logo
Men for what watch? Watch, watch and call. A tool that is used for timing on breitling replica the wrist. Men wear watches what kind, starting from the basic color and size, have their own right watches, you can follow the watch's color, shape, value, occasions to carefully match their own clothing. For the choice of rolex replica a watch, the first to look at and their identity are consistent with a rural old people wear watches, a bit unrealistic, even if there is, it would have been too ostentatious. A Multi Millionaire owner, wearing a few hundred dollars of high imitation table also lost their identity, and even make friends on their own business is not good. In the formal social occasions, watches are often regarded as jewelry, for usually only ring a jewelry can be worn by rolex replica uk men is respected. Some people even stressed that: "the watch is not only a man's jewelry, but also men's most important jewelry." In western countries, watches, pens, lighters was once known as adult men "three treasures", is every man even for a moment can not be away from the body.

Chào mừng các bạn! Mong bạn Đăng nhập. Xin lỗi bạn, tạm dừng việc đăng ký mới.►Nhấn hình ảnh nhỏ sẽ hiện ảnh lớn ‹(•¿•)›

Thông báo

Icon
Error

Tùy chọn
Xem bài viết cuối Go to first unread
phai  
#1 Đã gửi : 23/04/2015 lúc 06:34:31(UTC)
phai

Danh hiệu: Moderate

Nhóm: Registered
Gia nhập: 21-02-2012(UTC)
Bài viết: 13,123

Cảm ơn: 4 lần
Được cảm ơn: 3 lần trong 3 bài viết
Đã 40 năm sau trận Đại Hồng Thủy, những người bỏ nước ra đi tỵ nạn vẫn không quên bản thân mình đã chịu đựng bao nhiêu khổ đau mất mát. Đại nạn đó to hơn cả “sóng thần”, tàn phá hơn cả một trận động đất, ghê gớm hơn một bệnh dịch lây lan giết người hàng loạt một cách nhanh chóng, tàn bạo hơn nạn thổ phỉ cướp của giết người đốt phá nhà cửa làng mạc. Bởi vì những thiên tai chỉ xảy ra một lần trong một thời gian ngắn ngủi, rồi qua đi nhanh chóng, những mất mát chỉ là sinh mạng và vật chất. Cuộc xâm chiếm của người miền Bắc không những làm tan nát bao nhiêu sinh mạng, gia đình, tài sản mà luôn cả luân lý, đạo đức, văn hóa, nghệ thuật và phong cách của người miền Nam.

Khi chúng ta leo lên con thuyền vượt biển là đã chấp nhận lấy tính mạng để thách đố với định mệnh. Dù gặp bất cứ tình huống nào ở cuối con đường vẫn tốt hơn là ở lại với Cộng Sản. Ra đi là mất tất cả, những gì còn lại chỉ là một ý chí quyết làm lại từ đầu. Chúng ta những người định cư trên đất Mỹ được hít thở không khí tự do, được thấy mình vẫn còn là một con người với đầy đủ bổn phận và quyền lợi chính đáng. Với hai bàn tay cần cù và khối óc nhẫn nại, chịu khó, chẳng bao lâu cuộc sống trở nên ổn định. Nhưng vật chất là cái gì dễ kiếm lại được, còn mất mát tinh thần, gia đình người thân, cha mẹ, vợ con, anh em, bạn bè, người tình thì làm sao đây? Chúng tôi muốn kể hầu quý vị chuyện tình của một người lính tha hương về tìm lại cố nhân.

*

Tôi đứng ngay tại Ngã Ba Hàm Rồng nhìn dáo dác chung quanh. Buổi trưa nắng chang chang. Thỉnh thoảng một cơn gió nổi lên cuốn theo những đám bụi đỏ mù trời. Tôi dụi mắt mấy lần cố tìm những gì thân quen của một quá khứ yêu dấu xa xưa. Người tài xế của hãng du lịch chạy đến bên tôi thắc mắc:

– Anh kiếm cái gì thế ? Con đường trước mặt đi về hướng Phú Nhơn đến tận Ban Mê Thuột, bên trái là ngõ về quận lỵ Phú Thiện và tỉnh Phú Bổn, còn đằng sau là con đường mình mới từ Pleiku ra đây. Anh muốn đi đâu thì cứ cho tôi biết, tôi sẽ đưa anh đến nơi đến chốn.

Không lưu tâm gì đến anh tài xế, tôi vẫn đứng yên đó thầm nghĩ:

– Dù đã lâu lắm rồi nhưng làm sao quên được. Mình đã để lại một đoạn đời hoa bướm, một mối tình đầu tha thiết nơi rừng núi này. Quang cảnh chung quanh vẫn vậy, nhưng con đường trải nhựa có thêm nhiều ổ gà, vắng người qua lại và hàng quán xơ xác tiêu điều hơn xưa.

Rồi tôi trả lời bâng quơ:

– Tôi đang chụp hình.

– Tôi đâu thấy anh mang máy hình?

– Ồ, chụp hình trong đầu ấy mà.

Nguời tài xế há hốc mồm ra ngạc nhiên, anh ta nói lẩm bẩm trong miệng nhưng đủ cho tôi nghe rõ:

– Mấy ông nội Việt Kiều thật là lẩm cẩm.

Tôi leo lên xe và hối người tài xế chạy về phía quận Phú Nhơn. Chiếc xe mướn của hãng du lịch tương đối còn mới, lồng lộn lao về phía trước, lúc nghiêng qua trái, lúc lách qua phải để tránh những ổ gà và khúc đường bể chưa được sửa chữa. Mà có lẽ sẽ chẳng bao giờ được sửa chữa nữa. Hàng trăm thứ chuyện quan trọng hơn người ta còn chẳng thèm để ý tới, xá gì một con đường nhỏ ở một thành phố xa xôi hẻo lánh này. Để mặc tài xế đánh vật với chiếc xe và con đường, tôi thả hồn chìm về dĩ vãng…

Ngày ấy đã xa lắm rồi…

*

Tôi, một Thiếu Úy trẻ măng vừa đổi về đơn vị mới thành lập. Tiểu Đoàn tân lập, từ sĩ quan đến binh lính, hầu hết là những thành phần khó xài từ các đơn vị khác bị tống về đây. Dĩ nhiên tôi cũng ở trong đám người bất hảo đó. Từ miền biển bị đưa lên miền núi và chỉ huy một đám quân hỗn tạp gồm đủ mọi tầng lớp. Tôi còn đang tập những bước đi chập chững của nghề chỉ huy thì bị quăng ra chiến trường. Ngày ấy, cũng trên con lộ này, tôi dẫn hai con Gà Cồ Đại Pháo 105 ly để yểm trợ cuộc hành quân trực thăng vận tái chiếm quận lỵ Phú Nhơn mà Bắc Quân vừa mới tràn ngập đêm hôm trước.

Ngã ba này bình thường chỉ có vài quán cóc lèo tèo để bán đồ ăn thức uống cho khách của xe đò chạy đường Pleiku – Phú Bổn hay Pleiku – Ban Mê Thuột. Hôm đó dân chạy loạn từ Phú Nhơn ra rất đông, từ những làng Thượng, hoặc mấy khu dinh điền và những người làm ăn buôn bán chung quanh quận lỵ. Đồng bào thấy lính đi tái chiếm quận, họ rất mừng rỡ, người hỏi thăm, người cho quà bánh. Để đáp lại tấm thạnh tình, những người lính tặng lại dân chúng thuốc lá và những đồ hộp Quân Tiếp Vụ. Họ ở quận nhỏ xa xôi cũng nghèo khổ như lính vậy thôi.

Từ sáng sớm, lo đốc thúc tải đạn, sửa soạn xe cộ, đại bác, hàng trăm thứ phải làm cho một cuộc trực thăng vận, cho nên bao tử đã cồn cào. Phi cơ câu súng đại bác phải xin từ căn cứ Mỹ ở Quy Nhơn lên, nên chờ cũng còn lâu. Tôi rủ anh chàng Chuẩn Uý Trung Đội Phó kiêm Đề Lô vào quán bên đường kiếm cái gì lót bụng. Dân quận lỵ bu lại hỏi thăm tình hình, đánh nhau có lâu không? chừng nào có thể về quận được? Toàn những câu hỏi mà chỉ có Trời mới trả lời được.

– Mấy anh ấy đi giải toả quận Phú Nhơn phải không ông chủ.

– Tôi đoán vậy, cô thử hỏi mấy ổng coi.

Tôi quay lại, người vừa hỏi là một thiếu nữ độ đôi mươi, nàng mặc chiếc áo dài trắng học trò, trông rất hiền thục, đang hỏi thăm người chủ quán, tôi hỏi lại cô gái:

– Sao cô đoán tụi này đi giải tỏa Phú Nhơn?

– Em mới từ Tuy Hòa lên Pleiku hôm qua. Sáng nay đáp xe đò vô quận, không ngờ kẹt từ sáng đến giờ.

– Cô cũng ở quận Phú Nhơn sao?

– Em dạy ở trường tiểu học Phú Nhơn, còn nhà em ở Tuy Hòa.

– Cô nên về Pleiku kiếm chỗ ngủ đỡ qua đêm nay.

– Em không có ai quen ở Pleiku cả, vả lại em nóng lòng không biết nhà cửa, trường ốc ra sao?

– Cô có lo lắng thì cũng chẳng làm gì được, tốt hơn hết là kiếm chỗ nào nghỉ đỡ qua đêm nay, chờ giải tỏa xong mới về được.

– Đám học trò của em chạy ra đây cũng đông lắm, em không thể bỏ chúng được. À này các anh đừng pháo vào trường học nghe.

Tôi vỗ vai Châu Đề Lô vừa cười vừa nói:

– Cái đó cô phải nhờ ông Châu mới được, ổng chỉ đâu là nơi đó thành bình địa.

Châu vội lên tiếng:

– Trường của cô giáo tụi này không dám đụng tới đâu.

Tôi chế diễu Châu:

– Bạn hứa một mình chứ không có tôi can dự trong đó đâu nghe. À nãy giờ mình nói chuyện mà quên giới thiệu. Tôi tên Lập, anh bạn này tên Châu. Còn quý danh cô là…

– Em tên là Quỳnh Hoa, các anh hứa là phải giữ lời đó nghe!

Tôi chọc ghẹo Quỳnh Hoa:

– Nếu thế thì Quỳnh Hoa phải đền cái gì mới được chứ?

Tôi nhìn người con gái nước da trắng hồng, mịn màng như trứng gà bóc, đôi môi đỏ như cánh hoa đào, cặp mắt to đen láy trông thật thông minh lanh lẹ, mái tóc thề phủ xõa ngang lưng, nụ cười tươi với hàm răng đều đặn như những hạt bắp vừa đủ lớn. Nhìn Quỳnh Hoa đứng giữa đám học trò nhà quê lem luốc bẩn thỉu, tôi có cảm tưởng nàng là bà tiên giáng trần, đang cầm cây đũa thần gõ trên đầu đám chúng sinh đầy đau khổ. Nàng rất bạo dạn tuy hơi lo lắng, nhưng không có cái e lệ như những cô gái kinh thành. Tôi thầm hỏi:

– Bông hoa vương giả này sao lại mọc ở chốn rừng không mông quạnh này nhỉ?

Quỳnh Hoa thấy tôi nhìn cô chăm chú, có vẻ mắc cỡ đôi má càng hồng hào thêm. Còn đang phân vân chưa biết trả lời ra sao, Châu vội đề nghị:

– Thôi bữa nào giải tỏa xong, đãi tụi này một bữa cơm dân dã được không Quỳnh Hoa?

– Em nấu ăn dở lắm, nhưng em sẽ đãi các anh một chầu bún bò Huế, được không?

Tôi làm bộ nuốt nước miếng:

– Ôi chao, chưa thấy mùi sả mà đã thèm nhỏ giãi rồi.

Có tiếng trực thăng từ xa vọng lại, chúng tôi từ giã Quỳnh Hoa rồi vội vã đốc thúc anh em binh lính để cuộc di chuyển được mau chóng. Bình, anh chàng tài xế xe jeep của tôi chạy lại hỏi:

– Mình cần về hậu cứ lấy thêm gì nữa không Ông Thầy?

– Chắc đủ rồi, vả lại cũng không còn kịp nữa.

Tôi móc túi đưa cho Bình một ít tiền lẻ và nói:

– Em vào trong quán mua vài gói mì và một hộp trà, tối nay mình ăn mừng chiến thắng.

Bình cầm tiền, nheo mắt chọc tôi:

– Cái cô hồi nãy coi bộ chịu đèn Ông Thầy lắm rồi đó nghe.

Tôi thấy thích thú trong lòng nhưng cũng giả vờ chống chế:

– Con gái đời nay đẩy đưa lắm, đừng tưởng bở.

Trời bắt đầu đổ mưa khi trực thăng vừa bốc hai khẩu đại bác. Tôi nhìn bầu trời đen nghịt mà lo lắng cho những giờ phút gian lao nguy hiểm sắp tới bởi vì tôi vừa phải chiến đấu với địch quân vừa phải yểm trợ cho quân bạn ngay từ phút đầu trong thời tiết mưa gió bão bùng này. Những cơn mưa trên miền núi thường dai dẳng và mang theo gió lạnh thấm đến tận xương tủy của những người lính pháo thủ, vừa thiếu ăn vừa phải làm việc cực nhọc. Tôi thầm hỏi liệu đêm nay trực thăng có kịp đổ quân để bảo vệ hai con gà cồ của mình không?

Hai khẩu đại bác cùng với 4 túi đạn 105 ly và chiếc xe Jeep được thả xuống một ngọn đồi trọc. Dưới cơn mưa tầm tã, đất đỏ lầy lội, đám pháo thủ thoăn thoắt làm việc, hì hục đẩy hai khẩu pháo lại gần nhau, khuân vác đạn dược, dựng cây truyền tin, nhắm hướng súng. Chỉ trong vòng nửa tiếng đồng hồ, những trái đạn đầu tiên đã được phóng đi liên tục để dọn bãi đáp cho hai tiểu đoàn bộ binh đổ bộ xuống mục tiêu.

Trận tái chiếm quận Phú Nhơn hôm đó đã thành công hoàn toàn nhưng Châu Đề Lô đã bị thương nặng, một mảnh đạn B40 của địch quân đã chọc một lỗ lủng lớn ở bụng của hắn. Toán pháo binh được di chuyển về phía sau quận hành chánh để sẵn sàng yểm trợ cho lực lượng bảo vệ quận.

Một buổi sáng, sau khi sửa sang tuyến phòng thủ tạm ổn định, tôi ghé thăm Quỳnh Hoa. Ngôi trường chỉ bị thiệt hại nhẹ. Anh em quân nhân trong quận đang giúp một tay sửa sang những chỗ bị trúng đạn. Tôi đến bên lớp học của Quỳnh Hoa, nàng đang say sưa tập hát cho các em nhỏ. Có tiếng một em bé báo động:

– Thưa cô có ông lính tới kiếm.

Nàng quay lại, gật đầu chào. Tôi ướm thử xem nàng còn nhận ra tôi không:

– Ông lính kính chào cô giáo, cô giáo còn nhớ ông lính này không?

Nàng không thể nhịn cười được lối diễu cợt của tôi, nhưng cũng chẳng chịu thua:

– Ông lính đi đâu mà lạc vô đây?

– Ông lính đi lạc vào thiên thai đó ạ. – Ông lính tỉnh lại đi, đây là chốn trần gian, làm gì có nàng tiên nào đâu.

– Chứ Quỳnh Hoa không phải là tiên sao?

Nàng nghe tôi khen không khỏi e thẹn:

– Anh Lập làm Quỳnh Hoa mắc cỡ quá hà! Người ta xấu như ma mà so sánh với tiên, anh có mơ ngủ không đấy? Anh Châu có khỏe không anh Lập?

– Châu bị thương nặng đang nằm ở quân y viện Pleiku.

– Trời ơi, có nguy hiểm lắm không anh?

Thấy mặt Quỳnh Hoa biến sắc, tôi thấy hơi ghen tỵ với bạn mình, nhưng vội trấn an:

– Chắc không đến nỗi nào, nhưng phải nằm nhà thương một thời gian.

– Hôm nào anh có đi thăm anh Châu cho em đi theo với nghe.

Tôi tự nhủ thầm sao nàng dễ xúc động như vậy nên hứa đại cho xong chuyện:

– Cuối tuần tôi phải về hậu cứ nhân tiện ghé đón Quỳnh Hoa đi thăm ông Châu luôn thể, được không?

– Gia đình ảnh đã biết tin chưa vậy anh Lập?

– Gia đình ảnh ở Pleiku đã được thông báo rồi.

Tôi hỏi thăm qua loa về tình trạng trường ốc và nơi ở của nàng rồi vội vã cáo lui, hẹn gặp lại sáng thứ bảy. Quỳnh Hoa hiện ở trọ tại nhà bà Hiệu Trưởng, một người bạn cũ của gia đình nàng. Chồng bà cũng là một cựu quân nhân giải ngũ, có tiệm tạp hóa ngoài chợ.

Sáng thứ bảy, tôi cho tập họp trung đội, giao doanh trại cho Ông Thượng Sĩ Thường Vụ rồi hối đám quân xa chuẩn bị xe cộ về hậu cứ lãnh lương thực và đạn được. Tôi gọi Bình vào văn phòng rồi dặn:

– Bình à, coi lại xe cộ, xăng dầu đầy đủ, bữa nay mình về hậu cứ đồng thời ghé thăm ông Châu luôn thể. À hôm nay có một người bạn xin quá giang nữa nghe.

– Ai vậy ông thầy?

– Cô giáo bữa mình gặp ngoài ngã ba Hàm Rồng đó nhớ không chú mày.

– Ồ, vậy em phải rửa xe cho thật sạch mới được.

– Lính tác chiến mà chú mày làm như lính kiểng ở thành phố không bằng, không sợ tụi hậu cứ nó cười sao?

– Sức mấy mà tụi nó dám cười thầy trò mình.

Tôi ghé lại nhà Quỳnh Hoa, nàng đã chờ sẵn, vẫn chiếc áo dài trắng hôm nào. Nét mặt vui vẻ, nụ cười tươi như hoa trông mới duyên dáng làm sao! Nàng bước ra cửa đón tôi:

– Chào anh, mời anh vào trong nhà uống miếng nước đã.

– Chào cô Quỳnh Hoa, cám ơn cô để khi khác, thôi chúng ta lên đường kẻo trễ.

Đến hậu cứ, tôi nhận tiếp liệu rồi hẹn tất cả tập trung lúc 2 giờ chiều để trở ra Phú Nhơn. Tôi chở Quỳnh Hoa vào bệnh viện. Châu vẫn còn thiếp trong giấc ngủ mê, khuôn mặt trắng bệch, hơi thở yếu ớt. Bà mẹ của Châu nhìn thấy chúng tôi thì không cầm nổi nước mắt. Bà bắt đầu thút thít khóc. Tôi tự hỏi trong những ngày qua người mẹ đau khổ này đã đổ bao nhiêu nước mắt cho đứa con yêu dấu của mình. Chiến tranh thật tàn nhẫn! Nó như một con quỷ luôn luôn cười cợt trên sự đau khổ của con người. Nó lấy xác chết làm chiến lợi phẩm. Quỳnh Hoa nhìn thấy Châu, bỗng hai hàng lệ tuôn trào. Tôi đưa chiếc khăn tay, nàng cầm lấy, che lên mắt và đi vội ra ngoài. Tôi không ngờ nàng quá nhạy cảm và thương tâm như vậy đối với một người bạn mới quen. Tôi an ủi bà mẹ của Châu mấy câu rồi vội vã đi tìm Quỳnh Hoa. Nhìn nàng đứng dựa chiếc cột ngoài hành lang bệnh viện, đôi vai rung lên từng hồi, có lẽ nàng đã quá xúc động. Tôi chẳng biết làm sao để an ủi nàng. Miệng lưỡi cứng đơ, chân tay thừa thãi, tôi lặng lẽ đến bên nàng, mắt tôi cũng bắt đầu nhòa lệ, tôi ôm lấy đôi vai bé bỏng của nàng. Quỳnh Hoa quay mặt lại và úp mặt vào vai tôi khóc nức nở như một đứa con nít. Có lẽ những đau khổ thầm kín lâu nay được dịp tuôn ra theo dòng nước mắt. Tôi để mặc nàng khóc cho vơi mối thương tâm. Một vài người đi ngang dòm chúng tôi với đôi mắt dò hỏi rồi bỏ đi. Chuyện khóc lóc có lẽ quá bình thường ở nhà thương. Một lúc sau nàng im lặng, chỉ còn những tiếng nấc nghẹn ngào. Tôi an ủi nàng:

– Em đừng khóc nữa, anh Châu chắc không đến nỗi nào đâu, mẹ ảnh nói bác sĩ cho hay ảnh đã qua cơn hiểm nghèo rồi chỉ chờ bình phục thôi.

Nàng thì thầm bên tai tôi:

– Em nhớ ba em hồi đó, cũng nằm ở bệnh viện này trong cơn hấp hối, nên em không cầm nổi nước mắt, xin anh tha lỗi cho em.

– Anh xin lỗi em, không ngờ cuộc thăm viếng này đã gợi cho em những đau đớn như vậy.

– Anh đừng nói vậy, anh không có lỗi gì cả, chỉ vì em tủi thân đó thôi.

Khi đã tỉnh trí, nhìn thấy một bên vai áo tôi ướt đẫm nước mắt, có lẽ thấy hơi ngượng ngùng nên Quỳnh Hoa đẩy nhẹ tôi ra và lí nhí mấy lời xin lỗi. Tôi vội dìu nàng ra xe và rủ ra ngoài phố kiếm gì ăn. Tôi dẫn Quỳnh Hoa vào quán như một đôi tình nhân gắn bó bên nhau. Những cặp mắt nhìn soi bói của đám thực khách mà quá nửa là lính tráng khiến nàng bối rối, ngượng ngùng.

Tôi nhìn nàng với đôi mắt nồng nàn, thầm cám ơn Thượng Đế đã cho tôi có dịp làm quen với người con gái dễ thương và thùy mị như vậy.

Sự hiện diện của Quỳnh Hoa trong đời sống cô đơn và đầy hiểm nguy ở nơi tiền đồn bất trắc khiến tôi thấy những gánh nặng trên vai bỗng nhẹ hẳn đi. Quỳnh Hoa là một dòng suối ngọt, một bóng mát, một hy vọng, một nơi yên tĩnh, êm đềm cho linh hồn và thể xác mệt mỏi của tôi trong cuộc chiến tàn nhẫn đầy máu và nước mắt này. Tôi vẫn chưa hiểu tường tận mối đau lòng của nàng khi thăm Châu trong bệnh viện nên muốn tìm hiểu thêm:

– Quỳnh Hoa ở Phú Nhơn lâu chưa?

– Độ gần một năm thôi, em ra trường sư phạm cấp tốc rồi xin đổi về đấy ngay.

– Sao em không xin dạy ở gần nhà có phải tiện hơn không?

– Ngày xưa, ba em làm Quận Trưởng Phú Nhơn. Người đã bỏ cả cuộc đời để xây dựng và cải tiến cái quận đèo heo hút gió này. Thời Đệ Nhất Cộng Hòa, dân chúng từ miền ven biển và từ ngoài Bắc di cư lên đây lập nghiệp rất đông, đã được chính quyền tận tình giúp đỡ. Nhưng rồi trong một cuộc đi thăm đồn điền của một xã phía tây quận lỵ, ba em đã lọt vào ổ phục kích và bị sát hại. Em lớn lên, muốn tiếp nối cái hoài bão của ba em là nâng cao dân trí để họ có thể hiểu được ý nghĩa của sự tự do, dân chủ, công bình và lẽ phải.

Tôi thầm nghĩ những mỹ từ tự do, dân chủ thật quá mơ hồ đối với những người lính tác chiến, với đám dân quê nghèo thất học ở đây. Gia đình, vợ con, miếng cơm manh áo, mạng sống có lẽ gần gũi hơn. Tôi thấy vừa kính nể vừa thương hại người con gái mới lớn mang trong lòng một hoài bão quá lý tưởng, quá to lớn.

Sau nhiều lần đi thăm Châu, chúng tôi thấy gần gũi nhau hơn. Tôi tìm thấy ở nàng một niềm vui, một ước mơ, một mái ấm gia đình cho tương lai. Vùng đất hoang vu này trở nên tươi mát đáng yêu bởi vì chỗ nào cũng thấy đoá hoa quỳnh nở rộn ràng.

Chúng tôi đã yêu nhau, có núi rừng và con sông nhỏ chảy qua quận lỵ làm chứng. Con sông thật hiền hoà và dễ thương như người tôi yêu. Bên bờ sông những hàng cây phượng vĩ nở đỏ rực mỗi mùa hè. Mùa mưa nước phù sa đỏ ửng từ trên ngàn chảy cuồn cuộn xuống ngập gần hết cây cầu sắt nhỏ bắc qua sông. Cây cầu nhỏ sơ sài có vài nhịp, bề ngang chỉ đủ cho một chiếc xe đò qua lại. Mùa nắng, nước cạn trơ những bãi cát trắng tinh. Người ta đào cát thành những vũng nước trong, gánh về để uống. Giữa lòng sông nước trong vắt chảy lững lờ, nhìn thấy cát và sỏi tận dưới đáy. Mấy chàng pháo thủ thường ra tắm sông để được chiêm ngưỡng những nàng thôn nữ cao nguyên ngực no tròn và tự nhiên một cách vô tư.

Tôi yêu núi rừng cao nguyên, mỗi buổi sáng thức dậy đứng trên đồi nhìn chung quanh chỉ thấy một màu xanh thẫm, mênh mông như biển cả. Tôi yêu con sông bé nhỏ, tôi yêu cây cầu sắt cũ kỹ đưa người qua sông, tôi yêu hàng phượng vĩ học trò, tôi yêu sân trường tiểu học Phú Nhơn, tôi yêu con đường nhựa bé bỏng chạy qua quận lỵ và băng qua núi rừng cao nguyên. Tôi yêu và yêu rất nhiều, bởi vì ở đâu cũng thấy hình bóng của nàng.

Tôi yêu vô cùng những buổi chiều hai đứa dẫn nhau ra bờ sông, lang thang dưới những hàng cây xanh um, hoặc ngồi trên thành cầu nhìn dòng nước hững hờ trôi. Nàng ngồi bên tôi, đong đưa hai bàn chân trắng muốt, cười nói vô tư như một thiên thần. Trời đất, vũ trụ, thời gian như ngừng hẳn, ôi đẹp đẽ và thanh bình đất nước tôi!

Ở đó, bấy giờ, không nghe tiếng súng nổ, không nghe tiếng gầm gừ của máy bay phản lực, không gian hoàn toàn yên tĩnh.

Chúng tôi đã dệt những giấc mộng tương lai đơn sơ và êm đềm.

– Quỳnh Hoa ơi, mai này chiến tranh chấm dứt, anh sẽ cất một căn nhà bên bờ sông này, em sẽ tiếp tục dạy học, còn anh sẽ biến vùng đất màu mỡ này thành một đồn điền trù phú, em có chịu không?

– Anh trồng cho em một vườn trái cây mít, ổi, xoài, đu đủ, mảng cầu nghe anh.

– Ừ, anh sẽ trồng bất cứ cây gì em muốn.

– Anh hứa thương em và chiều chuộng em như ngày xưa ba yêu thương và chiều chuộng em nghe.

– Anh hứa.

– Anh đừng bỏ em, như ba đã bỏ em một mình, em sợ lắm.

– Không, anh sẽ không bỏ em một mình.

– Nghe anh nói thơ mộng và sung sướng qúa, cám ơn Trời Phật đã cho em gặp anh. Có lẽ ba đã run rủi cho chúng mình gặp nhau. Lập ơi, em thương anh lắm, anh biết không?

– Sao em thương anh nhiều dữ vậy?

– Không biết nữa, có lẽ em thấy anh giống ba em. Anh chiều chuộng em, anh là người lớn, bao dung, đại lượng, biết rộng, hiểu nhiều. Anh biết không, hôm em gặp anh đi hành quân, em thấy anh oai hùng quá, giống như ba em ngày xưa. Mấy ông lính thương anh lắm phải không?

– Không, mấy ông ấy ghét anh lắm.

– Cái mặt xạo, ai mà ghét anh. Anh nhiều đào lắm phải không? nói cho em nghe đi.

– Có mình em thương anh thôi, thiệt đó.

Tôi ngồi bên nàng, uống từng giọt tình yêu ngọt ngào, nghe trái tìm mình đập từng điệu nhạc run rẩy trên lối vào thiên đường chỉ có hai đứa chúng tôi. Nàng đã dạy cho tôi biết mơ mộng, thấy đời đáng yêu hơn, những thứ đó tôi đã đánh mất từ khi mới lớn, từ khi bước chân vào quân ngũ, tôi vẫn nghĩ tuổi trẻ của tôi đang đi vào ngõ cụt với những giấc mơ hãi hùng. Đời tôi thật trống rỗng nếu không có nàng. Tôi thấy yêu thương nàng quá đỗi. Quỳnh Hoa vẫn còn vẽ những giấc mơ của nàng nhưng tôi không còn nghe gì cả, chỉ thấy cánh môi hồng mấp máy, hơi thở thơm tho mùi mía lùi phà trên mặt tôi. Bất chợt, tôi ôm và hôn nàng say đắm, người nóng bừng như có dòng điện chạy ào ạt từ tim lên đầu. Nàng đẩy nhẹ tôi ra:

– Coi kìa, người ta cười mình đó.

– Ai mà dám cười mình.

Nàng đánh trống lảng, bâng quơ hỏi tôi:

– Anh ơi, cây cầu này có tên không anh.

– Anh cũng chẳng biết nữa, hay là mình đặt cho nó một cái tên làm kỷ niệm nghe.

– Em cho anh đặt đó.

– Ừ, hay là mình gọi là Cây Cầu Biên Giới nghe em.

– Cái tên nghe cũng hay đấy, nhưng mà nghe có vẻ chia ly quá. Giống như trong bài “Chiều Mưa Biên Giới” của Nguyễn Văn Đông vậy.

Tôi phì cười:

– Mới thương nhau mà em đã nghĩ đến chuyện chia ly rồi.

– Nhưng mà em sợ lắm, thời buổi chiến tranh… Lỡ mai này, anh bỏ em ở đây một mình, em buồn lắm đó.

– Không, anh sẽ không bỏ em một mình, anh sẽ xin với mẹ để cưới em, chúng ta sẽ mãi mãi bên nhau.

Nàng reo lên sung sướng như một đứa con nít, mắt sáng ngời những tia hy vọng, rồi ôm lấy tôi. Ôi mùi thơm ngọt ngào, tôi làm bộ đẩy nhẹ nàng ra:

– Coi chừng người ta thấy, họ cười mình đó.

– Ai cười hở mười cái răng!

Thật không ngờ, nơi rừng rú hoang vu nguy hiểm này ai nghe đến cũng rợn tóc gáy. Bạn bè, người thân, lâu không gặp nhau, hỏi tôi bây giờ ở đâu, tôi trả lời ở quận Phú Nhơn tỉnh Cheo Reo, ai cũng lè lưỡi chọc tôi bộ hết đất rồi sao lên miền Thượng ở vậy, tôi chỉ cười khì. Bây giờ tôi đã có lý do để trả lời họ…bởi vì tôi mê hoa quỳnh, thế thôi.

– Anh làm gì ngồi thừ ra thế, hãy nói tiếp về tương lai của chúng mình cho em nghe đi.

– Anh đang sung sướng quá nên làm một bài thơ kỷ niệm.

– Ồ, anh biết làm thơ nữa sao? Hãy đọc em nghe đi, em sẽ thưởng cho anh.

– Ừ, anh đọc thơ con cóc, em đừng cười nghe. Em biết thơ con cóc không? Con cóc trong hang, con cóc nhảy ra.

Nàng đọc tiếp:

– Con cóc ngồi đó, con cóc nhảy đi… với anh !!! Em thích thơ con cóc lắm. Em sẽ làm con cóc như trong chuyện cổ tích gì đó, anh học trò có người vợ cóc xấu xí, đêm đêm hiện nguyên hình là một nàng tiên săn sóc cho chồng. Ban ngày là một con cóc lẽo đẽo theo chồng.

– Nếu em là một nàng Tiên cóc, anh sẽ bỏ em vào ba lô mang theo khi đi hành quân để lúc nào em cũng ở bên anh.

– Anh phải đọc thơ cóc cho em nghe. Ơ, nếu vậy mấy ông lính sẽ gọi anh là người điên đó.

– Điên vì em, thì anh cũng chịu.

Nàng bá cổ tôi nũng nịu:

– Thôi đừng đánh trống lảng, đọc thơ con cóc cho em nghe đi anh.

– Ừ, anh đọc nghe, cấm cười đó, đứa nào cười anh khóa miệng lại cho mà coi.

Chiều về thấp thoáng bên sông,

Thấy Quỳnh thơm ngát thấy lòng xôn xao.

Nàng cười rũ rượi, hai tay đánh liên hồi vào vai tôi. Một ngày như mọi ngày trôi qua, trong thung lũng tình yêu, bên cây cầu biên giới, nỗi chết đã chịu tạm rút lui, để nhường chỗ cho tình yêu hoa bướm ngọt ngào. Tôi lấy con dao găm đeo bên mình khắc câu thơ trên thành cầu sắt để đánh dấu một chặng đường yêu đương…

*

– Anh muốn vào chợ hay đến nhà ai ở quận Phú Nhơn?

Tiếng người tài xế kéo tôi về thực tại. Giấc mơ thật ngắn ngủi, như cuộc tình của chúng tôi.

– Anh cho tôi lại trường tiểu học.

Quang cảnh không thay đổi mấy, thời gian như ngừng trôi ở quận lỵ nhỏ bé này. Ngôi trường còn nguyên đó, phố chợ đìu hiu y như xưa, hàng rào kẽm gai chung quanh doanh trại nơi tôi đóng quân vẫn hiện hữu, nhưng chẳng ai biết đến một người con gái đẹp như hoa quỳnh đã từng in dấu chân nơi chốn này. Hình ảnh ngày xưa vẫn còn đủ chỉ thiếu một người. Tôi hối người tài xế chạy ra phía cây cầu.

Chiếc cầu sắt nhỏ bé đầy dấu kỷ niệm, tôi như trong giấc mơ, chàng Tú Uyên ngày xưa khi tỉnh giấc không thấy người đẹp trong tranh đâu nữa, chắc cũng ngỡ ngàng như tôi hôm nay thôi. Tôi bước lên cầu, ngồi đúng vào chỗ ngày xưa chúng tôi đã từng có một thời mơ mộng. Tôi ngồi bệt xuống, hai chân đong đưa, mắt nhìn xa xăm trên những ngọn phượng vĩ bên sông, cố tìm chút nắng vàng ngày xưa của một buổi chiều tà. Tìm mãi cũng chẳng thấy đâu, không có một dấu tích gì của nàng.

Nơi thành cầu này, tôi đã hôn những nụ hôn đầu tiên trong đời, vẽ những giấc mơ đầu tiên trong đời và làm những bài thơ con cóc đầu tiên trong đời. Đúng là cây cầu chia ly như nàng đã nói. Bây giờ nàng ở đâu, hay đã bỏ xác trên tỉnh lộ số 7 trên đường di tản về Tuy Hoà. Ồ phải rồi, tôi phải tìm lại bài thơ con cóc, có lẽ đó là kỷ niệm duy nhất còn lại của tôi với nàng. Tôi dò từng tấc sắt trên thành cầu, bài thơ còn đó nhưng đã dài thêm hai câu:

Chiều về chiều vẫn một mình,
Trách người năm cũ bỏ tình bơ vơ.

Tôi bay về Hoa Kỳ lòng buồn miên man, bao nhiêu háo hức của ngày trở lại Việt Nam đã tiêu tan đâu mất chỉ còn lại sự mệt mỏi và chán chường.

Tôi đã đi mọi nơi, để tìm tung tích của Quỳnh Hoa nhưng cũng không có tin tức gì. Ngày ấy nếu tôi không bị kẹt ngoài Huế, chắc chúng tôi đã chết bên nhau hay cùng nhau lênh đênh trên con tàu vượt biển. Thời gian thấm thoát trôi mau, mỗi lần đi đâu, thấy bóng dáng mái tóc thề và chiếc áo dài trắng lòng tôi lại xôn xao như ngày nào bên chiếc Cầu Biên Giới.

Lê Nguyên Hằng & Nguyễn Thạch Hãn
Ai đang xem chủ đề này?
Guest
Di chuyển  
Bạn không thể tạo chủ đề mới trong diễn đàn này.
Bạn không thể trả lời chủ đề trong diễn đàn này.
Bạn không thể xóa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể sửa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể tạo bình chọn trong diễn đàn này.
Bạn không thể bỏ phiếu bình chọn trong diễn đàn này.

Powered by YAF.NET | YAF.NET © 2003-2024, Yet Another Forum.NET
Thời gian xử lý trang này hết 0.492 giây.