logo
Men for what watch? Watch, watch and call. A tool that is used for timing on breitling replica the wrist. Men wear watches what kind, starting from the basic color and size, have their own right watches, you can follow the watch's color, shape, value, occasions to carefully match their own clothing. For the choice of rolex replica a watch, the first to look at and their identity are consistent with a rural old people wear watches, a bit unrealistic, even if there is, it would have been too ostentatious. A Multi Millionaire owner, wearing a few hundred dollars of high imitation table also lost their identity, and even make friends on their own business is not good. In the formal social occasions, watches are often regarded as jewelry, for usually only ring a jewelry can be worn by rolex replica uk men is respected. Some people even stressed that: "the watch is not only a man's jewelry, but also men's most important jewelry." In western countries, watches, pens, lighters was once known as adult men "three treasures", is every man even for a moment can not be away from the body.

Chào mừng các bạn! Mong bạn Đăng nhập. Xin lỗi bạn, tạm dừng việc đăng ký mới.►Nhấn hình ảnh nhỏ sẽ hiện ảnh lớn ‹(•¿•)›

Thông báo

Icon
Error

Tùy chọn
Xem bài viết cuối Go to first unread
phai  
#1 Đã gửi : 08/04/2015 lúc 06:30:01(UTC)
phai

Danh hiệu: Moderate

Nhóm: Registered
Gia nhập: 21-02-2012(UTC)
Bài viết: 13,123

Cảm ơn: 4 lần
Được cảm ơn: 3 lần trong 3 bài viết
Hoài niệm và phản tỉnh về ngày 30 tháng 4 năm 1975 để giải ảo ngụy sử, hòa giải dân tộc và xây dựng đất nước

Tóm lược: Ngày 30 tháng 4 năm 1975 là ngày toàn thắng của ĐCSVN và là ngày đại bại của toàn dân tộc Việt Nam. Chúng ta

có các lý do chính đáng để không tham gia mừng lễ kỷ niệm chiến thắng, nhưng cần giúp đỡ nhau để có ý thức phản tỉnh về ý

nghĩa tưởng niệm, hòa giải và trách nhiệm đối với những hậu quả của ngày này.


Hiện tình Việt Nam là đang bị nguy cơ hơn bao giờ hết; vì về mặt nội trị có quá nhiều bất ổn mà vẹn toàn lãnh thổ, tham nhũng

và nợ công là chính; về mặt đối ngoại có quá nhiều tổn thương, vì lãnh đạo đặt quyền lợi Trung Quốc và quyền lợi riêng lên

trên quyền lợi của dân tộc là chính. Hoa Kỳ sẽ không là một lá chắn an toàn cho Việt Nam vì Hoa Kỳ không có phép lạ để biến

đổi nội tình và ngoại cảnh cho Việt Nam. Hoa Kỳ cũng đủ thông minh để không bao giờ chống Trung Quốc thay cho Việt Nam.


Mọi vấn đề hiện nay của Việt Nam có thể sẽ được giải quyết được một phần nào khi có sức mạnh dân tộc mà sự hiểu biết của

toàn dân, đồng thuận chính trị, và quyết tâm chuyển hướng là chính và đường lối thực tiễn là thay đổi hiến pháp dân chủ, nâng

cao đạo đức và giáo dục, tăng trưởng kinh tế, tôn trọng trí thức và pháp luật, thực thi nhân quyền và dân quyền và bảo vệ thiên

nhiên.


Ngày 30 tháng 4 năm 2015 đánh dấu một ngày khởi đầu cho trang sử Việt, mà một thế hệ hậu chiến trưởng thành và sẽ đảm

nhận trách nhiệm chính trị cho đất nước. Thế hệ hậu chiến không cần có một lý tưởng cầu toàn để canh tân đất nước hay các

biện pháp xé rào để cứu Đảng, mà cần nhất là có một ý thức bừng tỉnh về sự tồn vong của dân tộc.

Ký ức thay ngụy sử?


Ngày 30 tháng 4 năm 2015 đánh dấu một ngày quan trọng trong lịch sử của Việt Nam, vì là ngày kỷ niệm 40 năm chiến tranh

kết thúc. Hiện nay, các thế hệ tham chiến hầu như đã lần lượt ra đi hay đang quên đi những hậu quả của chiến cuộc. Thời gian

dài này cũng đủ để làm một thế hệ hậu chiến trưởng thành mà không vướng bận với ký ức thuộc về lịch sử.


Tuy thế, có một sự khác biệt giữa ký ức và lịch sử. Ký ức là một điều kiện thiết yếu tự tại và có một giá trị đặc biệt cho lịch sử.

Ký ức riêng tư tạo nên bản sắc cá nhân và ký ức tập thể tạo nên bản sắc xã hội. Cả hai đặc thù văn hóa này nếu kết hợp nhau

được sẽ làm thành một lịch sử chung cho dân tộc. Để phác thảo lịch sử, sử gia cần có ký ức văn hóa, một sự thật của lịch sử

và đây là một trong những điều kiện khách quan làm khởi điểm cho chính sử.


Nhưng trong hiện tại vấn đề soi sáng lịch sử ít được quan tâm, bởi vì chúng ta đang có những nhu cầu bức thiết, đó là hiểm

họa Bắc thuộc và bất lực của chính quyền trước những khát vọng của toàn dân về toàn vẹn lãnh thổ, xây dựng dân chủ, phát

triển kinh tế, nâng cao công bình và tôn trọng nhân quyền.


Nhìn lại sau 40 năm dài thì thực tế cho thấy dù là ký ức của các chứng nhân lịch sử đang nhạt nhòa và bản sắc của đất nước

đang tàn phai, nhưng người Việt vẫn còn bị ám ảnh bởi những chiến tuyến trong quá khứ, đề cao thành quả chiến thắng mãi

làm cho việc hòa giải giữa người Việt còn khó khăn và những giá trị phổ quát trong xu thế thời đại như tự do, dân chủ, nhân

quyền và trọng pháp lại chưa áp dụng. Lý do chính là người Việt đã không có và sẽ không thể chia sẻ một quá khứ chung của

lịch sử cận đại.


Nếu chúng ta muốn xây dựng một chính sử Việt Nam cho hôm nay và mai sau, thì giải ảo ngụy sử là một nhu cầu tất yếu. Vậy

vấn đề là liệu có nên khơi động lại ký ức cá nhân hay tập thể hoàn toàn độc lập với mọi dị biệt và đối kháng với ngụy sử để làm

cơ sở được không?


Thế hệ tham chiến và quá khứ


Thế hệ tham chiến nghĩ gì về quá khứ và để làm gì trong hiện tình? Chiến tranh Việt Nam nằm trong bối cảnh quốc tế của

Chiến tranh Lạnh và lại là một thí dụ điển hình trong khu vực về Chiến tranh Ủy nhiệm. Không riêng Việt Nam mà hầu như

nhiều quốc gia đều hình thành bằng bạo lực. Trong cả một thời kỳ dài, tranh đấu bằng bạo lực là một phương tiện hiển nhiên,

nó tạo nên một loại văn hóa chung và trở thành một sự thực khách quan của lịch sử. Chiến thắng ngày 30 tháng 4 năm 1975 là

một bạo lực cách mạng để thống nhất đất nước và là một sản phẩm của lịch sử.


Công việc chọn lọc quá khứ để giải ảo lịch sử cũng có nghĩa là làm sống lại quá khứ, một phần hay toàn bộ ký ức của cá nhân

hay tập thể. Phủ nhận hay quên đi quá khứ, cả hai nỗ lực này là bất khả. Không ai muốn quên lãng quá khứ oai hùng, vì mục

đích kéo dài hạnh phúc đã hết là để làm quên đi thực tế bất hạnh. Quên lãng quá khứ thương đau thì không thể dễ dàng vì là

một ám ảnh còn vang động trong hồn như một loại bịnh tâm thần kinh niên không trị được. Khép lại quá khứ và cảm nhận nó

trong mối quan hệ với hiện tại và tương lai, cả hai việc đòi hỏi chúng ta có một ý thức phản tỉnh mà không bị dồn ép cực đoan

bằng một ý thức hệ đã lỗi thời hay xí xoá dễ dãi bằng những thành tựu kinh tế nay đang sa sút.


Để trả lời các vấn đề này, thế hệ tham chiến lập luận là ký ức của các chứng nhân lịch sử sẽ mai một và ký ức của tập thể chỉ

có tính địa phương. Đoàn kết dân tộc là một vấn đề trọng đại của lịch sử đất nước, chúng ta hãy để cho sử gia làm việc, vì họ

có khả năng gạn đục khơi trong các tồn đọng cuả quá khứ để trình bày khách quan hơn và có tác động hữu hiệu hơn. Bất hạnh

cho chúng ta là sử Việt bị ngụy tạo quá nhiều, nên không thể lý giải và thuyết phục các sự thật lịch sử cận đại.


Ngụy tạo chính sử


Có một sự khác biệt giữa quan điểm về lịch sử của người phương Tây và Việt Nam. Khi người Mỹ nói đó là chuyện lịch sử,

mọi người cùng yên tâm nghĩ là toàn bộ vấn đề xảy ra được ghi chép cẩn thận và nghiên cứu nghiêm túc (That is history; it is

totally a record). Khi người Việt nói đó là chuyện lịch sử, chúng ta phải dè dặt hơn, vì đó là một biến cố quan trọng đã xảy ra (It

is a most importat thing); sự kiện còn ngờ vực, đúng sai hay hay dở còn cần xét lạ, vì tùy theo thời điểm và quan điểm chính trị.

Đây không phải là một khám phá mới lạ, vì đã có vô số các bằng chứng về các sai lầm trong sử Việt, mà những ví dụ chính

cho thấy các tầm mức tác hại nghiêm trọng của vấn đề ngụy tạo.


Thứ nhất, theo sử thì Đảng Cộng Sản Việt Nam (ĐCSVN) giải tán ngày 11 tháng 11 năm 1945, nhưng thực tế thì Đảng tiếp

tục hoạt động trong bí mật, sau đó lại công khai cho đến ngày hôm nay. Không có sử gia nào bỏ công cải chính sự kiện này

của ĐCSVN và Đảng Lao Động, dù là hình thức.


Thứ hai, vai trò của ĐCSVN trong việc giành độc lập. Thực ra, Việt Nam chưa độc lập vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 khi Hồ

Chí Minh đọc Tuyên ngôn, vì Đảng không cướp được chính quyền từ tay Nhật và Pháp, mà của chính phủ Trần Trọng Kim vào

ngày 19 tháng 8 năm 1945 và về sau gọi đó là Cách mạng tháng Tám.


Việt Nam thâu hồi chủ quyền độc lập ngày 8 tháng 3 năm 1949 theo Hiệp Định Elysée. Điểm đặc biệt của Hiệp định là Việt

Nam thống nhất và độc lập nằm trong Liên Hiệp Pháp. Sau đó, ngày 23 tháng 4 năm 1949 Quốc Hội Nam Kỳ đã giải tán chế

độ Nam Kỳ tự trị và sát nhập Nam Phần vào lãnh thổ Việt Nam. Do đó, Việt Nam đã được thống nhất năm 1949 về ngoại giao

và chính trị.


Không ai bỏ công phân biệt ý nghĩa cao cả của công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc do ngoại xâm và phương cách bất

chánh để cướp chính quyền trong nội chính. Xác minh thời điểm chính xác cho sự độc lập cũng bị quên lãng.


Thứ ba, cuộc đời của Hồ Chí Minh là một chuyện dài không đoạn kết. Bao nhiêu sách vở khác nhau viết về xuất xứ, hành tung,

khả năng, quá trình hoạt động và tư cách đạo đức của ông. Mỗi lúc lại có một khám phá mới làm cho sự thật về cuộc đời của

ông càng huyền bí hơn.


Nhu cầu tuyên truyền chính trị nhất thời là lời giải thích quen thuộc. Các nhà nghiên cứu đã (phải) suy tôn ông lên làm thần

thánh, rồi một thời gian sau, vì lý do chính trị khác, lại hạ bệ. Nhiều tác phẩm viết về ông, nhưng ông không có một chỗ đứng

vững chắc trong lịch sử. Vì ông là một nạn nhân của lịch sử quái ác nên các vấn đề tiểu sử, công nghiệp, đời tư của ông còn

cần phải tiếp tục soi sáng.


Thứ tư, đấu tranh quân sự có phải là một giải pháp tối ưu duy nhất hay kết hợp với các giải pháp nghị trường và ngoại giao

cũng là điều kiện khả thi?


Trước trào lưu đấu tranh giành độc lập tại các nước Á Phi đang dâng cao nên Pháp đã ý thức vấn đề này. Từ năm 1947 Pháp

đã quyết định không tái lập chế độ thuộc địa và tôn trọng nguyện vọng độc lập của nhân dân Việt Nam bằng cách đăng ký Việt

Nam là một quốc gia độc lập nằm trong Liên Hiệp Pháp tại Liên Hiệp Quốc. Đó là một thắng lợi ngoại giao và pháp lý mà Đảng

Cộng Sản đã phủ nhận và về sau giải thích là Pháp đem quân trở lại Việt Nam để tái lập chế độ thuộc địa.


Do đó, khi nhân danh giành lại độc lập dân tộc, họ chiến đấu vũ trang chống Pháp, nhưng bằng cách độc quyền yêu nước và

độc quyền lãnh đạo quốc gia. Trái lại, các nước châu Á khác đã chủ trương đấu tranh ôn hòa, không bạo động và không liên

kết với Cộng sản Quốc tế, mà thành công của Ấn Độ (1947) là một thí dụ, dù bối cảnh phức tạp hơn Việt Nam nhiều.


Thứ năm, ĐCSVN sử dụng chiêu bài đấu tranh chống Pháp và chống Mỹ như một chiến thuật để đạt mục tiêu chiến lược là

cướp chính quyền. Họ đã chống đối bất cứ giải pháp chính trị và ngoại giao nào không cho họ độc quyền đấu tranh và lãnh

đạo quốc gia, mà Hiệp định Genève và Paris là hai cơ hội lịch sử.


Dù Hiệp định Genève chỉ là để định ranh giới ngưng bắn và không áp đặt những giải pháp chính trị, nhưng thống nhất Nam

Bắc thuộc quyền dân tộc tự quyết, một cơ hội mới về tổng tuyển cử mở ra và sẽ do hai miền ấn định. Lãnh đạo cả hai miền đã

không đủ nỗ lực để thực thi biện pháp tổng tuyển cử, một cơ hội không tốn xương máu. Đó là một quan điểm sai lầm của cả

hai và trở thành một bất hạnh cho dân tộc hiếu hòa.


Hiệp định Paris là một hiệp ước ngoại giao và có tác dụng chính trị, nhưng là một cơ hội khác mở ra nếu các bên đồng ý “thực

hiện từng bước bằng phương pháp hòa bình trên căn bản thương nghị và thỏa thuận giữa Miền Bắc và Miền Nam, không bên

nào cưỡng ép bên nào, không bên nào thôn tính bên nào.” (Điều 15).


Phát động chiến dịch Hồ Chí Minh để thôn tính miền Nam không phải là phương pháp hòa bình như đã ký kết. Vi phạm Hiệp

định Paris lại là một thành tích tự hào về sự phản bội của chính mình và chấp nhận hy sinh xương máu của thế hệ thanh niên

cuối cùng của miền Bắc.


Thứ sáu, Đại Thắng Mùa Xuân là đỉnh cao chói lọi trong trang sử đấu tranh của ĐCSVN, nhưng Ted Gunderson (1928 –

2011), nhân viên của FBI tại Los Angeles và Wahsington DC tiết lộ là sau chiến dịch Operation Linebacker của Hoa Kỳ, Bắc

Việt tuyên bố đầu hàng đầu hàng vô điều kiện. Ngũ giác Đài nhận điện tín này nhưng CIA buộc ép nhẹm nguồn tin và thuyên

chuyển tất cả các nhân viên có trách nhiệm ra khỏi nhiệm sở. Dĩ nhiên, Việt Nam không hề kiểm chứng nguồn tin này.


Tóm lại, các vấn đề quan trọng trong chính sử cận đại như ý nghiã đích thực của chiến tranh, kết hợp các phương tiện khả thi

để giải quyết xung đột, những hy sinh và thành tích cần được giải ảo trong một phương cách mới hơn, khi mà có vô số các

nguồn tài liệu được liên tục giải mật. Quan trọng nhất là chúng ta phải có can đảm nhìn vào sư thật của lịch sử trong một nhãn

quan mới.


Cho dù ngày nay ngụy sử đã không thể phản ảnh được toàn bộ quá khứ và chính sử cũng không hẳn là mất đi hết trong những

gì còn sót lại nơi lòng người, nhưng điều may mắn hơn cho chúng ta là lịch sử vẫn còn được truyền tụng, mà ký ức cá nhân và

tập thể cần hồi tưởng là thí dụ điển hình.


Những người Việt đang ở vào lớp tuổi bốn mươi hay trẻ hơn không có ký ức về chiến cuộc, vì họ chưa sinh ra. Dĩ nhiên, họ có

quyền đặt câu hỏi vì sao Việt Nam chưa thể canh tân đất nước và hưởng độc lập dân tộc và họ phải gánh chịu một di sản tồi tệ

như ngày hôm nay. Khi ngụy sử không thuyết phục được họ, thì ký ức của các bậc cha ông còn sống sót sẽ đóng vai trò gì?


Ký ức chiến cuộc nhạt nhòa


Tình yêu về dĩ vãng vốn bẩm sinh trong tâm hồn người Việt; họ thích ôm ấp kỷ niệm trong mơ hồ và không muốn dùng ngôn

ngữ để diễn đạt những cảm xúc trân qúy. Ký ức là nhớ lại; một người không có trí nhớ là một người không còn bản sắc riêng.

Nhưng ngược lại với ký ức là quên lãng; ai phải dồn ép quá khứ, thường là người không bình thường và hoặc sẽ mang bịnh

ức chế. Một người trưởng thành không có ký ức sẽ mãi là một trẻ con.


Ký ức tập thể theo Maurice Halbwach quan trọng hơn. Nó vượt qua khuôn khổ kinh nghiệm sống của một cá nhân, hằn sâu,

tiêm nhiễm vào một tầng lớp xã hội, một thế hệ trong một giai đoạn của dân tộc và tạo thành bản sắc chung. Một dân tộc

không có ký ức lịch sử cũng là một dân tộc chưa trưởng thành.


Khi xưa, Tản Đà có than thở "Dân hai lăm triệu, ai người lớn?, Nước bốn nghìn măm vẫn trẻ con." Lời thơ ai oán được truyền

tụng như một lời cảnh tỉnh về tình trạng dân trí trong thời Pháp thuộc. Trong chiến tranh, Trịnh Công Sơn cũng đã nhắc nhiều

đến thân phận đất nước, nhưng thê thiết nhất là "Ôi, đất nước u mê ngàn năm". Điều ngạc nhiên là cả hai danh tài này sống

trong hai thế hệ cách biệt nhau, nhưng lại cùng một tâm trạng, dù không hề quan tâm đến chính sử và ký ức.


Nhưng làm sống lại ký ức không dễ, vì có một cái gì đó thiếu bình thường mà có quá nhiều thí dụ làm cho chúng ta ngạc

nhiên.


Thứ nhất, nhân ngày 30 tháng 4 mà nhân dân thủ đô Hà Nội kéo băng và biểu ngữ với nội dung "Hân Hoan Chào Mừng Ngày

Giải Phóng Thủ Đô". Vô ý hay là trớ trêu trong một ký ức nhạt nhòa? Không ai biết.


Thứ hai, ngược lại, nhân ngày này mà một số người Việt hải ngoại cũng có tổ chức "Ngày Diễn Hành Cho Tự Do". Vì là buổi

diễn hành nên ít có thuyết trình về ý nghĩa trọng đại về một ngày lịch sử của đất nước để người tham dự cảm thấy có trách

nhiệm hơn đối với những hậu quả của ngày này. Vì tự do hoài niệm mà đôi khi cũng có nhiều nơi còn có kết hợp với lễ Lao

Động với dạ tiệc và khiêu vũ thâu đêm là chính. Đó là sáng kiến giải trí cuối tuần kéo dài trong hoàn cảnh mới, nên không đem

lại một âm vang tưởng niệm nào trong đau buồn, nhớ những nguời nằm xuống và người trốn chạy.


Thứ ba là chuyện không có quyền công khai tưởng niệm những người nằm xuống trong chiến tranh biên giới Trung - Việt.

Khơi động ký ức lại cần có ý kiến chỉ đạo? Hồi sinh ký ức càng thêm chua chát khi lãnh đạo hân hoan đón tiếp lãnh đạo bạn để

cùng "Thành Kính Tưởng Niệm Các Liệt sĩ Trung Quốc Hy Sinh Vì Chính Nghĩa" trong Tiết Thanh Minh, một việc làm đúng

theo chính sách đề ra.


Còn nhớ về Ngày Hoàng Sa và Trường Sa lại càng khó hơn, cụ thể nhất là vụ thảm sát Gạc Ma. Trước đây binh sĩ không được

phép chống trả với Trung Quốc nên đem lại một cái chết tập thể; chính quyền luôn che dấu sự thật và nay lại không cho phép

tưởng niệm và ghi công và không nêu tên kẻ thù, đó là một hành vi xoá bỏ ký ức có định hướng.


Những người chiến đấu còn sống không được tri ân, đãi ngộ và chỉ còn âm thầm xót thương cho đời nhau. Họ cũng bất hạnh

giống như các cựu chiến binh Mỹ, làm điều vô ích cho kẻ vô ơn và cuối cùng lại chứng kiến trớ trêu của lịch sử mà đó lại là

định mệnh của mình.


Thứ tư là chuyện những người di tản buồn lại càng buồn hơn, khi phải nhớ tới những thuyền nhân qua cơn phong ba bảo táp,

chưa hưởng được tự do và cuối cùng phải yên nghỉ nơi đảo vắng xứ người. Trùng tu mộ phần đã khó, sơn tặng cho họ một lá

cờ trên mộ phần và lập đài tưởng niệm trên các đảo cũng bị nhà nước CSVN tìm cách áp lực ngoại giao nên không được

phép. Thân nhân cũng đành khép lại quá khứ theo chính sách.


Thứ năm là vấn đề gọi tên ký ức. Thảm sát hay chiến thắng Mậu Thân? Định danh ký ức cũng cần thảo luận như gọi tên cho

cuộc chiến. !Chống Mỹ xâm lược! mà hơn 5000 ngàn thường dân Việt và vài ân nhân người Đức phải chết oan uổng, thì

không thể nào gọi là thắng lợi huy hoàng và có thể giải thích thuần lý.


Những hung thủ còn sống sót cũng không đủ can đảm đính chánh về cáo giác của các nhân chứng trong "Giải Khăn Sô Cho

Huế". Dù tai họ còn nghe và mắt họ còn thấy phản ứng của nạn nhân khác còn sống, nhưng khác với Hitler đã tự xử, hung thủ

yên tâm hơn để nghiên cứu về Huế học, mà họ quên đi đối tượng nghiên cứu khẩn thiết nhất của Huế học là làm sáng tỏ việc

tàn sát. Tên tuổi và hành vi của họ vẫn bị ràng buộc với lương tâm và lịch sử.


Chúng ta là có vô số ký ức cá nhân có giá trị lịch sử: Giải Khăn Sô Cho Huế, Muà Hè Đỏ Lửa, Dấu Binh Lửa, Đường Đi Không

Đến, Xương Trắng Trường Sơn, Thiên Đường Mù, Nổi Buồn Chiến Tranh và Đèn Cù là những thi dụ chính. Vì là tự truyện cá

nhân nên có sự đãi lọc nhất định theo ý nghĩ cảm nhận và tùy theo cái gọi là lieux de mémoire của tác giả (các địa điểm liên hệ

tới biến cố xãy ra để trở thành ký ức, một khái niệm của Pierre Nora). Thực ra, nhân chứng lưu giữ ký ức, họ chỉ là một người

sống trong những biến cố kinh hoàng trong lịch sử, mà họ không hiểu tại sao, không lường đoán được hậu quả và giải thích

các tầm mức phức tạp của diễn biến.


Do đó, chúng ta cần có sử gia, vì ký ức cần khách quan hóa theo phương pháp sử học, một tiến trình đến sau và có chọn lọc.

Sử gia đối thoại với nhân chứng, vì nhân chứng biết rõ hơn các biến cố. Họ diễn dịch, sưu tầm và biên tập theo một hệ thống

nhất định thành một loại đề tài chung.


Dù ký ức về chiến cuộc nhạt nhòa, nhân chứng lần lượt ra đi, quá ít sử gia chân chính, nhưng lịch sử không thể nguy tạo ký

ức. Chính ký ức làm nên lịch sử. Ký ức không phải là vấn đề riêng của sử gia. Lịch sử không thuộc về sử gia, mà cho tất cả

những người có liên quan và có tinh thần trách nhiệm. Những người đứng ra tổ chức các lễ tưởng niệm với các phương tiện

truyền thông hiện đại cũng là một thí dụ.


Các buổi lễ truy điệu, báo chí, sách vở sẽ làm sống lại các ký ức tập thể. Những hình thức nghi lễ "hoành tráng" của phe thắng

cuộc không mang nhiều ý nghĩa đích thực để tìm ra bản chất của tưởng niệm. Những đề tài thảo luận nghiêm chỉnh về ý nghĩa

của tưởng niệm là quan trọng hơn.


Nhờ thế, chúng ta viết lại lịch sử bằng cách khám phá những sự dị biệt trong ký ức với tinh thần trách nhiệm. Ký ức dị biệt của

cá nhân là một phương tiện thông đạt dùng trong sinh hoạt hằng ngày khi thảo luận về những biến cố lịch sử. Ngược lại, ký ức

tập thể là một sản phẩm xã hội, đẩy mạnh cho việc hình thành một bản sắc văn hóa dân tộc. Nhưng biết tìm đâu bản sắc văn

hóa truyền thống của dân tộc Việt?


Bản sắc dân tộc tàn phai


Dù là gọi là đất nước hay dân tộc cũng chỉ là một. Dân tộc là một ngôi nhà chung chứa đựng một linh hồn chung. Hồn thiêng

này có hai phần: phần một nằm trong quá khứ, là một di sản thuộc toàn dân và ký ức lịch sử là một thành phần. Phần hai nằm

trong hiện tại. Đó là tinh thần đồng thuận, cùng ước mơ chung sống để phát triển và lưu truyền giá trị của một di sản không thể

phân chia. Khái niệm dân tộc này của Ernest Renan không phải là chủ nghiã dân tộc đã bị lạm dụng quá nhiều trong quá khứ.


Bản sắc văn hóa dân tộc gồm các đặc tính được duy trì trong quá trình của lịch sử và được kết tinh thành những biểu tượng

để phân biệt với các dân tộc khác. Nó tạo thành những chuẩn mực giá trị cho xã hội và thể hiện tâm lý dân tộc mà các ký ức

văn hóa là thí dụ.


Ký ức văn hóa theo Jan Assman gồm có việc sử dụng chính sử, tự truyện, hình ảnh và nghi lễ đặc biệt cho một xã hội trong

một thời kỳ; mọi sự vun bồi này sẽ tạo nên một hình ảnh chung cho bản sắc dân tộc. Nhờ thế mà chúng ta có thể hiểu được

giá trị truyền thống.


Chúng ta có thói quen ca ngợi bản sắc dân tộc và đơn giản hóa vấn đề, nhưng kỳ thực, bản sắc cá nhân phức tạp, vì dựa vào

hoàn cảnh và điều kiện xã hội địa phương, thuộc về một thế hệ nhất định, một tôn giáo, một đoàn thể nghề nghiệp và trình độ

giáo dục nào đó. Bản sắc thay đổi liên tục trong suốt cuộc đời qua những biến cố của riêng mình.


Mô tả về bản sắc đất nước càng khó hơn vì theo dòng lịch sử, có quá nhiều biến chuyển sẽ thay thế cho các ký ức cũ phai

mờ, tạo thành những bản sắc mới. Tùy theo thời điểm hay địa điểm mà bản sắc đất nước có thể tiến hay thoái hóa. Các thay

đổi về giá trị qua từng thế hệ kết hợp nhau trong liên tục và tái tạo.


Trong một thời kỳ dài đấu tranh, Đảng đã bao nhiêu lần nói là "thống nhất đất nước ta sẽ xây dựng lại ngàn lần tươi đẹp hơn".

Nhưng chiến thắng năm 1975 cho phép Đảng có lý do tự phong một bản sắc mới là "trung tâm phẩm giá của loài người và

lương tâm của thời đại". Bản sắc cường điệu này không thuộc truyền thống chân thành của dân tộc. Đảng đã không thể trau

dồi bản sắc, và chiến thắng không đem lại tự do và cơm áo cho toàn thể dân chúng trong thời bình.


Dù thành tựu đổi mới kinh tế có đem lại cho sung túc cho một thiểu số, nhưng Đảng không thể nâng cao bản sắc văn hóa vì

giáo dục xuống cấp, đạo đức suy đồi, thờ ơ của dân chúng và gương xấu của chính quyền là trở lực. Tìm lại bản sắc dân tộc

đã đánh mất là điều không thể thực hiện được trước mắt, vì thành tựu của các biện pháp cải cách giáo dục và nâng cao đạo

đức không thể là kết quả dễ được tìm thấy trong một sớm một chiều.


Đã đến lúc đất nước cần có bản sắc mới như là một vai trò kết nối, một khái niệm và một thành tố để xây dựng lịch sử. Nhưng

làm sao nối kết những ký ức văn hóa dị biệt trong bối cảnh hiện nay. Thực ra, không ai có đủ viễn kiến để tiên đoán chuyện lý

thuyết.


Nhưng sử gia không còn đi tìm những giá trị biểu tượng xa xưa, vì các biến động mới có những giá trị làm cho lịch sử độc

đáo hơn. Họ dùng ngày 30 tháng 4 năm 1975 làm một phương tiện nhằm tạo ra huyền thoại chính trị duy nhất cho khởi điểm

mới về ký ức lịch sử cận đại. Với 40 năm trôi qua, thời gian lắng đọng để họ cùng tìm hiểu về ý nghĩa của ngày 30 tháng 4. Do

đó, giải ảo về nội dung ngày này cần được đặt ra.
phai  
#2 Đã gửi : 08/04/2015 lúc 06:32:25(UTC)
phai

Danh hiệu: Moderate

Nhóm: Registered
Gia nhập: 21-02-2012(UTC)
Bài viết: 13,123

Cảm ơn: 4 lần
Được cảm ơn: 3 lần trong 3 bài viết
Phản tỉnh về ý nghĩa của ngày 30 tháng 4 năm 1975


Ngày 30 tháng 4 năm 2015 là một ngày để chúng ta nhớ về ngày 30 tháng 4 năm 1975 và tìm hiểu những gì mà dân tộc đã

sống trong 40 năm qua. Bằng kinh nghiệm sống với chế độ, với các sử liệu mới, lý trí khách quan và tự do phê phán giúp cho

chúng ta nhận ra sự thật. Sự thật sẽ giải phóng cho chúng ta.


Ngày 30 tháng 4 năm 1975 là biểu tượng khởi đầu cho một tiến trình tương phản phức tạp. Giá trị biểu tượng của ngày này là

một nghịch lý bi đát. Chiến tranh kết thúc giải phóng cho tất cả mọi người trong mọi hoàn cảnh, nhưng không phải chỉ là vinh

quang mà còn là tủi nhục; ngày miền Nam thoát khỏi chiến tranh cũng là ngày mà miền Bắc hiểu rõ hơn thế nào là giải phóng

và hy sinh cho chính nghĩa. Cả nước vừa được giải phóng lại vừa bị hủy diệt trong một hoàn cảnh mới, không phải chỉ là thiệt

hại vật chất mà còn là tinh thần, một vấn đề bản sắc.


Dĩ nhiên, chúng ta phải chấp nhận những gì đã xảy ra vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, vì không thể thay đổi được, dù còn bị

ảnh hưởng hậu quả cho đến hiện nay. Chúng ta không thể tách rời ngày 30 tháng 4 năm 1975 với ngày 3 tháng 2 năm 1930,

ngày thành lập ĐCSVN, đó là một nguyên nhân khởi đầu mọi thay đổi trong các trang sử Việt.


Với ý thức phản tỉnh chúng ta có thể nói cho nhau hôm nay về ý nghĩa đích thực của ngày 30 tháng 4 là đây là một ngày toàn

thắng trong tiến trình cướp chính quyền của ĐCSVN và là một ngày đại bại của toàn dân tộc Việt. Vì sao?


Vì nhìn lại quá khứ của công cuộc tiến nhanh tiến mạnh lên XHCN chúng ta chỉ thấy một bóng tối kinh hoàng. Đó là các biện

pháp truất hữu ruộng đất, ngăn sông cấm chợ, đánh tư sản mại bản, bài trừ văn hóa đồi trụy, thanh niên xung phong, kinh tế

mới và học tập cải tạo. Theo sau là thảm kịch thuyền nhân, chiến tranh Tây Nam và phiá Bắc. Cuối cùng là kinh tế kiệt quệ để

rồi ĐCSVN phải chịu có biện pháp xé rào và đối mới để nuôi dưỡng chế độ.


Với một cơ hội mới và tiềm năng cao để tái thiết hậu chiến và hàn gắn vết thương chiến tranh, nhưng đến năm 2015 mà Việt

Nam còn tụt hậu thua Lào về canh tân công nghiệp, trình độ phát triển dân chủ kém hơn Campuchia, cạnh tranh kinh tế suy yếu

hơn Hàn quốc, phát minh khoa học thua xa Thái Lan, năng lực lao động thấp nhất trong khu vực, nhưng tình trạng vi phạm

nhân quyền và bất công xã hội lại là trầm trọng nhất.


Vì nhìn về tương lai chúng ta càng lo sợ hơn vì không biết đất nước và con người sẽ đi về đâu. Chủ nghĩa tư bản thân tộc tạo

ra một xã hội thị trường hỗn loạn trong một nhà nước sơ khai là nguyên nhân, mà tham nhũng lên ngôi thượng đỉnh, đạo đức

suy sụp tận đáy, giáo dục băng hoại và môi sinh cạn kiệt là hậu qủa. Trong khi hiểm họa Bắc thuộc là hiện thực, thì bất ổn cá

nhân, bất trắc kinh tế và bất công xã hội vẫn còn kéo dài.


Tóm lại, chúng ta có các lý do chính đáng để không hân hoan tham gia mừng lễ kỷ niệm chiến thắng, nhưng cần giúp đỡ nhau

để có ý thức phản tỉnh về ý nghĩa tưởng niệm, hòa giải và tỉnh thức trong ngày 30 tháng 4. Nhờ thế, chúng ta sẽ thấy có trách

nhiệm hơn đối với những hậu quả của ngày này trong tương lai.


Ngày tưởng niệm


Hồi tưởng thuộc về một phần trong đời sống tâm linh của chúng ta. Ai đã sống trong ngày 30 tháng 4 với đầy đủ ý thức và

nhận xét, thì cũng tự hỏi là ngày này mình làm gì và ở đâu và sự ràng buộc của mình trong biến cố này.


Ngày 30 tháng 4 là một ngày để chúng ta tưởng niệm về tất cả những người quá cố của hai miền, những người đã tin là mình

chiến đấu cho chính nghĩa của đất nước. Chúng ta không thể quên họ và cầu mong họ siêu thoát. Đau đớn nhất là các chiến sĩ

giải phóng quân; bây giờ họ không còn cơ hội để nhận ra rằng họ đã bị phản bội; tất cả công lao của họ là vô ích và vô nghĩa;

cái chết của họ chỉ là phục vụ cho các mục tiêu cướp chính quyền của giới lãnh đạo vô nhân đạo.


Chúng ta sống trong gọng kềm của lịch sử dân tộc và là nạn nhân phải hy sinh cho quyền lợi của giới lãnh đạo. Cả một dân tộc

không ai có tội cá nhân; không ai có tội với lịch sử. Có tội ít hay nhiều chỉ có thể quy kết cho tập thể lãnh đạo, vì họ thiếu trí tuệ

và thiếu bản lãnh; họ chỉ phục vụ cho ngoại bang, chủ nghĩa phi dân tộc và không tìm cách tiết kiệm máu xương.


Chúng ta cũng hoài niệm về những nổi đau khổ của thân nhân còn sống; đặc biệt là nữ giới, đau khổ vì sự mất mát về tất cả

những gì không thể giữ được từ vật chất cho đến tinh thần. Đó là đau khổ qua bị thương tổn và tật nguyền, đau khổ vì buộc

phải chịu mất tài sàn, mất người thân yêu, mất nhân phẩm, cảm xúc bị tổn thương, cưỡng bức lao động, bất công nghiêm

trọng và tra tấn dã man, đói khổ, giam cầm và trốn chạy.


Ngày hòa giải


Ngày 30 tháng 4 là ngày mà chúng ta không những tưởng niệm cho những người nằm xuống mà còn muốn hòa giải giữa

người Việt còn sống với nhau. Chúng ta tìm kiếm hòa giải, nhưng không thể hòa giải với những người đã nằm xuống và những

người không còn ký ức. Số phận chung của dân tộc liên kết chúng ta với nhau thành một định mệnh chung trong ước muốn

chung sống trong hòa bình và thịnh vượng.


Trong đời sống hằng ngày, người Việt chỉ muốn sống an vui trong hiện tại và không muốn nhớ những chuyện vô nhân đạo

trong quá khứ. Chúng ta chấp nhận và chịu đựng sự khắc nghiệt do số phận an bài, đó là chuyện tinh thần được đặt ra bên

cạnh các nhiệm vụ khác.


Nhưng ngày 30 tháng 4 là một vết rạch hằn sâu trong lịch sử cho toàn thể, nên có một nghịch lý xảy ra, người Việt có tinh thần

hồi tưởng và sẽ luôn hồi tưởng khi có cơ hội. Bốn mươi năm sau khi kết thúc chiến tranh, dân Việt vẫn còn bị phân chia. Chúng

ta cảm thấy chưa thuộc về nhau bởi vì chúng ta đã sống và nghĩ không cùng trong một nhận thức về quan điểm đấu tranh. Đó

là một gánh nặng trong lịch sử mà chúng ta vẫn còn bị mang ít nhiều tổn thương.


Làm sao chúng ta có thể xóa bỏ vết hằn khôn nguôi nếu không có hòa giải? Thực ra, kinh nghiệm quốc tế cho thấy hòa giải

không chỉ là tha thứ của nạn nhân về sai trái của thủ phạm, mà còn là một đồng thuận giá trị về chính trị. Đầu hàng là một thay

đổi thái độ của phe thua cuộc trước phe thắng cuộc, một quyết định hợp lý của lý trí của phe thua cuộc và cần được thể chế

chính trị của phe thắng cuộc bảo vệ. Vai trò luật pháp là điều kiện thể chế tiên quyết để bảo vệ họ. Khuôn khổ cho hoà giải là

bình đẳng trước pháp luật, thực thi dân chủ, tôn trọng nhân quyền và dân quyền của phe thắng cuộc. Sự đồng tình của cả hai

phe sẽ đem lại ý nghiã chung sống. Đó là một khuôn khổ xây dựng lại mối quan hệ và niềm tin cho xã hội và tạo lập một cộng

đồng cho tương lai.


Dầu bối cảnh tranh chấp khác nhau, các nước Nam Phi, Nam Tư củ, Bắc Ái Nhĩ Lan, Sierra Leone, El Salvador, Guatemala và

Rwanda đã tìm ra một căn bản đồng thuận cho tiến trình hòa giải, mà đạo đức là mục tiêu và luật pháp là phương tiện. Vì say

men chiến thắng mà kinh nghiệm hòa giải chính trị hậu xung đột không là vấn đề quan trọng để Việt Nam quan tâm học tập, cải

tạo tập trung là trường hợp minh chứng ngược lại.


Sau ngày Đổi Mới, Việt Nam khởi đầu tiến trình hòa giải chính trị bằng Nghị Quyết để nhằm thu hút tài năng trí tuệ và đóng góp

tài chánh. Nghị Quyết không đề ra sư tương thuận của phe thua cuộc; khuôn khổ pháp luật làm nền tảng và tinh thần đạo đức

dân tộc làm nội dung cho hòa giải cũng không có. Việt Nam chỉ đo thành tựu Nghị Quyết bằng lượng kiều hối, du lịch và giao

lưu văn nghệ trong ngoài. Hòa giải loại này không đem lại một niềm tin chung hướng về tương lai.


Trong nỗ lực hòa giải có một thử thách chung cho hai phía. Sẵn lòng hòa giải phải phát sinh từ trong nội tâm và do ngoại cảnh,

không phải là vấn đề mà phe thắng cuộc đòi hỏi nơi phe thua cuộc theo tinh thần Nghị Quyết, nhưng là tự nội tâm của mỗi phe

đòi hỏi nơi chính mình, đó là khởi điểm quan trọng nhất.


Cụ thể là liệu phe thắng cuộc có thể thực sự tự đặt mình trong hoàn cảnh của phe thua cuộc đựợc không hay phe thua cuộc

có tin tưởng vào thành tâm hòa giải của phe thắng cuộc được không? Liệu Nghị Quyết một chiều có phải là một cơ sở ràng

buộc nhau không? Cả hai phải nhận ra những gánh nặng của nhau, xem có chịu đựng nhau không và có quên quá khứ được

không?


Cả hai phe làm gì trong tiến trình này? Chủ yếu là phe thắng cuộc cần có ý thức hơn để tìm lại nguyện vọng trung thực của

phe thua cuộc; thay vì diễn binh mừng chiến thắng chỉ khơi động lại lòng thù nghịch, phe thắng cuộc nên can đảm hơn là đem

tàu ngầm hiện đại ra biển Đông để bày tỏ quyết tâm trước Trung Quốc, phô trương này sẽ gây tác động hòa giải dân tộc cao

hơn. Thay vì ngăn cản tưởng niệm, nên thành tâm bày tỏ thương tiếc những người của hai phiá đã hy sinh bằng cách xây một

tượng đài chung, một hình thức tỉnh ngộ về sự lầm lạc chung của cả dân tộc trong cả một giai đoạn lịch sử. Họ nên đãi ngộ

người đóng góp còn sống, một hình thức xoa dịu thương đau xã hội; nỗ lực hoà giải với người đối kháng và trực tiếp đối thoại

trong tinh thần dân chủ là thực tế hơn, vì không phải ai có quan điểm đối lập chính trị với chính quyền cũng đều là những phần

tử suy thoái đạo đức và phản động.


Phe thua cuộc cũng cần có nhận định nghiêm chỉnh hơn về ý nghĩa cao cả của tha thứ. Tha thứ là tìm hiểu và mến yêu người

sai phạm. Hiểu nhau là vì đã tìm thấy lại nhau trong một quá khứ chung lầm lạc. Yêu mến nhau là vì cùng có một số phận và ý

chí chung sống để xây dựng tương lai đất nước.Thực tế ngược lại. Một số không nhỏ của phe thua cuộc tự nguyện tìm đến

phe thắng cuộc vì những bả lợi danh cuối đời, những lạc thú do những chênh lệch giá cả tại quê nhà, ngay cả những hạnh

phúc thoáng qua như tiếng còi hụ đưa đón. Đó là một sự sĩ nhục mà một số trong phe thua cuộc tự tạo ra, vì trong khi cho

đến ngày hôm nay, vẫn còn có rất nhiều người khả kính, can trường và liêm chính trong chiến bại.


Tương lai của hòa giải không ai biết được, nhưng khởi động một trào lưu nhận thức mới về tinh thần hỏa giải là khẩn thiết, vì

các thế hệ tham chiến sẽ lần lượt ra đi và các thế hệ nối tiếp sẽ không đủ quan tâm để giải quyết.


Ngày tỉnh thức


Ngày 30 tháng 4 năm 2015 bắt đầu một chương mới trong lịch sử Việt Nam và một thế hệ mới đang trưởng thành. Giới trẻ

không có các ký ức dị biệt và không chịu trách nhiệm về những gì đã xảy ra trong quá khứ, nhưng họ đang và sẽ có trách

nhiệm đối với những gì sẽ trở thành lịch sử. Họ sẽ đóng một vai trò chính về số phận của con người, đất nước và dân tộc

trong khoảng thời gian bốn mươi năm tới. Nhưng ngày 30 tháng 4 năm 1975 lại có ý nghĩa tỉnh thức vì ký ức cá nhân kéo dài

chỉ trong bốn mươi năm. Nếu ký ức phai nhạt thì những gì quan trọng khác còn lại cũng không còn ý nghĩa. Thế hệ tham chiến

cần giúp cho giới trẻ hậu chiến tìm hiểu về sự thật của lịch sử, không thiên vị theo ý thức hệ, trốn chạy trách nhiệm và nhân

danh đạo đức. Đâu là giá trị tỉnh thức trong ngày 30 tháng 4?


Chúng ta cần can đảm để nói cho thế hệ hôm nay biết là hiện tình Việt Nam là đang bị nguy cơ hơn bao giờ hết; vì về mặt nội

trị có quá nhiều bất ổn mà vẹn toàn lãnh thổ, tham nhũng và nợ công là chính; về mặt đối ngoại có quá nhiều tổn thương, vì

lãnh đạo đặt quyền lợi Trung Quốc và quyền lợi riêng lên trên quyền lợi của dân tộc là chính; nay lại hy vọng là Hoa Kỳ đoái

thương dân Việt. Nhưng thực tế, Hoa Kỳ sẽ không có phép lạ nào để biến đổi nội tình Việt Nam hôm nay và sẽ không là một lá

chắn an toàn cho Việt Nam mai sau. Mỹ đủ thông minh để không bao giờ chống Trung Quốc cho đến xương máu của người

Mỹ cuối cùng thay cho Việt Nam, như miền Bắc Việt Nam đã hãnh diện chống Mỹ thay cho Trung Quốc trong quá khứ.


Do đó, giới trẻ nên tỉnh thức để tránh lầm lạc của bậc cha ông. Đó là do khuấy động các ý thức hệ đối nghịch, hận thù lầm lạc

và gian dối lẫn nhau mà Việt Nam đã có chiến tranh. Do bất tài, bất xứng và bội tình mà thế hệ cha ông đã không để lại được

một non sông gấm vóc cho con cháu thừa hưởng; “Gia tài của mẹ, một nuớc Việt buồn“, nếu nói theo nhạc của Trịnh Công

Sơn.


Từ tỉnh thức này mà giới trẻ sẽ lưu truyền các ký ức lịch sử và không để bị lôi cuốn vào những hận thù và chống đối nhau, mà

cố gắng liên tục học hỏi để tìm cách chung sống với nhau trong tình hiếu hòa và nhất là sẽ có ý thức trách nhiệm nhiều hơn

cho tương lai đất nước.


Thế hệ hậu chiến và tương lai


Ngày 30 tháng 4 năm 2015 đánh dấu một ngày khởi đầu cho thế hệ hậu chiến trưởng thành. Họ có trách nhiệm chính trị cho

đất nước trong thời kỳ mới. Nhưng họ phải nghĩ gì và làm gì để canh tân đất nước và tìm lại độc lập cho dân tộc?


Nghĩ gì? Thách thức vô cùng to lớn khi thế hệ hậu chiến cần có nhiều ý thức và kinh nghiệm hơn để đảm nhiệm trọng trách

này. Đó là vấn đề còn mở rộng để tranh luận, nhưng họ có bốn khó khăn chính.


Một là, họ không kế thừa một phương sách khả thi nào. Đảng đã không thể lý giải được cơ chế Kinh tế Thị trường và Nhà

nước Pháp quyền theo định hướng XHCH là gì. Đảng cũng tự nhận là đã theo một đường lối không có cho đất nước. Vì nhận

hư thành thực cho nên Đảng cũng không thể hoàn thiện đường lối này cho đến cuối thế kỷ XXI. Nhưng Đảng sẽ vượt qua các

chống đối bằng cách dùng bạo lực đàn áp để duy trì chế độ, một bất hạnh cho toàn dân.


Hai là, họ không thể phát huy các kinh nghiệm cuả bậc cha ông. Các kinh nghiệm của Cách Mạng Tháng Tám và Đại Thắng

Mùa Xuân không còn phù hợp với trào lưu đấu tranh bất bạo động cho Việt Nam, mà đó là một giải pháp tương ứng khả thi.

Thành quả cuả Cách Mạng Đông Âu, Đông Đức, Miến Điện và Muà Xuân Á Rập là những bài học mới thích hợp hơn, nhưng

họ chưa thể huy động được dân chúng vì thái độ vô cảm chính trị của đa số.


Ba là, họ không thể hy vọng là được Đảng chuyển giao quyền lực cho dù họ có khả năng và tâm huyết, vì thân tộc của lãnh

đạo còn vây quanh. Trong một xã hội thị trường đang thay đổi hỗn loạn, họ không thể tiên đoán được là đổi mới chính trị sẽ

hình thành như thế nào. Tất cả đều tuỳ thuộc vào một số quan niệm về tương lai, những cách đánh giá khác nhau về ý nghĩa

của xu hướng hiện nay và về các chuẩn mực để giải quyết các khác biệt, thí dụ như vi phạm nhân quyền và tự do báo chí.


Bốn là điều kiện ý thức về truyền thống lịch sử và chuyển hóa chính trị. Từ thắng lợi của việc cướp chính quyền mà Đảng tự

hào về thành tích làm nên "Ý nghĩa Lịch sử" cho dân tộc. Nhưng ý nghĩa lịch sử này không phải là những gì đã được Đảng

tuyên bố, mà giới trẻ cần khám phá lại. Nhu cầu giải ảo ngụy sử và niềm tin về tương lai dân chủ cần đến các điều kiện trí thức.

Đó là kiến thức và ý thức về chính sử và dân chủ, để từ đó làm cơ sở cho tinh thần xây dựng. Kiến thức là khởi điểm cho ý

thức và có kiến thức thì mới có ý thức để xây dựng một ý chí chung sống.


Tuy nhiên, thực tế bi quan hơn, vì sử học và kinh tế chính trị học không còn thu hút giới trẻ, một môn mà người học không

muốn học và người dạy không muốn dạy. Sự tụt hậu là do một hệ thống giáo dục gian dối và ngụy sử làm mất niềm tin về giá

trị cuả toàn xã hội qua nhiều thế hệ.


Ý thức về lịch sử và dân chủ do đào tạo mà ra, có tính thuần lý vì do lý trí hướng dẫn và được đãi lọc qua thời gian. Học chính

sử giúp giới trẻ lý luận và phán đoán về sự thật của lịch sử. Ý thức về lịch sử sẽ tạo nên một thái độ chung đối với lịch sử, một

khả năng để giải ảo, một loại trách nhiệm cá nhân đối với xã hội và có tình cảm dân tộc.


Do đó, hy vọng còn lại là giới trẻ sẽ phát huy tinh thần tìm hiểu và mến yêu lịch sử và giá trị của dân chủ. Sự thật lịch sử sẽ là

bước khởi đầu và giới trẻ phải tìm kiếm sự thật giữa dòng lịch sử. Giới trẻ có thể so sánh lịch sử tương lai như một dòng

sông, nhưng các dòng nước sẽ luôn biến đổi mà họ đang khởi đầu bơi lội và cũng không biết đi về đâu, như một câu nói quen

thuộc là "Người ta không thể tắm hai lần trong cùng một dòng sông". Nhưng có ý thức lịch sử và dám dấn thân làm lại lịch sử

cho dân tộc là một hy vọng khởi đầu.


Làm gì? Giới trẻ cần thảo luận để nhận ra điều kiện đem lại hòa bình và thịnh vượng cho đất nước. Mọi vấn đề hiện nay có thể

sẽ được giải quyết được một phần nào khi có sức mạnh dân tộc mà sự hiểu biết của toàn dân, đồng thuận chính trị, và quyết

tâm chuyển hướng là chính và đường lối thực tiễn là thay đổi hiến pháp dân chủ, nâng cao đạo đức và giáo dục, tăng trưởng

kinh tế, tôn trọng trí thức và pháp luật, thực thi nhân quyền và dân quyền và bảo vệ thiên nhiên. Nhưng sự hợp tác về một

chính sách ngoại giao Trung-Việt ổn định và tương kính là khả thi, khi Việt Nam đủ khả năng chứng tỏ là một người bạn đối tác

đích thực bình đẳng và không phải chỉ bằng ngôn ngữ bóng bẩy như hiện nay. Với nỗ lực của nhiều thế hệ, chúng ta hy vọng

là Việt Nam sẽ đạt được một phần nào những mục tiêu này.


Việt Nam sẽ đi về đâu? Không ai biết rõ, nhưng chắc một điều là đất nước dù năng động đến đâu đi nữa, thì Đảng cũng sẽ

không còn phép lạ khi Đảng không tự chuyển hóa. Thế hệ hậu chiến không cần có một lý tưởng cầu toàn để canh tân đất

nước, một ảo tưởng trí thức để thăng hoa bản sắc văn hóa hay các biện pháp xé rào để cứu Đảng, mà cần nhất là có một ý

thức bừng tỉnh về sự tồn vong của dân tộc.

Đỗ Kim Thêm
______________
Bài liên quan:

1. Luật Pháp Và Hòa Giải Chính Trị - Các Kinh Nghiệm Quốc Tế
https://www.danluan.org/...ac-kinh-nghiem-quoc-te-1

2. Lý Thuyết Đạo Đức Cho Hòa Giải Chính Trị

https://www.danluan.org/...c-cho-hoa-giai-chinh-tri

3. Sự thịnh vượng của đất nuớc: Lý thuyết của Adam Smith và thực tế tại Việt Nam

https://www.danluan.org/...th-va-thuc-te-viet-nam-1

4. Việt Nam Sẽ Đi Về Đâu Với Kinh Tế Trọng Thương, Tư Bản Nhà Nước và Xã hội Thị Trường

https://www.danluan.org/...ng-tu-ban-nha-nuoc-va-xa
Ai đang xem chủ đề này?
Guest
Di chuyển  
Bạn không thể tạo chủ đề mới trong diễn đàn này.
Bạn không thể trả lời chủ đề trong diễn đàn này.
Bạn không thể xóa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể sửa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể tạo bình chọn trong diễn đàn này.
Bạn không thể bỏ phiếu bình chọn trong diễn đàn này.

Powered by YAF.NET | YAF.NET © 2003-2025, Yet Another Forum.NET
Thời gian xử lý trang này hết 1.091 giây.