Nhọc nhằn đường thăm nuôi!
Sợ chồng con mình kiệt lực trong nhà tù vì thiếu ăn, các bà mẹ và vợ của các tù nhân ở nhà dù cơ cực đến mấy cũng tiết kiệm từng đồng tiền, từng hạt gạo, đếm từng ngày mong kỳ thăm nuôi mau tới, tiếp tế lương thực cho chồng con và nhìn tận mặt người thân.
Phần tôi và các con tôi, ngay sau đợt thăm nuôi trước đã lo tới chuyến thăm nuôi sau. Mẹ con cùng ráng nhịn bớt phần ăn mỗi bữa của mình, dành dụm tiền để mua sắm đồ thăm nuôi tiếp tế cho chồng-cha. Ngày này sang ngày khác, tháng này sang tháng nọ, mẹ con tôi cứ liên tục cơm độn, rau luộc chấm mắm, chẳng dám đụng tới miếng thịt hay lát cá.
Thấm thía lắm câu nói: “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. Tôi chỉ tâm niệm một điều là đừng vì ngại núi e sông mà bỏ bê chồng, sợ khi chồng mình đã đi vào cõi âm ti mới hối tiếc thì sự đã muộn. Không phải chỉ vài ngày, vài tháng, nhưng là năm này sang năm khác, “mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua”, miễn sao trong chốn lao tù chồng mình không phải đói khổ nhọc nhằn, cạn mòn sức lực, trở nên thân tàn ma dại hay chết bụi chết rừng.
Phương tiện giúp đưa chúng tôi đi gặp chồng sau mỗi hai tháng thường thường là chiếc xe chở gỗ súc cũ kỹ cà rịch cà tang. Nó đã lỗi thời và lẽ ra đã vất vào đống sắt phế liệu nếu không có ngày 30/4/1975. Máy nổ của chiếc xe cổ lỗ ấy phát ra tiếng ầm ĩ đinh tai điếc óc như động cơ máy bay phản lực chiến đấu gầm thét.
Khi xe lăn bánh, người ngồi trên xe có cảm tưởng như bộ bánh của chiếc xe chực văng ra khỏi xe. Chiếc xe bò lê nặng nề, lắc lư chậm chạp băng qua những chặng đường đồi dốc gập ghềnh hoặc hì hục khổ sở lội qua các khe suối hiểm trở. Lúc leo đèo hay lao đầu xuống triền đồi, chiếc xe trườn tới rồi giật lui như muốn trút ào mọi người xuống hố sâu, thỉnh thoảng bất ngờ tăng ga rồi đột ngột kẹt thắng, khựng lại, rung lắc mạnh hơn.
“Khách” trên xe ngả nghiêng ngã ngửa trong thùng xe, níu kéo nhau kêu la thất thanh! Tội nghiệp đám con nít đi theo bà, theo mẹ để gặp mặt cha! Chúng sợ hãi kêu khóc inh ỏi thật đáng thương. Ba đứa con dại của tôi lần đi thăm nào cũng khốn đốn như vậy, song mỗi khi tới kỳ đi thăm nuôi… chúng vẫn một mực đòi đi gặp mặt cha cho được.
Một hôm, chiếc xe chở khoảng vài chục đàn bà chúng tôi cùng một số trẻ con đi thăm nuôi ngồi chen nhau như nêm giữa đủ thứ “hàng thăm nuôi” lổn ngổn. Xe bò lê lên một sườn đồi bỗng đứt thắng tuột dốc. Ai nấy trên xe hồn xiêu phách lạc, ơi ới kêu Chúa, kêu Phật. Đám trẻ con hốt hoảng la khóc thất thanh. Nhưng may mắn chiếc xe đang đà chạy thụt lui thì đụng vào thành núi đất bên đường thay vì đổ nhào xuống hố. Tỉnh hồn, mới hay mình còn sống!
Sau cơn ác mộng tai nạn xe chở gỗ súc dùng làm xe chở khách thăm nuôi, tôi không dám đi loại xe ấy nữa. Mỗi lần đi thăm chồng, tôi thuê xe đạp thồ chở tôi và các con tôi cùng các thứ thức ăn nuôi chồng theo định kỳ hai tháng một lần. Đi xe đạp thồ vất vả gấp trăm lần đi xe chở súc, nhưng yên ổn cho con nít hơn. Vào thời gian này, các loại xe bốn bánh - kể cả mấy chiếc xe lẽ ra đã phế thải từ lâu như xe chở gỗ súc cũ kỹ trên, đều bị trưng thu. Còn các loại xe máy nổ hai bánh của người dân Miền Nam dần dần cũng biến mất vì dân chúng Miền Nam không được cấp phiếu mua xăng, không được phép đăng bộ xe gắn máy… Họ đành bán đổ bán tháo xe mình cho cán bộ CS miền Bắc.
Đi xe đạp thồ lên đồi xuống dốc, vượt suối, lội sông vất vả lắm, nhưng tôi không nản chí!
Tại khu thăm nuôi trại, một chiếc bàn dài rộng ngăn cách vợ chồng chúng tôi, kẻ bên này, người bên kia chiếc bàn, chúng tôi gọi là” bên này sông, bên kia sông”, chỉ nhìn thấy mặt nhau và nhanh chóng trao gửi cho nhau đôi lời cần nói trong vòng 5 phút! Các con tôi đứng bên tôi, nhìn cha chúng nó chờ người cha ôm hôn, nhưng người cha chỉ rưng rưng nước nhìn con bởi đã có lệnh cấm “quan hệ tình cảm linh tinh”…
Bao lần đi “thăm nuôi” chồng, tôi nghe mãi lời mắng mỏ của cai tù: “Cách mạng đâu có bỏ đói chồng con các người!” Không bỏ đói? Tại sao lại có chuyện “thăm-nuôi”! Không đói, chỉ cần thăm, sao cần nuôi? Không bỏ đói, nhưng người tù nào không được người nhà “thăm nuôi” đều trở thành thứ “con bà phước” sống nhờ vào tình thương của những bạn tù được thăm nuôi hoặc phải tìm cách “cải thiện” từ cọng rau, cọng cỏ, củ khoai, củ mì, con chuột, con rắn!
Cải thiện là cái chi chi?
Lần nào đi thăm nuôi chồng, tôi cũng nghe các bà, các chị kháo nhau về chuyện người tù “cải thiện” mưu sinh. Tôi không hiểu người tù “cải thiện” làm sao, mưu sinh cách nào trong khi hết thảy người dân Miền Nam đang đói meo, dở sống dở chết ngoài xã hội. Người dân ngoài đời còn chưa kiếm được thứ gì ở bất cứ đâu để mà mưu sinh, thì những người bị đọa đày trong lao tù CS lấy gì và bằng cách nào mà cải thiện, mưu sinh?
Xưa nay ở Miền Nam Việt Nam dân đồng ruộng có bao giờ thiếu gạo ăn, kể cả những khi hạn hán kéo dài hay bão lụt nặng nề gây mất mùa trầm trọng. Vậy mà bây giờ chính bản thân người nông dân là kẻ làm ra lúa gạo lại phải chảy nước mắt nhai cơm độn khoai mì, khoai lang, bo bo, bữa no, bữa đói, đói nhiều hơn no, huống hồ là người tù chính trị.
Thế nhưng có phải vì bản năng sinh tồn, người tù vẫn có cách của họ để “cải thiện” mưu sinh dù bị kiểm soát nghiêm nhặt và có thể phải nhận những trận đòn trừng phạt man rợ chỉ vì “cải thiện”?
Dưới chế độ Cộng sản, từ ngữ “cải thiện” mất đi cái nghĩa “sửa đổi cho tốt hơn” về mặt tinh thần như dân Miền Nam từng hiểu. "Cải thiện" bây giờ mang một ý nghĩa hoàn toàn vật chất, xấu nhiều hơn tốt. Khi người cộng sản nói “cải thiện” có nghĩa là làm một cái gì đó bất luận lương thiện hay bất lương để bù vào cái mà Nhà nước cấm cách hay đã “quy hoạch vào diện quốc doanh”.
Phải “cải thiện” mới có thêm cái ăn, cái mặc, cái tiêu dùng hằng ngày mà chế độ không "phân phối" đủ, hay phân phối không đồng đều, không đến nơi đến chốn do phân biệt đối xử căn cứ vào thứ tự cấp loại ưu tiên của sổ lương thực, phiếu mua hàng. Nhiều người dân, nhất là đám tiện dân bị liệt vào thành phần “ngụy” hầu như chẳng mấy khi có được cái cơ may mua một món hàng cho ra hàng theo chế độ phân phối. Họ bắt buộc phải “cải thiện” thôi!
Sự cải thiện của họ rất thực tế và ngay lành: “cải thiện” một con cá dưới sông, dưới biển, hay gieo trồng một luống rau… vậy mà vẫn không yên. Hết du kích xã tới quản lý thị trường, rồi thuế vụ, công an luôn rình rập, bắt bớ, kết tội “xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa” hay tội “phá hoại kinh tế quốc doanh”. Ghê gớm chưa? Trong khi đó, cán bộ đảng, cán bộ nhà nước ngang nhiên khai thác tối đa cái quyền “cải thiện” bằng những hành vi cắt xén, trộm cắp đầy gian trá. Chẳng những không bị trừng phạt, họ còn được thăng quan tiến chức vun vút và được báo đài tôn vinh chúc tụng “người tốt việc tốt”.
Khi cán bộ cải thiện
Không ít cán bộ tranh nhau mang heo, gà vào nuôi trong trường học, bệnh viện rồi đưa cả phân người, phân gia súc vào những nơi đó làm phân bón cho rau cải họ trồng, làm mất vệ sinh môi trường, thế nhưng họ lại hãnh diện rằng là cải thiện chính đáng. Cân bán một con heo nái, phân đôi cân lượng, ghi vào chứng từ mua bán là 2 con heo thịt! Giá heo hơi thịt cao gấp đôi gấp ba giá heo hơi nái. Gian lận “đội giá” kiểu đó, họ cũng bảo là “cải thiện”. Cắt xén lượng hàng hay mặt hàng trong các cửa hàng quốc doanh, cải thiện đấy. Đánh tráo cân lượng lúa gạo và hàng hóa các loại để ăn gian ăn bớt của dân nghèo: cải thiện. Ăn cắp công quỹ hay công sản quốc gia: cải thiện…
Đó là chưa kể tới vô số gia đình cán bộ đảng viên CS các cấp thừa thắng xông lên sau 30/4/1975 từ Miền Bắc tràn vào Miền Nam mà người ta gọi là cuộc di dân lấn chiếm nhà cửa đất đai vĩ đại nhất trong lịch sử Việt Nam. Cướp của, đoạt nhà, chia nhau của cướp dưới danh nghĩa “phân phối”. Có được nhà, dọn vào ở, mọi thứ trang trí hay trang bị đắt tiền của chủ cũ đều bị vơ vét mang đi bán chợ trời, biến cái cơ ngơi đầy tiện nghi của người ta thành nhà không vườn trống khoác chiếc áo bần cùng “chuyên chính vô sản”, bên trong đủ thứ kiểu “cải thiện” quái gở: Heo, gà, vịt ung dung chung sống với người. Phân người, phân gia súc được tích trữ để “cải thiện” mấy đám rau xanh gieo trồng bừa bãi khắp sân trước sân sau nhà và cả nơi sân thượng của những nhà cao cửa rộng cướp đoạt. Phố thị Miền Nam chẳng những mất đi hoàn toàn cái vẻ mỹ quan quen thuộc trước đây mà còn liên tục xông ra mùi xú khí gây ô nhiễm cho cuộc sống con người.
Người tù cải thiện
Người tù đi làm khổ sai vất vả, đói khát. Cái “cải thiện” của người tù có thể đơn giản là lén lấy lại chút mồ hôi nước mắt mình làm ra như củ khoai mì, khoai lang, cây mía, trái bắp, trái ớt, cọng rau chẳng ra gì. Nhưng thật vô phúc cho người tù nào bị cai tù bắt được đang “cải thiện”, dù món cải thiện chẳng đáng ba xu ba hào. Bọn cai tù trừng phạt người “vi phạm” bằng những nhục hình rất dã man, trong khi những món mà người tù “cải thiện” chưa chắc đã bù đắp được một phần nhỏ công lao khó nhọc mồ hôi, nước mắt và cả máu họ đã đổ ra để làm nên những sản phẩm ấy.
Trong nhà tù cộng sản, khi đi lao động, tù nhân lén kiếm ít rau trái trong rừng, câu lén một vài con cá dọc bờ sông hay mương lạch chẳng qua cũng chỉ là những cải thiện lặt vặt, thứ cải thiện lương thiện hơn gấp bội so với các loại “cải thiện” ăn cắp, cướp giật bất lương của bọn cán bộ đảng viên cộng sản. Thế nhưng những việc cái thiện chơn chất ấy của người tù thì lại bị bọn cai tù nhiếc mắng “cải tạo linh tinh” và từ đó người tù lại bị gán ghép hết tội này tới tội khác, toàn là những thứ tội trời ơi đất hỡi để cuối cùng thành tội “chống cải tạo”!
Gia súc gia cầm trong trại do người tù chăn nuôi, bọn cai tù đều xí phần, coi là của riêng, liên tục giết gà, giết vịt, mổ heo, một phần dùng để chè chén với nhau, còn lại phần lớn thì mang đi bán chợ đen, thu tiền chia nhau bỏ túi. Họa hoằn một hai lần một năm lễ lạt, bọn cai tù cho tù nhân nếm một miếng thịt heo nhỏ bằng đầu ngón chân cái thì lại kể ơn kể nghĩa “đảng quan tâm, chiếu cố”.
Đến khi gia súc gia cầm bị dịch bệnh, bọn cai tù lại đẩy cho nhà bếp trại giam những con vật sắp chết, đang giãy chết hay vừa lăn ra chết, bắt phải nấu cho tù nhân trong trại ăn. Và người tù phụ trách bếp ăn phải ký nhận vào ghi sổ mua hàng nhìn nhận đó là những “thịt tươi sống” mua từ thị trường ngoài xã hội. Cai tù “cải thiện” như vậy đó, cải thiện trên xác chết người tù!
Mới hay chữ nghĩa của CSVN vừa thâm vừa độc. Cải thiện không còn cái ý nghĩa cải sửa cái xấu, làm cho kẻ gian ác thành người thiện hảo. Ngược lại, nó tạo điều kiện cho kẻ ác càng thêm gian ác!
Những tờ chứng tử đểu cáng
Một câu chuyện mà người tù cải tạo đã kể lại cho thân nhân mình, ai nghe chắc cũng động lòng thương kẻ xấu số và căm thù bọn người lòng lang dạ thú: Có người tù kia vì đói quá khi đi lao động đã “cải thiện” vài củ khoai mì thì bị bắt gặp. Bọn cai tù bắt người tù ấy quỳ mọp giữa sân dưới nắng hè, giang hai tay ra, lòng bàn tay để ngửa, hai cục đá nặng đặt vào lòng hai bàn tay người tù ấy. Người tù mỏi quá chịu không thấu, nhiều lần buông hòn đá ra, bọn cảnh vệ đến đánh đấm túi bụi, rồi cuối cùng dùng chiêu ác độc khác phạt người tù.
Một tên cảnh vệ lấy hai củ mì sống nhay vào mồm anh tù, bắt anh phải nhai sống cho hết, trong khi anh tù không được buông tay đánh rơi hai hòn đá. Khoai mì này là loại khoai mì Ấn Độ, chỉ dùng trong chế biến công nghiệp, trâu bò ăn vào còn ngộ độc nằm lăn ra mà chết, huống chi con người.
Anh tù thọ phạt nhai chưa hết củ mì đã ngã vật xuống đất sùi bọt mép bất tỉnh. Bọn cảnh vệ kéo anh dậy không phải để giải thoát anh mà lôi anh xành xạch, tống vào biệt giam. Vài ngày sau, có tin nạn nhân đã chết, cai tù bí mật sai tù hình sự khiêng xác anh đi chôn trong rừng. Gia đình nạn nhân không hề biết người thân của mình đã ra người thiên cổ.
Một tuần lễ sau, cai tù gọi bác sĩ tù nhân phụ trách trạm xá lập “vi bằng chứng tử.” Vị bác sĩ nói người chết đã chôn, làm sao chứng tử được? Cai tù nói: “bảo viết, anh cứ viết, không lôi thôi gì cả!” Bác sĩ tù nhân viết xuống dòng chữ: "chết vì kiệt sức"; ông cho rằng cách chứng nhận ỡm ờ đó vừa được lòng cai tù mà không hại người bị nạn, lại không phạm tới đạo đức nghề nghiệp. Nhưng tên trưởng cai tù xé toạc tờ chứng tử, quát mắng vị bác sĩ tù nhân, bắt ông viết lại tờ chứng tử: "Chết vì sốt rét ác tính."
Thời kỳ sau 1975, con muỗi anophen tái xuất khắp Miền Nam Việt Nam. Vi trùng sốt rét hoành hành trong khi các bệnh viện trong khu vực đều thiếu thuốc trị bệnh sốt rét rừng khiến nhiều nạn nhân chết chỉ vì sốt rét. Mà hễ chết vì sốt rét thì đương nhiên là do “sốt rét ác tính,” một phương thức “hóa giải” gọn nhất, ổn nhất để che đậy tội ác sát nhân của bọn cai tù.
Một cựu giáo sư Đại học Khoa học tại Sài Gòn bị bắt về tội vượt biên. Ông Giáo sư ở tù xa nhà, không ai thăm nuôi, nhưng quyết giữ phẩm chất một nhà giáo VNCH, không cậy dựa vào người khác. Ông luôn tự cảnh giác: “Miếng ăn là miếng tồi tàn”! Ngày này sang ngày khác ông chỉ biết cơm độn, muối hầm và “canh toàn quốc” (canh toàn là nước) do trại cung cấp. Ông trụ được hơn một năm thì kiệt sức. Cai tù bảo ông giả bệnh trốn lao động, tống ông vào biệt giam, ăn cháo lỏng. Ông chết! Bác sĩ tù nhân được gọi đến lập chứng tử. Vị bác sĩ viết: “Chết vì suy dinh dưỡng”. Cai tù ra lệnh viết lại: "Chết vì sốt rét ác tính."
Nhắc lại chuyện người tù lăn chết vì một củ mì, tôi không thể quên chuyện cái cùm trong trại tù CS mà bất cứ người cựu tù nào cũng rùng mình khi nhớ tới, nhắc lại.
Thời chế độ thực dân Pháp, người dân Việt Nam khốn khổ không ít với mấy chiếc cùm gỗ. Cùm thực dân làm bằng hai mảnh gỗ, mỗi mảnh được đục khuyết hình nửa vành trăng cách khoảng nhau chừng mười phân. Cái bán nguyệt mỗi mảnh ghép lại thành vòng tròn. Phạm nhân ngồi bệt xuống tra chân vào vòng tròn này.
CSVN thì “tinh vi” và “khoa học” hơn thực dân Pháp về phương pháp áp dụng nhục hình độc ác cho kẻ thù. Thay vì cùm gỗ, họ cho thợ rèn rèn những khoen sắt, luồng hàng chục cái khoen sắt ấy vào một thanh sắt dài gọi là “cây thông nòng”. Cây thông nòng đâm xuyên từ vách này sang vách khác của dãy biệt giam dài hàng chục phòng. Chân tù nhân bị tra vào các khoen sắt vừa bằng cổ chân, tội nhẹ thì cùm một chân, tội nặng thì cùm cả hai chân. Một lời nói bâng quơ bị diễn dịch thành ý đồ chống phá: Cùm. “Cải thiện linh tinh”: Cùm. Gì cũng có thể tra chân vào cùm. Khi bị cho là ngoan cố, nạn nhân bị cùm chéo hai chân! Chân cùm trong khoen sắt rèn, nhất cử nhất động cọ xát, đau đớn dường nào. Những người tù bị cùm khi được thả về phần lớn mang thương tật đến cuối đời. Có người về mắc chứng hoại tử cả hai chân, rồi chết thảm.
Chết trên đường thăm nuôi
Một người bạn của tôi tên DTM đi thăm nuôi chồng. Tuy trèo đèo vượt suối khốn khổ trăm bề, song giống như nhiều bà mẹ và vợ tù khác, không kỳ thăm nuôi nào chị M không đem theo ba đứa con mọn của chị để chúng gặp mặt cha.
Một sự rủi ro trở thành tấn thảm kịch đau thương cho gia đình chị M: Trên đường trở về sau chuyến thăm nuôi, chiếc xe tải chở người đi thăm nuôi bị tụt dốc, lăn kềnh xuống dốc Đèo Cả (ranh giới Phú Yên-Khánh Hòa). Cậu con trai đầu của chị tử thương, nó mới 5-6 tuổi! Chị và hai đứa con khác may mắn thoát chết, nhưng đều mang thương tích. Chồng chị ở trong tù chỉ nghe kể lại loáng thoáng về cái chết của con mình cho tới ngày anh về nhà mới hay biết mọi sự!
Một thiếu phụ khác tại một tỉnh ở Miền Nam có chồng bị đưa đi “cải tạo” tận miền Bắc. Vì sa cơ thất thế và lâm cảnh nghèo túng sau 30/4/1975 đổi đời, người phụ nữ đáng thương ấy hiếm khi đi thăm nuôi chồng.
Một hôm, được tin chồng bị bệnh nặng, thập tử nhất sinh, chị quyết đi, hy vọng gặp mặt chồng để nói lên lời chào biệt lần cuối hay ít ra khích lệ tinh thần chồng mình. Chị ráng tiết kiệm, dành dụm tiền để mua quà và thuốc trị bệnh cho chồng. Nhưng sau khi mua sắm đồ thăm nuôi, chị không còn tiền để đáp xe từ Nam ra Bắc hàng ngàn cây số. Thời kỳ đó, xe khách Bắc-Nam lại hiếm hoi, giá chợ đen rất cao. Được bạn bè mách nước, một hôm chị mon men ra quốc lộ đón xe bộ đội, năn nỉ chú bộ đội lái xe cho quá giang, dĩ nhiên dúi vào tay chú lái xe ít tiền “cà phê cà pháo.” Chuyện “đi nhờ” xe bộ đội với tiền trà nước song phẳng là chuyện thường ngày ở Miền Nam VN sau 30/4/1975. Hàng lậu, hàng cấm gì cũng “an toàn trên xa lộ” tùy theo giá cả trà nước.
Vừa chạy ra khỏi thành phố Nha Trang độ chừng vài chục kilômét, chiếc xe bộ đội bỗng loạng choạng rồi đổ nhào, có lẽ do tài xế ngủ gục, bạt tay lái. Chị chết tại chỗ, có lẽ do chấn thương sọ não. Bộ đội lục túi chị, thấy giấy tờ chứng nhận chị đi thăm chồng - “sĩ quan ngụy đang cải tạo”, sợ liên quan phản động, mấy chú bộ đội lấp vội xác chị ở bìa rừng, xa chỗ xe bị tai nạn nhằm phi tang dấu vết, rồi lên xe nhà binh khác trốn mất dạng!
Mấy hôm sau người dân lao động gần đó phát hiện tử thi người thiếu phụ xấu số sình lên bốc mùi thúi. Dân chúng góp tay mua quan tài chôn cất chị. Họ cắm một khúc cây để làm dấu. Dường như có người biết cái chết ấy do xe bộ đội gây ra rồi vất bỏ, nhưng thời buổi ấy đâu ai dám hé môi tố cáo tội ác của người CS. Ách giữa đàng quàng vào cổ, nguy lắm!
Chồng của người đàn bà xấu số không hay biết gì về tai họa xảy ra cho vợ mình. Ra khỏi tù, trở về nhà với thân tàn ma dại, anh đi tìm kiếm…, nghi vợ mình “sang ngang”. Về sau có người mách cho anh biết, anh đến tận nơi đào hài cốt thì mới vỡ lẽ!
Chưa tốt chưa về!
Mỗi lần đi thăm nuôi để thấy mặt chồng, tôi cảm nhận một chút an ủi xoa dịu con tim đau nhói của mình. Nhưng lần nào cũng vậy, nhìn thấy chồng trong thân phận lao tù, tôi không thể không bật khóc.
Chính sách của chế độ CS ngày nào cũng lặp đi lặp lại trên các loa phóng thanh: "Ngụy quân, ngụy quyền tập trung cải tạo ba tháng.” Nhưng thời gian tù tội và lao động khổ sai của quân-cán-chính VNCH đã nhân lên tới gấp hai, gấp ba, gấp bốn, hay gấp hàng chục lần cái mức ba tháng, vẫn chẳng mấy ai được về! Sau nhiều lời giải thích ngụy biện dối trá lố bịch khoái chấp nhận, đám quan chức Cộng sản tự bào chữa trâng tráo:
- Cải tạo chưa tốt, chưa về.
Hoặc:
- Các bà mẹ, các bà vợ chưa chấp hành tốt đường lối chính sách ở địa phương, "nhân dân chưa cho chồng-con các người về”!
“Nhân dân” nào ác ôn và ngu xuẩn đến độ đè đầu bóp cổ chính mình? Chỉ có Đảng Cộng sản gian manh và hiểm độc mới “gắp lửa bỏ vào tay nhân dân” vậy thôi!
Cuối Tháng Tư 2015
Nguyễn Thị Ngọc
_______________
Chú thích:
(1) Đó là tiêu chuẩn khẩu phần bình thường. Chỉ những tù nhân đi đốn cây gỗ quý trong rừng mới được tiêu chuẩn việc nặng 21 kg/tháng. Những tù nhân không lao động (do đau bệnh chẳng hạn), tiêu chuẩn 13kg/tháng. Tù nhân trong biệt giam chỉ 9kg/tháng, gọi là tiêu chuẩn cháo lỏng và không có phần ăn sáng! Thời VNCH không hề phân biệt hạng loại như vậy, mọi tù nhân đều hưởng đồng đều tiêu chuẩn 21kg/tháng, gạo trắng thơm.
(2) Đau khổ chi bằng mất tự do
Đến buồn đi ỉa cũng không cho
Cửa tù khi mở không đau bụng
Đau bụng thì không mở cửa tù