logo
Men for what watch? Watch, watch and call. A tool that is used for timing on breitling replica the wrist. Men wear watches what kind, starting from the basic color and size, have their own right watches, you can follow the watch's color, shape, value, occasions to carefully match their own clothing. For the choice of rolex replica a watch, the first to look at and their identity are consistent with a rural old people wear watches, a bit unrealistic, even if there is, it would have been too ostentatious. A Multi Millionaire owner, wearing a few hundred dollars of high imitation table also lost their identity, and even make friends on their own business is not good. In the formal social occasions, watches are often regarded as jewelry, for usually only ring a jewelry can be worn by rolex replica uk men is respected. Some people even stressed that: "the watch is not only a man's jewelry, but also men's most important jewelry." In western countries, watches, pens, lighters was once known as adult men "three treasures", is every man even for a moment can not be away from the body.

Chào mừng các bạn! Mong bạn Đăng nhập. Xin lỗi bạn, tạm dừng việc đăng ký mới.►Nhấn hình ảnh nhỏ sẽ hiện ảnh lớn ‹(•¿•)›

Thông báo

Icon
Error

Tùy chọn
Xem bài viết cuối Go to first unread
song  
#1 Đã gửi : 26/03/2015 lúc 08:24:42(UTC)
song

Danh hiệu: Moderate

Nhóm: Registered
Gia nhập: 21-02-2012(UTC)
Bài viết: 23,807

Cảm ơn: 1 lần
Được cảm ơn: 2 lần trong 2 bài viết
Ở Việt Nam lâu nay, giới cầm quyền cũng như giới truyền thông hay nói đến những “thế lực thù địch”. Không ai giải thích rõ,

nhưng hầu như mọi người đều biết, với nhóm từ ấy, người ta nhắm đến các quốc gia Tây phương, đặc biệt là Mỹ, trong cái gọi

là âm mưu “diễn biến hoà bình” nhằm làm thay đổi chế độ tại Việt Nam.

Tuy nhiên, chỉ cần bình tĩnh và sáng suốt một tí, người ta sẽ thấy ngay là Mỹ không có lý do gì để trở thành “thù địch” với Việt

Nam. Cuộc chiến tranh giữa Mỹ và Việt Nam (miền Bắc) đã chấm dứt từ 40 năm trước. Cuộc chiến tranh lạnh, nguyên nhân làm

bùng nổ chiến tranh giữa Việt Nam và Mỹ, cũng đã chấm dứt cùng với sự sụp đổ của Liên Xô và khối xã hội chủ nghĩa ở Đông

Âu vào đầu thập niên 1990. Với Mỹ, một trong những nguyên tắc nền tảng của mọi chính sách đối ngoại là không có bạn cũng

như không có kẻ thù vĩnh viễn. Bạn hay thù tùy thuộc vào lợi ích quốc gia, nghĩa là tuỳ thuộc vào hoàn cảnh. Hoàn cảnh hiện nay

là Mỹ muốn làm bạn với Việt Nam. Có hai lý do chính: Một, Mỹ muốn tăng cường hợp tác kinh tế với Việt Nam để làm ăn; và hai,

Mỹ cần Việt Nam để bảo vệ Biển Đông, một trong những con đường hàng hải tấp nập và quan trọng nhất trên thế giới.

Trong quan hệ với Việt Nam, Mỹ hay nhấn mạnh đến yếu tố nhân quyền như một trong những điều kiện để hợp tác. Điều đó khá

dễ hiểu. Một, đó là một trong những nguyên tắc căn bản trong các chính sách ngoại giao của Mỹ: để làm bạn, cả hai nước phải

chia sẻ với nhau một bảng giá trị chung. Cốt lõi của bảng giá trị ấy là tôn trọng quyền làm người. Hai, riêng với Việt Nam, Mỹ lại

càng cần nêu lên nguyên tắc ấy chủ yếu để đáp ứng lại sự đòi hỏi của một bộ phận khá đông dân chúng Mỹ. Ở trên, tôi có nói

với Mỹ, không có kẻ thù vĩnh viễn. Đó là về phía chính phủ. Với dân chúng thì khác. Những người từng tham gia vào chiến tranh

Việt Nam cũng như thân nhân của những người đã từng bị hy sinh tại Việt Nam không dễ gì quên hẳn được quá khứ. Đó là

chưa kể cộng đồng người Việt khá đông đảo tại Mỹ. Tất cả đều yêu sách chính phủ Mỹ cần đặt ra những điều kiện nào đó khi

muốn đẩy mạnh quá trình hợp tác với Việt Nam. Tuy nhiên, nên lưu ý: nhân quyền là điều kiện nhưng không phải là điều kiện

tiên quyết. Trên thực tế, lâu nay, chính phủ Mỹ vẫn hợp tác với khá nhiều chế độ độc tài nếu họ thấy sự hợp tác ấy là cần thiết

và có lợi.

Bởi vậy, có thể nói với Việt Nam, Mỹ sẽ không đẩy yêu sách dân chủ hoá trong chừng mực mối quan hệ giữa hai nước tốt đẹp

đủ để bảo vệ những lợi ích chung. Cái gọi là âm mưu “diễn biến hoà bình” của Mỹ, nếu có, chỉ có một ý nghĩa rất tương đối

trong cái gọi là chủ nghĩa thực tiễn (realism) của những nhà hoạch định chính sách tại Mỹ. Đó là chưa kể, để bảo vệ các lợi ích

của họ, điều Mỹ cần nhất ở Việt Nam là sự ổn định về chính trị. Điều đó lại cũng dễ hiểu. Không ai có thể an tâm làm ăn buôn

bán cũng như bàn chuyện hợp tác chiến lược ở những nơi thường xuyên thay đổi chính phủ cả. Ở điểm này, chính phủ Mỹ và

chính phủ Việt Nam rất gần nhau: mọi người đều muốn ổn định dù cái giá để trả cho sự ổn định, về phía dân chúng, là cái ách

độc tài nặng trĩu trên lưng của họ.

Nếu Mỹ không phải là lực lượng thù địch của Việt Nam thì là ai?

Câu trả lời hầu như ai cũng rõ: Trung Quốc. Chỉ có thể là Trung Quốc. Chứ không có bất cứ ai khác.

Nói đến âm mưu xâm lấn của Trung Quốc, nhiều người nghĩ đến viễn cảnh Trung Quốc tấn công trên đất liền. Tôi nghĩ viễn

cảnh ấy sẽ không xảy ra. Trung Quốc không phiêu lưu một cách dại dột như thế. Bởi chọn thế trận như vậy là phải đối diện với

cuộc chiến toàn dân của Việt Nam. Có chiếm cũng không giữ được đất. Vả lại, Trung Quốc cũng không cần chiếm Việt Nam

khi họ có thể tác động dễ dàng lên guồng máy lãnh đạo Việt Nam để đạt được các mục tiêu kinh tế và chính trị của họ.

Cuộc xâm lấn của Trung Quốc chỉ diễn ra trên biển.

Nói đến âm mưu xâm chiếm trên biển của Trung Quốc, phần lớn chỉ để ý đến các sự kiện cụ thể như vụ cắt dây cáp ngầm của

Việt Nam, việc đem giàn khoan HD-981 đến thềm lục địa Việt Nam, việc cải tạo bãi đá Gạc-Ma hay việc bắt bớ các ngư dân

Việt Nam đang đánh cá gần Hoàng Sa hay Trường Sa. Chỉ chú ý đến các sự kiện ấy nên người Việt Nam dễ thấy thỏa mãn khi

một số khó khăn đã được giải quyết: dây cáp ngầm được nối, giàn khoan được rút về nước hay những ngư dân bị bắt được

thả. Có lẽ nghĩ như thế, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho là Việt Nam đã “thắng lợi” trong cuộc đương đầu với giàn khoan

HD-981 hồi đầu năm ngoái. Thật ra, đó chỉ là những sự kiện lặt vặt. Âm mưu thực sự của Trung Quốc lớn hơn nhiều: làm chủ

hơn 90% diện tích Biển Đông của Việt Nam.

Mà Trung Quốc không hề giấu giếm điều đó. Bằng hành động cũng như bằng lời nói, lúc nào họ cũng cho Biển Đông là “sân

nhà” của họ, là “lợi ích cốt lõi” mà họ không thể từ bỏ hay nhân nhượng. Có thể hình dung chiến lược xâm lấn Biển Đông của

Trung Quốc được bao gồm ba giai đoạn: một, tuyên bố con đường lưỡi bò (hoặc con đường gồm chín khúc); hai, tuyên bố

vùng nhận dạng hàng không trên trời tương ứng với con đường lưỡi bò dưới biển; và ba, thực hiện việc kiểm soát ngặt nghèo

cả trên trời lẫn dưới biển để bất cứ một chiếc thuyền hay một chiếc máy bay nào đi ngang qua con đường lưỡi bò ấy cũng đều

phải xin phép Trung Quốc và chịu sự kiểm tra của Trung Quốc. Xong giai đoạn thứ ba, cuộc xâm lấn của Trung Quốc coi như

kết thúc.

Khi cuộc xâm lấn ấy kết thúc, nước nào bị thiệt hại nhiều nhất? Câu trả lời rất đơn giản: Việt Nam. Brunei nhiều lần tuyên bố chủ

quyền ở Trường Sa nhưng họ chưa bao giờ thực sự làm chủ bất cứ hòn đảo hay bãi đá nào. Chỉ thực sự làm chủ một số đảo

hay bãi đá ở Trường Sa và Hoàng Sa là Philippines, Đài Loan, Malaysia và Việt Nam. Trong số các quốc gia ấy, nước làm chủ

nhiều nhất là Việt Nam. Do đó, nếu Biển Đông mất, Việt Nam cũng sẽ là nước bị mất mát nhiều nhất. Hơn nữa, ngoài đảo, còn

có vùng biển. Nếu con đường lưỡi bò của Trung Quốc được xác lập chính thức, Việt Nam sẽ mất khoảng 90% chủ quyền trên

Biển Đông.

Mất 90% cũng có nghĩa là mất trắng Biển Đông.

Tất cả những sự phân tích đều không có gì mới mẻ. Hầu như ai cũng biết trừ… chính quyền Việt Nam.

Theo Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc (VOA)
Ai đang xem chủ đề này?
Guest
Di chuyển  
Bạn không thể tạo chủ đề mới trong diễn đàn này.
Bạn không thể trả lời chủ đề trong diễn đàn này.
Bạn không thể xóa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể sửa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể tạo bình chọn trong diễn đàn này.
Bạn không thể bỏ phiếu bình chọn trong diễn đàn này.

Powered by YAF.NET | YAF.NET © 2003-2024, Yet Another Forum.NET
Thời gian xử lý trang này hết 0.099 giây.