trạng tỷ trọng gia công lớn trong nền kinh tế, sử

dụng công nghệ trung bình và thấp, lao động không lành nghề và năng suất thấp... và không nhanh chóng đổi mới mô hình

tăng trưởng.


Cũng cần nhấn mạnh đến những khó khăn trước mắt của ta trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng như nợ xấu, nợ công cao,

bội chi lớn ngân sách nhà nước còn lớn, các nhà sản xuất kinh doanh trong nước còn nhiều khó khăn…, trong phát triển

giáo dục, khoa học công nghệ, những hạn chế trong quản lý nhà nước của các cơ quan Trung ương và địa phương...”

(Phỏng vấn của TTXVN (Thông tấn xã Việt Nam)/03/02/2015).


Vì vậy đến cuối năm 2014, tính bình quân mỗi người dân Việt Nam trong dân số trên 91 triệu người phải gánh nợ trên 937

Dollars.


Nợ xấu là món tiền vay Ngân hàng không trả nổi của các cơ sở thương mại và xí nghiệp, trong đó đáng kể là các Doanh

nghiệp Nhà nước. Tính đến cuối năm 2014, nợ xấu của Việt Nam được ước tính là 240.000 tỷ đồng,.


Do đó khi nền kinh tế do Doanh nghiệp Nhà nước đóng vai chủ quản và Chính phủ quản lý xấu như thế thì dân đen phải lao

động muôn năm cho tham nhũng xơi và tình trạng giàu nghèo giữa thành phố và nông thôn càng căng ra và sâu thêm.


Vậy nợ xấu ở đâu mọc ra? Báo Diễn đàn Đầu tư đã dựa vào lời một chuyên gia không nêu tên nói rằng: “Bản chất của nợ

xấu ở các ngân hàng Việt Nam được chia thành 3 nhóm: nợ doanh nghiệp Nhà nước, nợ liên quan đến bất động sản và nợ

liên quan đến lợi ích nhóm. Trong 3 nhóm này đều có nợ xấu liên quan đến sở hữu chéo, bởi vậy, các ngân hàng không

dám đưa ra phán quyết đối với những công ty con của mình, lợi ích nhóm. Do vậy, các ngân hàng không muốn xử lý vì điều

đó có khác gì tự chặt chân, chặt tay của mình.”


“Để giải quyết được nợ xấu cần phải công khai, nếu không, giải pháp VAMC (Công ty Quản lý và Khai thác Tài sản Việt

Nam) cũng không thể giải quyết được nợ xấu, mà chỉ chữa được những bệnh thời tiết, vì mầm mống gây bệnh nợ xấu vẫn

tồn tại trong cơ thể của nền kinh tế” (báo Diễn đàn Đầu tư, 20/10/2014)


Vậy ai, nếu không phải là ông Nhà nước, chủ nhân của Doanh nghiệp Nhà nước, đã đốt tiền của dân vào những canh bạc

đầu tư lấy lời để chia nhau, đến khi thua lỗ thì lại ì ra với chiêu bài “cha chung không ai khóc”. Cuối cùng chỉ còn lại dân đen

phải è cổ ra lao động để cho đảng tiếp tục nuôi các nhóm lợi ích!


Như vậy thì làm sao mà dân còn kiên nhẫn để liên kết “máu thịt với đảng” như cán bộ Tuyên giáo vẫn khoe khoang?


Thứ bảy, đảng tiếp tục độc quyền ngôn luận, báo chí để phục vụ đặc quyền, đặc lợi cho đảng và dùng Công an và côn đồ

đàn áp, không chế, bỏ tù những người dân bất đồng chính kiến, đòi tự do dân chủ và đòi quyền con người.


Thứ tám, khi đạo đức của đảng viên đã sa sút đến tận đáy của xã hội và những kẻ tham nhũng cứ sống phây phây trước

mắt dân như hiện nay thì công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng làm theo Nghị quyết Trung ương 4 “Một số vấn đề cấp bách

về xây dựng Đảng hiện nay” có còn giá trị gì không?


Thứ chín, dân càng ngày càng nghi ngờ khả năng bảo vệ vẹn toàn lãnh thổ và chủ quyến quốc gia của đảng sau khi đã

dành đặc quyền đặc lợi tại nhiều vùng kinh tế chiến lược cho Trung Quốc và còn bất lực trước kế họach lấn chiếm biển đảo

và lãnh thổ Việt Nam của Trung Quốc.


Thứ mười, đảng đã vô ơn bạc nghĩa với 74 chiến sĩ Quân đội Việt Nam Cộng hòa, cũng là công dân nước Việt, đã bỏ

mình trong cuộc chiến chống Quân Trung Quốc xâm lược chiếm đóng Quần đảo Hoàng Sa năm 1975. Sao lãng tưởng

niệm 64 người lính CSVN đã bỏ mình trong trận chống quân Tầu xâm lược chiếm đảo ở Trường Sa năm 1988. Và đặc

biệt còn tuân theo lệnh Trung Quốc cấm không cho dân-quân tưởng niệm trên 40,000 chiến sĩ và đồng bào của 6 tỉnh dọc

biên giới Việt-Trung đã hy sinh trong 2 cuộc chiến xâm lăng của 600,000 quân Trung Quốc từ 1979 đến 1989.


Từ năm 2011 đến 2013, đảng còn cho Công an đàn áp trí thức và một bộ nhân dân biểu tình tưởng niệm những người đã

hy sinh trong các cuộc chiến chống quân Trung Quốc và lên án Bắc Kinh xâm lược tại Sài Gòn và Hà Nội, tiêu biểu tại

Tượng Đức Trần Hưng Đạo bên bờ sống Sài Gòn và tại Công viên Tượng đài Lý Thái Tổ ờ Hà Nội.


Kỳ thị Nam-Bắc thắng-thua


Bên cạnh 10 nguyên nhân là mầm mống chia rẽ trong dân kể trên, đảng còn nuôi khuyết tật kỳ thị Nam-Bắc và tiếp tục phân

biệt giữa kẻ thắng và người thua sau 30 năm theo cuộc chiến nồi da xáo thịt do Đảng Cộng sản chủ động. Dù đảng đã phủ

nhận và tiếp tục che đậy nhưng chúng vẫn thường xuyên là một bi kịch của xã hội trong suốt 40 năm qua.


Bằng chứng là Mặt trận Giải Phóng miền Nam hay Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng Hòa miền Nam Việt Nam, dù do

đảng dựng lên nhưng số cán bộ lão thành gốc Nam vẫn là nòng cốt, đã bị giải tán không kèn không trống sau ngày thống

nhất đất nước 1976.


Sau đó đến số phận của Câu lạc bộ Kháng chiến (tên nguyên thủy là Câu lạc bộ Những người Kháng chiến cũ), dù chỉ

nhằm hoạt động “tương tế ái hữu” cũng bị đình chỉ hoạt động vào tháng 03 năm 1989 bởi Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh,

người được coi là “khởi xuớng phong trào Cởi Mở” từ năm 1986.


Ông Linh lo sợ Câu lạc bộ sẽ biến thành một đảng đối lập chính trị vì chỉ sau 2 năm hoạt động số hội viên đã vượt lên

20.000, trong số này có những đảng viên nổi tiếng như Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng, Trần Nam Trung.


Một số sáng lập viên như các ông Nguyễn Hộ, Tạ Bá Tòng, Đỗ Trung Hiếu, Nguyên Phong Hồ Hiếu sau đó đã bị cô lập, bị

bắt giam hay sa thải khỏi đảng.


Đối với hàng ngũ Quân-Cán-Chính Việt Nam Cộng Hòa thì đảng đã lừa dối hàng trăm ngàn người để bắt tập trung vào các

trại giam lao động từ Nam ra Bắc sau ngày 30/04/1975. Nhiều người đã chết trong tù, tiêu biểu và nổi tiếng như nguyên

Thủ tướng Phan Huy Quát, nguyên Phó Thủ tướng Trần Văn Tuyên và Thi sĩ Vũ Hoàng Chương.


Ngoại trừ những người trốn được ra nước ngoài hay đủ điều kiện được định cư ở Hoa Kỳ và các nước phương Tây, những

người phải ở lại miền Nam, đặc biệt là những cựu thương binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa và con cháu họ đã bị kỳ thị

không cho học hành đến nơi đến chốn, không cho công ăn việc làm dù khả năng vượt cao hơn con cán bộ, đảng viên.


Nhiều người còn không có sổ Hộ khẩu để được sống hợp pháp và không được chữa trị khi lâm bệnh.


Thậm chí đảng còn kỳ thị cả với những chiến sĩ VNCH đã yên nghỉ tại các Nghĩa Trang Quân đội, không tôn trọng vong linh

của họ mà còn gây khó khăn cho việc thăm viếng, tu bổ, bảo trì các ngôi mộ này.


Vậy mà đảng và nhà nước vẫn oang oang tuyên truyền cho Nghị quyết 36/NQ-TW ngày 26/3/2004 của Bộ Chính trị về

công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài.


Nghị quyết viết “Đảng và Nhà nước ta luôn luôn coi cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời

của cộng đồng dân tộc Việt Nam”, nhưng hành động thì chỉ muốn người Việt ra đi quay đầu về “hòa hợp” vào guồng máy

cai trị của đảng và làm việc theo mệnh lệnh của Nhà nước.


Nghị quyết cũng hô hào mọi người hãy: “Xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử do quá khứ hay thành phần giai cấp;

xây dựng tinh thần cởi mở, tôn trọng, thông cảm, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai.” Rồi hứa hẹn: “Mọi người Việt

Nam, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, nguồn gốc xuất thân, địa vị xã hội, lý do ra nước ngoài, mong muốn góp phần thực

hiện mục tiêu trên đều được tập hợp trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc.”




Nhưng sau 10 năm thi hành (2004-2014), đảng đã thất bại nặng nề vì “lời nói không đi đôi với việc làm”. Đảng không

ngừng gửi cán bộ với nhiều dạng thức khác nhau ra nước ngoài để móc nối, mua chuộc, len lỏi phá hoại và thao túng các

Tổ chức xã hội và chính trị của người Việt ở nước ngoài.


Từ năm 2010, Ủy ban Người Việt Nam ở nước ngoài (NVNONN), thời Thứ trường Ngoại giao Nguyễn Thanh Sơn làm Chủ

nhiệm đã thi hành kế họach: Chiêu dụ 300,000 trí thức, chuyên gia “Việt kiều” (nay đã tăng lên 400,000 người) về giúp

nước; Tổ chức các Tổ hoạt động tại các Cộng đồng lớn của người Việt; Tổ chức các lớp dạy Việt ngữ và văn hóa Việt với

thầy cô giáo gửi ra từ trong nước; Thành lập Hội Doanh nhân Việt Nam ở nước ngoài; Đem sách báo, lập Đài Phát

thanh-Đài Truyền hình để tuyên truyền cho đảng; Tổ chức du lịch cho Kiều báo và Tổ chức các trại Hè cho Thanh thiếu

niên Việt kiều về thăm Quế hương, thăm các Di tích lịch sử Cộng sản và thăm các đơn vị quân đội ở Trường Sa v.v...


Tuy nhiên kết quả là con số không, hay chỉ đem lại kết quả rất hạn chế vì cán bộ và lãnh đạo nhà nước còn duy trì nhiều

mặc cảm với những người đã bỏ nước ra đi. Điển hình như số Trí thức, chuyên viên người Việt về giúp nước chỉ đếm trên

đầu ngón tay.


Đảng cũng thất bại không mua chuộc được Thế hệ người Việt thứ hai và thứ ba ở nước ngoài vì thiếu thành thật và vẫn

dựa vào tiêu chí “đảng viên” để lãnh đạo những Trí thức hải ngoại có trình độc học hàm và chuyên môn giỏi hơn mình cả

chục lần.


Đã thế, còn nuôi dưỡng ấu trĩ “nghi ngờ” để “bảo mật quốc gia” để che đậy những thông tin ai cũng biết cả rồi!


Nói hòa giải nuôi hận thù


Vì vậy, cũng chính ông Nguyễn Thanh Sơn đã có những lời nói chỉ để chọc giận và gây chia rẽ dân tộc trong-ngoài trong

suốt nhiệm kỳ của ông đến ngày đi làm Đại sứ ở Nga năm 2014.


Trong cuộc phỏng vấn của báo Quân đội Nhân dân ngày 12/09/2011, ông Sơn nói: “Các cơ quan đại diện (của Chính phủ

ở nước ngoài) cần mạnh dạn mở rộng diện tiếp xúc cộng đồng, kết hợp công tác vận động cộng đồng với vận động chính

quyền, bạn bè sở tại nhằm phân hóa cô lập các phần tử cực đoan. Đồng thời, tăng cường phối hợp với các cơ quan liên

quan, chủ động trong công tác đấu tranh với các phần tử lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo để chống phá đất

nước.”


“…Hiện nay, còn lại bộ phận không nhiều những người đi ngược lại lợi ích dân tộc và họ càng bị phân hóa, bị yếu đi bởi khi

chúng ta tổ chức càng nhiều hoạt động ở trong và ngoài nước, bà con càng có nhiều thông tin, càng hướng về quê hương

đất nước, hiểu về quê hương đất nước thì càng không tin họ. Chính vì vậy, số lượng dù còn ít nhưng họ lại rất quyết liệt,

kiên quyết chống phá chúng ta vì họ đang hoảng loạn trước nguồn cung cấp tài chính của quốc gia sở tại và chính vị thế và

uy tín của họ đang bị giảm sút.


Không có lý gì mà chúng ta không giành thế chủ động, chìa bàn tay với những người còn hiểu lầm về đất nước, còn mơ hồ

về việc họ có thể lật đổ chế độ chúng ta. Chúng tôi đã quyết định có đoàn liên ngành cùng với các cơ quan báo chí trong

nước đi công khai, gặp gỡ những phần tử còn chống đối quyết liệt nhất, cố tình không hiểu tình hình trong nước. Chúng tôi

đã nêu công khai với Đại sứ quán Mỹ, thông qua cơ quan đại diện Ngoại giao ở các quốc gia như Mỹ, Canada... để có

thông tin đến các tổ chức, cá nhân này. Họ rất bất ngờ trước kế hoạch này và lúng túng, cố tình không gặp.


Khi nào họ thực sự muốn gặp công khai như họ nói (nhưng thực ra khi yêu cầu gặp công khai họ lại không dám gặp), thì

chúng tôi sẽ sẵn sàng gặp. Chúng tôi đang muốn gặp họ công khai với sự chứng kiến của phóng viên trong và ngoài nước,

bà con kiều bào để tìm hiểu xem vì sao họ còn hận thù với đất nước. Và cũng để họ hiểu rõ rằng, Đảng, Nhà nước Việt

Nam luôn mở rộng vòng tay đối với họ, nếu họ thực sự muốn hướng về Tổ quốc, mang lại lợi ích cho cộng đồng và cho

đất nước.”


Do đó khi Chủ tịch nước Trương Tấn Sang thăm Mỹ và họp tại Tòa Bạch ốc với Tổng thống Barack Obama ngày

25/07/2013 thì hàng trăm đồng bào người Việt đã biểu tình bên ngoài lên án CSVN và kêu gọi Tổng thống Obama thảo

luận và áp lực ông Sang thả tù nhân chính trị và tôn trọng nhân quyền.


Thứ trưởng Nguyễn Thanh Sơn phản ứng: “Tôi thật sự không hiểu về cái sự cố tình đó của một số quý vị, các bác, các anh

các chị vẫn còn có tư tưởng hận thù đi ngược lại với lợi ích dân tộc... Tôi nghĩ rằng những cái hiện tượng mà còn đây đó

chống đối cái chuyến thăm của chủ tịch nước Trương Tấn Sang, tức là các quý vị, các bác, các anh các chị còn cố tình giữ

trong lòng mình một cái “chút hận thù cuối cùng”. (Trích phỏng vấn của Phố Bolsa TV)


Viên chức ngoại giao mang nhiều mặc cảm vì đã bị nhiều người Việt ở Hoa Kỳ từ chối tiếp xúc trong các lần công tác

trước nói tiếp: “Quý vị không có lý gì các vị “đứng ở ngang giữa đường các vị ngăn cản cái quan hệ Mỹ-Việt”. Điều đó chỉ

làm cho các quý vị thêm khổ tâm, thêm phiền não, thêm buồn bực và rồi chính bản thâm những người bạn Mỹ của chúng ta

lại trách quý vị là “cản cái con đường hội nhập của Việt Nam và cản cái quá trình quan hệ Mỹ-Việt” mà họ đang mong

muốn...


“...Tôi cho là các bác, các anh chị - “những người đang còn có những tư tưởng như vậy hãy hết sức tĩnh tâm suy nghĩ lại

để chúng ta xóa bỏ tất cả những cái hận thù... còn có những cái suy nghĩ cực đoan chống lại đất nước hoặc là có một cái

suy nghĩ lệch lạc thì đó thực sự nó chỉ là ảo tưởng... hãy gác lại những cái tư thù cá nhân, hãy gác lại những cái suy nghĩ

cá nhân”.


Cuối cùng, ông Sơn bị đặt mà không biết mình đã nói láo vu cáo người đi biểu tình được trả tiền: “Tôi cho rằng là những

cái biểu tình chống đối của bà con cô bác ở bên ngoài đối với chủ tịch nước vừa qua nó chỉ là những cái hiện tượng. Tôi

nghĩ rằng là tất cả mọi người không phải ai cũng muốn như vậy. Có những người chì vì đồng tiền, có những người chì vì

nhu cầu cuộc sống, có những người chỉ vì một chút thu nhập thêm mà tham gia những hoạt động đó, chứ trong lòng tôi

nghĩ quý vị cũng không có những suy nghĩ muốn phá hoại quan hệ Mỹ-Việt.”


Trí thức Việt kiều quay mặt


Nhưng tại sao Trí thức Việt Kiều đã không chịu về giúp nước thì Giáo sư Nguyễn Quốc Vọng thuộc Đại học danh tiếng Kỹ

thuật và Thiết kế RMIT của Úc Đại Lợi giải thích trong một bài viết:


“Qua thực tiễn 2 năm trở về nước được làm việc, tôi thấy có những nguyên nhân chính sau đây:


- Việt Nam chưa thực sự thấy được mối quan hệ hữu cơ giữa khoa học kỹ thuật và phát triển kinh tế, nên một số chính

sách và cơ chế để thu hút trí thức không được nghiêm chỉnh thực hiện. Một khi trí thức trong nước chưa được sử dụng

đúng mức thì việc trở về của trí thức Việt kiều sẽ không bao giờ xảy ra vì họ đang được làm việc trong điều kiện tốt nhất

của nước sở tại;


- Chưa làm tốt việc cung cấp thông tin về những vấn đề nhạy cảm (ví dụ như biên giới biển đảo, Hoàng Sa Trường Sa,

quặng mỏ bôxit Tây Nguyên...) nên trí thức Việt kiều không thấy được Việt Nam đã có sự thay đổi, tiến bộ về mặt dân chủ,

phản biện, tự do tôn giáo, từ đó đâm ra hoang mang, lo sợ... không muốn trở về nước;


- Chưa có đầu mối để tìm tòi, liên lạc, mời gọi… do chính trí thức Việt kiều đảm trách vì trong hàng trăm, hàng ngàn công

nghệ cao của thế giới, phải là người có kiến thức mới có thể lựa chọn những công nghệ tốt nhất, thích hợp nhất và có lợi

nhất cho đất nước;


- Thủ tục giấy tờ về nước phải thông qua nhiều Bộ ngành nên rất rườm rà, mất thời gian;


- Tinh thần “vọng ngoại” của một số ít người trong nước vẫn thích “mắt xanh mũi lõ” dù rằng có nhiều khi “mắt xanh mũi lõ”

lại ở trình độ khoa học kỹ thuật thấp hơn, không hiểu Việt Nam hơn trí thức Việt kiều;


- Tính “địa phương” và “trong ngoài” còn khá phổ biến, môi trường làm việc dựa nhiều vào cảm tính nên nhiều khi không

công bằng, thiếu tin tưởng làm trí thức Việt kiều trở thành những thứ trang trí, không có thực quyền và cơ hội đóng góp sở

trường khoa học kỹ thuật của mình.


Giáo sư Vọng kết luận bài viết của ông trên Tạp chí Tia Sáng (Bộ Khoa học và Công nghệ) ngày 07/09/2010:


“Từ những năm 1970 Hàn Quốc đã mạnh dạn triển khai chính sách mời gọi trí thức Hàn kiều ở Mỹ trở về đóng góp. Ba

mươi năm sau Hàn Quốc vươn lên trở thành nền kinh tế thứ 13 của thế giới. Cũng thế Trung Quốc đã ứng dụng chính sách

ưu đãi mời gọi trí thức Hoa kiều, và họ cũng đã tiến rất nhanh trong công cuộc hiện đại hóa công nghiệp hóa đất nước, trở

thành nền kinh tế thứ ba trên thế giới. Chỉ có Việt Nam, đã hơn ba mươi năm sau ngày giải phóng, mà vẫn còn loay hoay

mãi với câu hỏi về trí thức Việt kiều.”


Theo tổ chức ngoại vi của đảng CSVN là Mặt trận Tổ Quốc thì đến năm 2015, trên toàn Thế giới có: “4,5 triệu người sống

và làm việc ở 103 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Hằng năm có khoảng 500.000 lượt kiều bào về nước, trong đó

khoảng hơn 300 chuyên gia, trí thức về làm việc và hàng nghìn người về tìm hiểu cơ hội đầu tư, kinh doanh.”


Tuy nhiên bản tin ngày 27/09/2014 của tổ chức này không cho biết 300 trí thức là những ai và họ đã làm gì ờ Việt Nam,

nhưng có điều chắc chắc là “rất ít người muốn trở về sống và làm việc cho đảng CSVN”.


Ngày cả số người Việt lớn tuổi ở nước ngoài về nước sống cho hết đời cũng rất ít oi, dù Mặt trận khoe: “Hiện có trên 3.500

doanh nghiệp trong nước do kiều bào thành lập hoặc góp vốn của kiều bào với tổng số vốn đăng ký khoảng 8,4 tỷ USD.

Kiều hối gửi về nước tăng trung bình 10-15%/năm, Năm 2009 là 6,83 tỷ USD, năm 2010 đạt mức 8,6 tỷ USD, năm 2011 là

9 tỷ USD, năm 2012 đạt 10 tỷ USD, năm 2013 đạt gần 11 tỷ USD.”


Theo số thống kê ở Việt Nam thì phần lớn đầu tư của người Việt nhằm vào Du lịch và ngành Địa ốc.


Như vậy đủ biết cũng đã có sự dè dặt làm ăn với Việt Nam từ phía các thương gia người Việt ở nước ngoài. Và tất nhiên,

một sự quay về để bị kiểm soát và cai trị bởi chế độ Cộng sản vẫn còn xa vời đối với ước mơ “vắt được chanh thì bỏ vỏ”

mà đảng đã nhắm vào khối người Việt Nam ở nước ngoài từ nhiều năm qua.


Đấy là nguyên do tại sao đã sau 40 năm kết thúc chiến tranh và qua 40 cái Tết mà người Việt Nam ở đôi bờ chiến tuyến

vẫn còn xa mặt cách lòng, dù đang sống bên cạnh nhau ở trong nước.


Sự nghi ngờ và thờ ơ của đảng CSVN đối với sự quay về Việt Nam của nguyên Phó Tổng thống VNCH Nguyễn Cao Kỳ và

Nhạc sĩ Phạm Duy là một bằng chứng cho đến ngày hai ông qua đời (Ông Kỳ qua đời ngày 23/07/2011 tại Kuala Lumpur,

Malaysia. Nhạc sĩ Phạm Duy mất ngày 27/01/2013 tại Sài Gòn).


Lỗi ấy tại ai nếu không phải là vì đảng CSVN vẫn tiếp tục nói một đàng làm một nẻo và chưa muốn hỏa giải với đồng bào

trong nước, vẫn nuôi dưỡng chính sách kỳ thị địa phương Nam-Bắc, vùng miền lãnh thổ và tiếp tục độc quyền cai trị để bảo

vệ quyền lợi cho một thiêu số lãnh đạo, nhưng lại sẵn sàng thỏa hiệp chủ quyền lãnh thổ với ngoại bang Trung Quốc để

được yên thân.

02/015

Phạm Trần
Ai đang xem chủ đề này?
Guest
Di chuyển  
Bạn không thể tạo chủ đề mới trong diễn đàn này.
Bạn không thể trả lời chủ đề trong diễn đàn này.
Bạn không thể xóa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể sửa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể tạo bình chọn trong diễn đàn này.
Bạn không thể bỏ phiếu bình chọn trong diễn đàn này.

Powered by YAF.NET | YAF.NET © 2003-2025, Yet Another Forum.NET
Thời gian xử lý trang này hết 0.704 giây.