logo
Men for what watch? Watch, watch and call. A tool that is used for timing on breitling replica the wrist. Men wear watches what kind, starting from the basic color and size, have their own right watches, you can follow the watch's color, shape, value, occasions to carefully match their own clothing. For the choice of rolex replica a watch, the first to look at and their identity are consistent with a rural old people wear watches, a bit unrealistic, even if there is, it would have been too ostentatious. A Multi Millionaire owner, wearing a few hundred dollars of high imitation table also lost their identity, and even make friends on their own business is not good. In the formal social occasions, watches are often regarded as jewelry, for usually only ring a jewelry can be worn by rolex replica uk men is respected. Some people even stressed that: "the watch is not only a man's jewelry, but also men's most important jewelry." In western countries, watches, pens, lighters was once known as adult men "three treasures", is every man even for a moment can not be away from the body.

Chào mừng các bạn! Mong bạn Đăng nhập. Xin lỗi bạn, tạm dừng việc đăng ký mới.►Nhấn hình ảnh nhỏ sẽ hiện ảnh lớn ‹(•¿•)›

Thông báo

Icon
Error

Tùy chọn
Xem bài viết cuối Go to first unread
phai  
#1 Đã gửi : 24/04/2015 lúc 05:27:56(UTC)
phai

Danh hiệu: Moderate

Nhóm: Registered
Gia nhập: 21-02-2012(UTC)
Bài viết: 13,123

Cảm ơn: 4 lần
Được cảm ơn: 3 lần trong 3 bài viết
Trong các tác phẩm nổi tiếng vào những năm đầu thế kỷ 20, như "Cáo hủ lậu văn" hay "Văn minh tân học sách", các nhà nho

yêu nước và thức thời đã kịch liệt phê phán tính chất bất lực và yếu hèn của Việt Nam. Một trong những lý do chính khiến Phan

Bội Châu phải xuất dương là sự tuyệt vọng đối với văn hoá truyền thống: "Sách vở thánh hiền chán ngắt, đọc chỉ làm cho mụ

người đi mà thôi" (Hiền thánh liêu nhiên, tụng diệc si). Người ta hiểu là họ không thể tiếp tục đánh nhau với Pháp bằng những

ngọn tầm vông, những lưỡi dao phay như các nghĩa quân ở Cần Giuộc ngày nào. Sau phong trào Cần Vương và Văn Thân,

người ta biết là điều kiện đầu tiên để đánh bại Pháp là phải có vũ khí ngang ngửa với Pháp trước đã. Phải có đại bác. Phải có

súng. Phải có đạn. Muốn vậy, người ta phải học tập Pháp trước đã, phải Âu hoá trước đã. Việc học tập có thể được tiến hành

trực tiếp, từ Pháp và qua tiếng Pháp, mà cũng có thể được tiến hành một cách gián tiếp, qua tân thư bằng chữ Hán hoặc qua

tấm gương Âu hoá thành công của Nhật Bản.

Việc thay đổi nhận thức này giải thích tại sao từ đầu thế kỷ 20, phần lớn các hoạt động cách mạng của Việt Nam đều tập trung

vào mục tiêu duy tân đất nước. Về phương diện xã hội, đó là cuộc vận động cắt tóc ngắn, bỏ tục nhuộm răng, mặc âu phục và

phát triển kinh doanh. Về phương diện giáo dục, đó là việc chống lại lối học từ chương, chống lại loại văn chương bát cổ, vận

động học chữ quốc ngữ và học các ngành khoa học thực dụng. Về phương diện ý thức hệ, người ta xem Pháp không phải chỉ

là một kẻ thù mà còn là một bậc thầy. Trong bài "Á tế á ca" của Đông Kinh Nghĩa Thục, một tổ chức cách mạng ôn hoà tiêu

biểu nhất trong thập niên đầu tiên của thế kỷ 20, có hai câu, trong đó, các tác giả gọi Pháp là "thầy": "Việc học thức dần dần

mở rộng / Thầy Lang Sa rồi cũng nể nang." Chính Phan Châu Trinh cũng quan niệm như thế khi đưa ra chủ trương "ỷ Pháp

cầu tiến", tức là dựa vào Pháp để tiến bộ. Về phương diện văn học, đó là quá trình chuyển hướng từ Đông phương sang Tây

phương: trước, mẫu mực của văn học Việt Nam là Trung Hoa, sau, là Pháp; trước, thần tượng của giới cầm bút là những

Khổng Tử, Mạnh Tử, Lý Bạch, Đỗ Phủ, v.v..., sau, là những Địch-tạp-nhi (Descartes), Mạnh-đức-tư-cưu (Montesquieu),

Lư-thoa (Rousseau), Phúc-lộc-đặc-nhĩ (Voltaire) v.v...; trước, người ta sáng tác theo sự chỉ đạo của tư tưởng văn dĩ tải đạo

của Nho giáo, sau, theo quan niệm phản ánh hiện thực hay bày tỏ cảm xúc của các nhà văn hiện thực và lãng mạn của Pháp;

trước, người ta say mê tính chất tiết chế, khuôn sáo và cổ điển của văn chương chữ Hán, sau, tính chất tự nhiên, tự do và

trong sáng của văn chương Tây phương.

Sự chuyển hướng từ Đông phương sang Tây phương càng phát triển mạnh mẽ nhờ một hiện tượng khác xảy ra hầu như cùng

một thời gian: sự chuyển vùng từ nông thôn sang thành thị. Trước, khi cả nước là một vùng nông thôn mênh mông, môi trường

sinh hoạt văn học đương nhiên là ở nông thôn; sau, xuất phát từ việc khai thác thị trường và vơ vét tài nguyên của thực dân

Pháp, các thành thị theo nghĩa hiện đại dần dần xuất hiện, trở thành một môi trường hoạt động mới của văn học.

Có điều, việc chuyển vùng vừa tiệm tiến vừa không đồng đều, cho nên, có giai đoạn, kéo dài hàng mấy chục năm, chung

quanh thời điểm giao mùa giữa hai thế kỷ, văn học Việt Nam được chia thành hai dòng, ở hai môi trường khác nhau: một ở

nông thôn và một ở thành thị. Dòng đầu, ở nông thôn, là sự tiếp nối của văn học truyền thống Việt Nam: tác giả là các nhà nho;

độc giả thường cũng là các nhà nho và một số khác là nông dân; văn tự là chữ Nôm hoặc chữ Hán; phương thức phổ biến chủ

yếu là chép tay và truyền miệng. Dòng sau, ở thành thị, là một hiện tượng mới mẻ trong lịch sử Việt Nam: tác giả là các trí thức

tân học hoặc cựu học nhưng cấp tiến, thích nghi nhanh với thời đại; độc giả là thị dân, có thể là thầy thông, thầy ký hoặc một cô

hàng xén, một chị thợ may; văn tự chủ yếu là chữ quốc ngữ; và phương thức phổ biến chủ yếu là qua sách báo. Dĩ nhiên, giữa

hai dòng, có những vùng giao thoa nhất định. Trường hợp của Tú Xương là nằm trong vùng giao thoa ấy.

Sự tồn tại đồng thời của hai nền văn học này thực chất cũng là sự tồn tại đồng thời của hai văn hoá vốn tự bản chất có nhiều

xung đột với nhau. Chính sự xung đột này làm nẩy bật lên dòng văn học trào phúng với những tên tuổi tiêu biểu như Nguyễn

Khuyến, Tú Xương, Học Lạc, Phan Điện, Nguyễn Thiện Kế, Tú Mỡ, v.v... vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20.

Đứng từ nền văn hoá nông thôn nhìn sang văn hoá thành thị, người ta dễ thấy mọi cái mới đều là lố bịch; ngược lại, từ nền văn

hoá thành thị nhìn về văn hoá nông thôn, người ta dễ thấy những cái cũ là lạc hậu, là lỗi thời, và do đó, lố lăng. Chính vì vậy, có

một thời đối tượng chế nhạo trong văn học trào phúng là những thầy thông, thầy phán "sáng rượu sâm banh, tối sữa bò" và

những phụ nữ, nói như Tú Xương, "chí cha chí chát khua giày dép / đen thủi đen thui cũng lượt là". Một thời khác, nhất là từ

khoảng đầu thập niên 30 của thế kỷ 20 trở đi, khi xu hướng hiện đại đã thắng thế, đối tượng chế nhạo của văn học trào phúng

lại là những ông xã, ông lý áo dài khăn đóng và răng đen và tóc búi ngơ ngác giữa các đô thị.

Sự phát triển của văn học trào phúng, đến lượt nó, đã có những tác động tích cực đến quá trình phát triển của văn học nói

chung. Trước hết, nhờ tiếng cười, tính chất nghiêm trang biến mất, óc cuồng tín và mê tín cũng biến theo, con người dễ trở

thành bao dung trước cái mới lạ hơn. Sau nữa, văn học trào phúng phải dựa trên, hơn nữa, càng ngày càng củng cố, mối quan

hệ gần gũi giữa người viết và người đọc. Văn học trào phúng là để đọc ngay, tạo ra hồi âm ngay, chứ không phải là thứ để

dành trong ngăn kéo, cho mai hậu. Điều này dẫn đến một số hệ quả quan trọng: một, đề tài văn học trào phúng phải có tính

thời sự, gắn liền với cuộc sống xã hội chung quanh; hai, chất liệu phải là những gì cụ thể và nhiều kịch tính; ba, ngôn ngữ phải

giản dị để người đọc có thể lĩnh hội ngay tức khắc; và bốn, kết cấu tác phẩm phải khéo léo để có thể làm bật lên tiếng cười

vào chính cái lúc tác phẩm kết thúc. Có thể nói chính văn học trào phúng đã góp phần đắc lực trong việc làm sụp đổ lối văn

chương bát cổ mà một số nhà nho cấp tiến muốn đoạn tuyệt, và cũng chính nó là tiền thân của xu hướng hiện thực chủ nghĩa

trong văn học Việt Nam sau này.

Bên cạnh dòng văn học trào phúng, việc văn học chuyển từ môi trường nông thôn đến thành thị còn làm xuất hiện hai hiện

tượng nổi bật, có nhiều ảnh hưởng lớn lao đến diện mạo văn học của thời đại: báo chí và xuất bản. Từ cuối thế kỷ 19 trở về

trước, văn học gắn liền với học đường và thi cử; từ đầu thế kỷ 20 về sau, văn học gắn liền với báo chí và xuất bản.

Gắn liền với học đường và thi cử, dù muốn hay không văn học trung đại cũng gắn liền với triều đình, đạo đức, và nặng tính

chất công thức; gắn liền với báo chí và xuất bản, văn học gắn liền với quần chúng, cuộc sống và nặng tính chất giải trí. Lệ

thuộc vào học đường và thi cử, văn học trung đại hoàn toàn có tính chất nghiệp dư, không thể trở thành một sinh hoạt thực sự.

Dựa trên báo chí và xuất bản, văn học hiện đại dần dần được chuyên nghiệp hoá, ít nhất theo nghĩa kinh tế: người cầm bút có

thể dùng văn chương làm kế sinh nhai. Nhưng để bán báo và bán sách được, người cầm bút không thể không quan tâm đến

độc giả. Và độc giả, từ một nhân tố thương mại dần dần trở thành một nhân tố quan trọng trong lãnh vực thẩm mỹ: thị hiếu của

những kẻ đọc sách và mua sách dần dần làm thay đổi hệ thống ngôn ngữ (giản dị hơn), hệ thống đề tài (gần với thời sự hơn),

hệ thống thể loại (sự thịnh hành của văn xuôi tự sự), và hệ thống nhân vật (các trí thức tân học và các cô hàng xén... thay thế

cho các nho sĩ, các anh hùng và các tiểu thư đài các ngày xưa).

Cũng từ môi trường thành thị, một yếu tố khác xuất hiện: chủ nghĩa cá nhân. Trước, trong văn hoá truyền thống, trung tâm của

xã hội là gia đình; sau, là cá nhân. Trước, cái chung cao hơn cái riêng; sau, ngược lại, cái riêng cao hơn cái chung. Trước, làm

thơ hay viết văn là cách bày tỏ cái ta của cộng đồng; sau, là cách phát ngôn của cái tôi.

Tất cả những sự chuyển hướng và chuyển vùng này - kèm theo những sự thay đổi như là những hệ quả của chúng - dẫn đến

hiện tượng chuyển hệ trong văn học Việt Nam: từ trung đại sang hiện đại. Về phương diện sinh hoạt, tính chất hiện đại trong

văn học Việt Nam, theo tôi, có ba đặc điểm chính: thứ nhất, văn học ít nhiều được chuyên nghiệp hoá, trở thành một cái nghề,

dù là một cái nghề khá hẩm hiu; thứ hai, hệ thống thể loại được phát triển hoàn chỉnh, bao gồm cả sáng tác lẫn phê bình và

nghiên cứu; trong sáng tác, có cả thơ lẫn các thể tự sự, từ truyện đến ký, từ tuỳ bút đến kịch; và thứ ba, văn học tách ra khỏi

đạo đức và sau đó, phần nào khỏi báo chí, để trở thành một lãnh vực hoạt động thẩm mỹ tương đối độc lập.

Theo Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc (VOA)
Ai đang xem chủ đề này?
Guest
Di chuyển  
Bạn không thể tạo chủ đề mới trong diễn đàn này.
Bạn không thể trả lời chủ đề trong diễn đàn này.
Bạn không thể xóa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể sửa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể tạo bình chọn trong diễn đàn này.
Bạn không thể bỏ phiếu bình chọn trong diễn đàn này.

Powered by YAF.NET | YAF.NET © 2003-2024, Yet Another Forum.NET
Thời gian xử lý trang này hết 0.121 giây.