1.Tôi học chung với Nhân từ năm đệ ngũ. Trước đó, tôi có năm năm học nội trú trường Pellerin, một trường dòng Lasan
ở Huế do các frère giảng dạy. Những năm học ở đó, tôi luôn đứng đầu lớp, là niềm tự hào của các frère phụ trách và gia
đình. Nhưng từ khi về học ở Đà nẵng, tôi chưa bao giờ vượt qua được Nhân. Lúc nhỏ tôi rất xấu tính, hay ganh tị, không
muốn ai hơn mình. Do vậy, tôi chẳng ưa gì thằng Nhân.
Thành phố này có hai ông Đốc. Một ông Đốc học phụ trách chuyện giáo dục của toàn thành, ông Đốc này là ba Nhân.
Ông Đốc thứ hai là ông Đốc tờ, tức là ba tôi, quản lý ngành y tế của thành phố. Mấy ông quan chức thường tụ họp nhau
vào sáng chủ nhật ăn sáng, uống cà phê, bàn chuyện thời thế. Sau khi mất nhiều thì giờ trao đổi chuyện chính trị, chuyện
thế sự, chuyện tiếp đó thường là chuyện con cái. Và lần nào cũng vậy, việc học hành giỏi giang, thông minh của Nhân lại
được đem ra tán dương. Mỗi lần nghe chuyện, tôi rất khó chịu. Tự nghĩ mình cũng học giỏi có thua gì Nhân mà chẳng
bao giờ được nhắc tới. Nhân càng được gợi khen, tôi càng thêm ghét hắn. Khác hẳn tôi, Nhân rất muốn làm thân với tôi.
Tôi càng tránh hắn càng cố đến gần. Lần nào gặp tôi hắn cũng nở nụ cười thật tươi, còn tôi thì mặt nặng như chì. Nhân
đẹp trai, tuy người hơi thấp. Da trắng, mũi cao, mấy lọn tóc xoăn lúc nào cũng lòa xòa trước trán. Môi lúc nào cũng đỏ như
son. Mà kể cũng lạ. Nhà ông Đốc học có năm người con, hai trai ba gái, chỉ có mình Nhân là đẹp, mấy đứa còn lại đứa
nào cũng xấu như ma. Lại thêm có đứa con gái kế Nhân bị thần kinh, hay bỏ nhà đi lang thang, đứa em trai út thì bị bệnh
down, lúc nào cũng ngơ ngác, nước dãi chảy lòng thòng. Vì cảnh nhà như thế nên ông Đốc học rất kỳ vọng ở Nhân, Nhân
là niềm tin, niềm tự hào và cũng là lẽ sống của ông.
Học chung lớp với Nhân, càng ngày tôi càng thấy hắn giỏi, nhất là những môn toán, lý, hóa. Thầy dạy môn toán tên Thanh,
thầy dạy rất hay, học trò rất mê. Thầy Thanh lúc nào áo quần cũng chải chuốt, tóc chải dầu bóng lưỡng, cách đi giọng nói
rất điệu. Thầy hay cho làm toán chạy, tức là thầy đọc đề xong, trong năm hoặc bảy phút sau thầy chỉ nhận mười bài giải
nộp nhanh nhất. Nếu giải đúng thầy cho điểm tối đa, còn giải sai thì khỏi có điểm. Nhân luôn luôn là người giải bài nhanh
và đúng nhất. Khi nào hắn nộp trễ hơn một chút thì có nghĩa hắn giải bài toán đó bằng hai cách khác nhau. Lúc lên bảng
giải toán hình học, hắn vẽ hình bằng tay trái còn tay phải ghi lời giải. Thầy Thanh nể hắn lắm, gặp thầy nào thầy Thanh
cũng ca ngợi Nhân. Thầy còn bảo với Nhân là vào giờ của thầy, hắn không cần ghi chép, muốn làm gì thì làm. Các thầy
dạy môn lý, hóa cũng bảo hắn thế. Nghe vậy, hắn chỉ cười, giờ học nào cũng ghi chép rất cẩn thận.
Không những học giỏi, Nhân còn đá banh rất siêu, đánh cờ tướng rất cừ. Lại thêm rất giỏi võ. Không biết hắn học võ từ
khi nào mà tay hắn cứng như thép, cỡ mấy viên gạch xây nhà hoặc năm ba viên gạch thẻ chỉ cần hắn vung tay là bị bể đôi
ngay. Hắn múa gậy vun vút, đá ném không chạm vào người hắn. Cỡ hai người công kênh nhau, người trên cầm mấy cục
gạch, hắn chỉ cần lấy đà chạy ba bước, bay lên đá viên gạch vỡ nát. Hay nhất là trèo tường. Nhân chạy lấy đà, tung người
thẳng góc với bức tường, chạy thoăn thoắt lên trần nhà. Y như là mấy nhân vật trong truyện kiếm hiệp của Kim Dung. Mỗi
lần Nhân làm trò, cả bọn học trò chúng tôi trố mắt, há mồm mà nhìn, lắc đầu thán phục. Mọi người đặt cho hắn cái tên là
Siêu Nhân. Tôi vừa sợ vừa ghét hắn. Tôi vốn ốm yếu, lại chúa nhát gan, chúng bạn gọi tôi là con mọt sách. Cho nên dù
không ưa, tôi cũng nể sợ hắn. Không biết có phải vì võ công thâm hậu quá mà đôi mắt của Nhân trông lạ lắm. Ánh nhìn
như dao sắc, như có lửa, như muốn bóp nát người ta, đầy sát khí. Tôi thường tránh ánh mắt của hắn. Nụ cười của hắn
thân thiện nhưng đôi mắt thì đầy hăm dọa.
Trong các môn học, tôi chỉ nhỉnh hơn Nhân môn Pháp văn và hai môn phụ là âm nhạc và hội họa. Bởi những môn này tôi
được rèn luyện năm năm ở trường dòng Lasan. Nhưng đến năm đệ tam, tiếng Pháp của hắn tiến bộ đến không ngờ, đến
thầy giáo già dạy Pháp văn cũng ngạc nhiên. Sau này tôi mới biết là suốt cả mùa hè hắn chỉ tập trung vào môn học đó, cả
ngày nghe đài Pháp để luyện giọng và lảm nhảm luôn mồm mấy từ vựng. Có
một lần tình cờ tôi thấy trên bìa sách Pháp văn của Siêu Nhân có ghi câu bằng chữ in đậm VOULOIR C EST POUVOIR.
Có lẽ đó là quan niệm của Nhân.
Cuối năm đệ tam, Nhân lại khiến cho các Thầy và đám học trò thêm than phục khi giải bài thi toán tú tài 1 ban B chỉ trong
27 phút. Hắn lại tiếp tục là tấm gương cho các bậc cha mẹ thường nhắn nhủ các con: “Gắng học cho giỏi như anh Nhân”.
Hắn đi đến đâu cũng được mọi người trầm trồ khen ngợi. Bởi thời đó, người giàu có không được trọng nể bằng người
học giỏi. Ngay cả những quan chức cũng rất trân trọng người tài, học trò gỉỏi. Năm học đó, hắn lãnh phần thưởng lớn lắm,
phải thuê xích lô chở về nhà. Ông Đốc học rất hãnh diện. Mà hãnh diện cũng phải thôi, cha mẹ nào lại không sướng khi có
người con như thế.
Trong lớp chúng tôi, thường chia ra hai nhóm rõ rệt. Mấy đứa nhỏ con, học kha khá thường ngồi mấy bàn trên, còn mấy
bàn cuối lớp mà mấy thầy gọi là xóm nhà lá toàn là mấy đứa bự con, ba trợn, chơi nhiều hơn học và thường chọc phá mọi
người. Cầm đầu xóm này là thằng Hồ Lê. Đó là một thằng sừng sỏ tuy cũng có tố chất thông minh, học hành cũng không
đến nỗi tệ. Hồ Lê người đen giòn, cao to lừng lững, mặt chữ điền, góc cạnh. Ngay trên trán có một vết sẹo dài khiến
khuôn mặt của hắn càng thêm vẻ anh chị. Hắn bảo đó là vết tích chiến tranh. Hỏi thêm nữa hắn sẽ trừng mắt hăm dọa nên
chẳng ai dám lên tiếng thắc mắc nữa. Nhà Hồ Lê nằm trong hẻm sâu sau lưng nhà tôi, mẹ hắn bán rau hành ở chợ. Nhà
hắn trơ trọi chỉ hai mẹ con và không bao giờ hắn nhắc đến cha. Tôi sợ hắn lắm, vì hắn hình như rất ghét tôi, cứ tìm mọi
cách để sinh sự. Mỗi lần gặp tôi hắn thường dí tay vào trán tôi mà gầm gừ: “Đồ quý tộc dơ bẩn”. Tôi cũng chẳng biết sao
hắn lại bảo tôi thế. Tôi vốn nhát như cáy nên thường tìm đủ mọi cách để tránh mặt hắn. Tránh hắn nhưng miệng lầm bầm:
“Đụ mẹ thằng Lê sẹo, rồi ông sẽ giết mày, anh hùng báo thù mười năm chưa muộn”. Nói thầm thế thôi, chứ thấy bản mặt
nó là tôi đã sợ chết khiếp, nổi gai cả người. Nhưng tôi càng tránh, hắn lại tìm đủ mọi cách để trêu ghẹo tôi. Lúc thì đi đàng
sau khèo chân cho tôi té. Khi thì búng tai, giựt tóc mai của tôi rồi cười cợt với một lũ âm binh ăn ké.
Một hôm chúng tôi được nghỉ tiết cuối, đang trên đường về nhà thì tôi bị đám thằng Hồ Lê chận đường. Hắn đứng trước
mặt tôi, hai chân khuỳnh khuỳnh, cái mặt kênh kênh. Hắn bảo tôi rúc dưới háng hắn mà đi. Mặt tôi xanh như đít nhái. Vừa
tức vừa sợ. Miệng lắp bắp định van xin. Đường vắng teo, chẳng có ai có thể giúp tôi. Tôi nghĩ phen này chắc tiêu. Không
chết vì nhục thì cũng ốm đòn với hắn. Hắn xắn tay áo, hai cánh tay cuồn cuộn, vung tay. Tôi nhắm mắt, tưởng như muốn
đái cả ra quần, hai chân muốn quỵ uống, bởi tôi vốn nhát đòn. Tôi chờ đợi cú đấm như trời giáng của hắn, bỗng nghe
tiếng hự..hự.. huỳnh huỵch… như ai đấm bao cát. Sao tôi chẳng thấy đau, hé mắt nhìn, thấy thằng Lê đang nằm chỏng
gọng, mặt nhăn nhó, méo xẹo. Trước mặt hắn là Nhân. Siêu Nhân. Nhân chỉ tay vào mặt hắn và bảo:
– Tao cấm mày đụng đến thằng Ngọc, tao là bạn nó. Thằng nào ăn hiếp hắn sẽ biết tay tao. Liệu hồn. Cút…
Bọn thằng Lê chạy một mạch không ngoái đầu. Nhân vỗ vai tôi, cười:
– Đừng sợ chúng, cứ sợ mãi thì chúng cứ ức hiếp hoài.
Từ đó, tôi và Nhân thân nhau. Đi đâu cũng có đôi. Và đám thằng Lê cũng không dám đụng vào tôi nữa, dù ánh mắt nó
cũng còn gầm ghè. Đến lớp đệ nhị, tôi chọn ban A còn Nhân tiếp tục ban B. Bởi ba tôi muốn chuẩn bị cho tôi lên học y
khoa nên bảo tôi học ban Vạn vật. Hơn nữa tôi cũng còn háo thắng, muốn học khác lớp với Nhân để được đứng đầu lớp,
chứ học chung tôi không vượt qua được hắn. Dù khác lớp nhưng chúng tôi vẫn đi chơi chung với nhau, gắn bó với nhau
như hai anh em.
Nhân thường dẫn tôi đến quán nước ở góc sân trường. Chủ quán là chị Đầm. Tôi gọi bằng chị vì chị lớn hơn chúng tôi vài
ba tuổi. Chị bị rỗ huê nên bọn học trò thường gọi là chị Đầm rỗ. Chị to lớn như đàn ông, giọng ồ ề, lại khoái hút thuốc lá
nên môi thâm xì. Tuy vậy, chè đậu của quán chị rất ngon, nên lũ học trò rất khoái tụ tập ở quán chị. Chị Đầm lại rất ái mộ
Nhân, xem Nhân như thần tượng, ánh mắt nhìn Nhân rất lạ. Tại quán đó, tôi bị chị dụ tập hút thuốc lá và thói quen này theo
suốt đời tôi. Và cũng tại quán đó trong một buổi trưa trú mưa, tôi biết lí do tại sao Nhân cứ muốn làm thân với tôi.
Số là cạnh nhà tôi có một gia đình rất giàu có, là chủ của mấy rạp xi nê và khách sạn ở Đà Nẵng, Huế, Qui Nhơn và Nha
Trang. Chủ nhân vốn xuất than từ hoàng tộc tên Bửu Hân. Nhà có cậu con trai út tên Vĩnh Đệ còn nhỏ và hai cô con gái rất
đẹp, cô chị tên Huyền Tôn Nữ Dạ Lan, cô em là Huyền Tôn Nữ Dạ Hương. Mỗi cô có nét đẹp riêng. Dạ Lan đẹp kiêu sa,
đài các, dáng thanh mảnh, thướt tha, cổ cao ba ngấn, da trắng như ngà, tóc dài chấm mông, mặt như Đức Mẹ, mắt lúc
nào cũng buồn vời vợi, suốt ngày ngoài giờ học chỉ thơ thẩn trong vườn đọc sách, đan len, chiều chiều lại đánh đàn piano
cho đến tối. Dạ Lan thích mặc áo màu tím Huế, dù là áo dài đi phố, đi lễ nhà thờ hay áo cánh đi chơi, cô chỉ chọn độc một
màu tím rịm. Cô em Dạ Hương thì trái ngược với chị. Mới mười lăm tuổi mà hai vú đã tròn to khêu gợi, tóc cắt ngắn, da
rám hồng, suốt ngày sau giờ học chỉ đi tắm biển và đánh quần vợt. Cô ta chỉ thích mặc áo thun và quần jean, cỡi xe
Honda chạy vù vù, đọc toàn báo Tây, hát toàn nhạc Pháp và tuần nào cũng đi nhảy đầm với lũ bạn học cùng trường Lycée
Blaise Pascal
Vì ở cạnh nhà lại là đồng hương nên gia đình tôi rất thân với nhà đó. Lễ tết, giỗ chạp, tang ma hiếu hỉ đều qua lại với nhau.
Nhân thích Dạ Lan. Nhân thổ lộ với tôi như vậy. Và Nhân muốn qua tôi làm quen với cô ấy. Chuyện dễ ợt, chẳng có chi
khó khăn. Nhưng tôi lại bảo với Nhân là chuyện này khó lắm, cần phải có thời gian. Nhân cầm tay tôi lắc lắc:
– Cố nghe, cố nghe.
Việc làm ông mai tiến hành quá suôn sẻ, tôi ướm lời với Dạ Lan:
– Tôi có anh bạn ái mộ Dạ Lan lắm, anh ấy muốn tôi giới thiệu với Dạ Lan.
Cô ấy thoáng chút ngạc nhiên
– Ai vậy? Quen hay lạ?
– Dạ Lan biết người này mà.
– Nhưng mà ai mới được chứ.
Tôi cười bảo:
– Anh Nhân, bạn thân của tôi
– Anh Nhân con ông Đốc Lễ phải không?
Tội gật. Dạ Lan cười:
– Tưởng ai.
Sau này, khi hai người đã gắn bó nhau, tôi mới biết hóa ra Dạ Lan cũng đã để ý đến Nhân lâu rồi. Thì trai tài gái sắc, đến
với nhau là lẽ đương nhiên của cuộc đời. Hai người yêu nhau thắm thiết lắm. Hai gia đình cũng thoáng biết nhưng chẳng
có ý kiến gì. Mà thật ra còn đòi hỏi chi, vừa môn đăng hộ đối, vừa đôi lứa xứng đôi. Nhân cám ơn tôi nhiều lắm. Chúng tôi
hay đi chơi với nhau, ngoài tôi, Nhân, Dạ Lan còn có Dạ Hương. Thường là đi xem phim, đi ăn kem hoặc đi dạo bên bờ
biển. Dạ Hương sôi nổi, nhí nhảnh còn Dạ Lan khép nép, dịu dàng. Một hôm, chúng tôi đi dạo trên bờ biển, trời vừa tối,
chân trời ráng đỏ. Dạ Hương kéo tay tôi và bảo khẽ:
– Mình tránh đi cho anh chị ấy tâm sự, cứ như thế này thì anh chị ấy tâm tình làm sao được.
Dạ Hương kéo tôi chạy vào hàng phi lao, trời tối hẳn, những ngọn gió xào xạc. Theo đà chạy dưới cát lún, Dạ Hương ngã
vào người tôi, ôm cứng, hơi thở gấp. Theo quán tính, tôi cũng ôm siết lấy nàng, hai bầu ngực căng khép vào ngực tôi. Tôi
thấy mình căng cứng. Dạ Hương vít đầu tôi xuống, hôn trên môi tôi. Tôi như đang bay bổng vì nụ hôn đầu đời. Tôi chẳng
biết phải hôn trả lại thế nào nữa. Tôi lạng quạng và thả lỏng đôi tay. Bỗng dưng tôi cảm thấy sợ. Hóa ra tôi luôn luôn vẫn là
thằng nhút nhát. Kiểu tấn công mạnh mẽ của Dạ Hương làm tôi hãi, dù phần dưới cơ thể của tôi đã đông cứng lại rồi. Tôi
bỏ đi và như kẻ mộng du. Tôi bỗng muốn khóc. Dạ Hương chạy theo tôi hét lớn:
– Anh có phải là đàn ông không?.
Tôi ngồi xuống giữa bãi cát và tự hỏi, mình có phải là đàn ông không? Từ đó, Dạ Hương tránh mặt tôi, và tôi cũng có ý
không muốn gặp nàng. Tôi vẫn tự nhủ mình tệ quá.
Kỳ thi Tú tài 1 năm đó, tôi và Nhân đều đậu Ưu hạng. Cả hai gia đình rất vui. Hôm lãnh thưởng ở trường, đôi mắt của ông
Đốc học ba Nhân ánh lên niềm tự hào, sung sướng và mãn nguyện. Còn đôi mắt của Dạ Lan thì tràn đầy hạnh phúc.
Ba tôi dù theo Tây học, nhưng lại rất mê nghiên cứu Kinh Dịch. Có một người Hoa thường đến trao đổi cùng ba tôi.
Người này tên Lý Hạnh, chuyên nghề phong thủy và tướng số. Hai người tâm đắc lắm, thường nói chuyện với nhau cả
buổi mà không chán. Một hôm, khi ba tôi và chú Lý Hạnh đang nói chuyện với nhau thì tình cờ tôi nghe được cả hai bàn về
Nhân. Ông Lý Hạnh bảo:
– Cậu Nhân tướng toàn tốt, thông minh hơn người, nhưng ánh mắt lộ hung quang, tôi e cậu ấy nếu không học đựợc chữ
nhẫn sẽ phải phạm tội sát nhân, hậu vận xấu lắm.
Ba tôi trầm ngâm một lát rồi hỏi đến tương lai của tôi, Ông Lý Hạnh im lặng một lát rồi gật gù:
– Cũng tạm.
Ba tôi nhíu mày:
– Cụ thể là sao?
– Ông Đốc cũng đã nghiên cứu lý số. Số nói sao thì nghe vậy. Còn cụ thể thì chịu. Nhiều khi thiên cơ bất khả lậu.
– Nhưng đôi khi cũng nhân định thắng thiên
– Dạ, cũng có thể.
Nghe được vậy, lúc đó tôi hơi hoang mang, nhưng rồi tuổi trẻ chóng quên. Tuy thế lâu lâu nhìn ánh mắt của Nhân, tôi
cũng cảm thấy ghê ghê. Cũng cuối năm ấy, Dạ Hương bỏ nhà đi. Có tin đồn đã kết hôn với một sĩ quan Mỹ ở Sài Gòn.
Tôi cứ tự hỏi là mình có lỗi gì trong tai ương này không?
Tết năm Mậu Thân, chiến tranh lan vào nhiều thành phố. Huế bị nặng nhất, rất nhiều người chết trong những ngày xuân.
Đà Nẵng cũng không tránh khỏi bị tấn công, nhưng không bị chiếm đóng. Sau Tết, lớp học thưa thớt hẳn, đứa đi lính, đứa
đi đâu mất dấu. Trong những đứa vắng mặt, có Hồ Lê. Nghe đồn nó đã lên núi, gia nhập quân giải phóng. Chúng tôi đậu
Tú tài 2 dễ dàng. Nhân lại đậu Ưu hạng, tôi chỉ đậu Bình. Tôi lại thua Nhân….
Vào Sài gòn làm thủ tục du học, thời gian chờ đợi khá dài, tôi ghi danh học Văn khoa, còn Nhân thi vào trường Kỹ sư
Công nghệ Phú Thọ, học cho vui để quên thì giờ chờ đợi. Thế mà hắn cũng đỗ hạng nhì kỳ thi tuyển vào Phú Thọ năm
đó. Tôi vừa xong lớp dự bị ban Văn chương Việt Nam thì có giấy lên đường. Ngày tôi và Nhân rời Việt Nam đi Pháp du
học, hai gia đình tiễn ra phi trường. Ba Nhân ôm vai Nhân:
– Gia đình và giòng họ tin tưởng vào con. Ba tin chắc con làm được như ước nguyện. Nhân gật gật đầu, mắt lóe lên niềm
hi vọng lớn lao. Dạ Lan mặc áo dài tím, quấn khăn quàng tím nhạt, nước mắt hoen mi. Dạ Lan cầm tay Nhân lắc mãi mà
chẳng nói gì.
Ba tôi bắt tay tôi, bảo khẽ:
– Cố lên nhé!
Hôm qua tôi và ba đã nói chuyện với nhau rất lâu về chuyện truyền thống ba đời làm nghành y, về việc phải tiếp nối nếp
nhà. Thật ra, tôi chẳng thích thú gì chuyện du học. Tôi sợ cô đơn ở xứ người, tôi sợ những bất trắc sẽ xảy đến mà chung
quanh chẳng có ai giúp đỡ. Tôi như con chim non được nhốt trong lồng son, giờ được thả ra, chẳng định được phương
nào để bay đến. Nhưng tôi phải bay đi. Đi và mang theo niềm hi vọng của cả gia đình. Bước lên máy bay, nước mắt tôi
cứ muốn trào ra, hai bàn chân tôi như có gì níu lại. Rời Việt Nam, tôi vẫn chưa có mối tình nào vắt vai, không có cô gái
nào đưa tiễn. Tôi thấy Nhân hạnh phúc vì còn có tình yêu để đợi chờ.
Chuyến bay kéo dài hơn hai mươi tiếng đồng hồ, chúng tôi nói nhiều chuyện với nhau về tương lai. Thế giới đang mở ra
với chúng tôi, và cả hai đang bước vào và tin sẽ chiến thắng. Hai đứa vẽ ra cảnh tượng lúc thành đạt trở về trong niềm
hoan hỉ của mọi người. Nhân bỗng bảo tôi:
-Cậu chơi piano thế cậu có biết loại đàn nào tốt nhất không?
– Để làm gì, sao tự nhiên lại đi hỏi về đàn lúc này?
– Thì cứ nói đi
– Theo mình biết thì hiện nay đàn hiệu Steinway & Son là tốt nhất, ở
Việt Nam chỉ có một hai cái. Nhưng đắt lắm. Cậu đang có ý định gì vậy?
Nhân lim dim mắt, cười cười, nhìn ra bầu trời trong xanh:
– Khi nào thành đạt, làm ra tiền, mình sẽ mua cho Dạ Lan một cây đàn như vậy.
2. Chúng tôi chia tay nhau ở phi trường, Nhân sẽ ở lại Paris thi vào trường Đại học Bách khoa Paris. Tôi lại tiếp tục đi gần
750 cây số nữa về Montpellier, một thành phố nằm gần biển Địa Trung hải, để thi vào trường Y. Đại học Montpellier là
một trong những trường đại học Y khoa nổi tiếng thế giới, nơi đào tạo nhiều nhà khoa học đã được nhiều
giải thưởng y học quốc tế. Phải mất 9 tháng học dự bị tôi mới thi đậu vào trường, dù chỉ đứng thứ 26, nhưng cũng vui vì
đã đi được bước đầu. Nhân thành công hơn tôi nhiều. Chỉ mất 6 tháng, Nhân đã đỗ thủ khoa vào trường Đại học Bách
khoa Paris (École polytechnique) Đây là trường đào tạo kĩ sư danh giá nhất nước Pháp. Đúng ra Nhân phải học đủ một
năm dự bị theo chương trình EV1 dành cho học sinh Pháp và các nước nói tiếng Pháp. Nhưng chỉ một thời gian ngắn
học ở Lycée Louis – Le – Grand, ban giảng huấn ở đó nhận thấy Nhân quá xuất sắc nên đặc cách cho thi trước thời hạn.
Mục đích phấn đấu của các sinh viên học trưòng này là trở thành nhân lực cấp cao của nưóc Pháp và thông thường 10
sinh viên đứng đầu sẽ được lựa chọn trở thành Corps de Mines, được tham gia chương trình đào tạo nhân lực lãnh đạo
tương lai. Đây cũng là trưòng đã tạo ra ba vị tổng thống của nước Pháp: Valéry Giscard d Estaing, Sadi Carnot, Albert
Lebrun. Giáo sư Hoàng Xuân Hãn và giáo sư Nguyễn văn Xuân của Việt Nam cũng tốt nghiệp từ trưòng này. Nhân là
ngưòi nước ngoài đầu tiên đỗ thủ khoa kỳ thi tuyển vào trường, nên trở thành một sự kiện được báo chí Pháp chú ý. Hình
chân dung của Nhân được đăng trên nhiều tờ báo, là niềm tự hào của giới sinh viên du học và những người Việt Nam
đang ở Pháp thời bấy giờ. Ở Montpellier, trong giới sinh viên cũng bàn tán chuyện này dữ lắm. Nhưng Nhân không ngừng
lại ở đó, trong thời gian theo học, Nhân là một nhân vật nổi bật toàn diện. Không những học giỏi, Nhân còn là cầu thủ suất
sắc của đội bóng tròn sinh viên Paris, là kỳ thủ không thể qua mặt của bộ môn cờ, Nhân còn là huấn luyện viên võ thuật
của võ đường trong khu đại học, đồng thời đã mang về cho trường rất nhiều huy chương trong các cuộc thi đấu. Hình ảnh
Nhân liên tục được đăng trên các báo sinh viên và một số báo thể thao. Đã có lần một câu lạc bộ nhà nghề nổi tiếng của
Paris đề nghị Nhân ký hợp đồng để được đào tạo làm cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp, nhưng Nhân từ chối. Tiếng tăm
Nhân vang dội trong cộng đồng sinh viên của các trường đại học, Nhân đã từng đưọc tiếp đón và nhận phần thưỏng của
tổng thống Pháp lúc bấy giờ là Georges Pompidou ở điện Élysées. Nhân được đặt tên là Super Man, cái tên mà hồi ở
Việt Nam mọi người đã đặt cho hắn. Hóa ra siêu nhân thì ở vòm trời nào cũng là siêu nhân. Còn con chim chưa định
được đường bay là tôi vẫn là cậu sinh viên nhút nhát và không chút tự tin, dù là ở phương trời nào, lúc nào cũng quấn
quanh trong chiếc lồng vô hình chật chội của mình.
Với những thành tích và tính cách của Nhân, Nhân mau chóng trở thành lãnh tụ của các phong trào sinh viên, Lúc đầu là
anh cả của các môn thể thao, dần dà, Nhân lại làm luôn lãnh tụ chính trị với nhiều tham vọng. Thời điểm bấy giờ, cuộc
chiến tranh Việt Nam đã đến cao điểm. Mỹ liên tục ném bom miền Bắc, cuộc chiến đấu ở miền Nam càng ngày càng
nhiều máu lửa. Sinh viên Việt Nam đi du học hàng ngày nhìn thấy những đổ nát, những tàn phá, máu xương rơi của chiến
tranh, lại thêm chính quyền miền Bắc và Mặt Trận Gỉai Phóng miền Nam Việt Nam tuyên truyền ở Âu châu rất mạnh, nên
đa số đều tham gia chống chiến tranh, kêu gọi hòa bình với một ý thức chính trị rất mơ hồ. Lực lượng này rất mạnh và rất
đông đảo. Và tham gia phong trào chống Mỹ trở thành một cái mốt của người trí thức.
Nhân thì ngược lại, hắn làm lãnh tụ một nhóm sinh viên ủng hộ chính quyền Việt Nam Cộng hòa, chuyên phá đám các
cuộc biểu tình và tuần hành của nhóm sinh viên kia. Đụng độ giữa hai phái xảy ra như cơm bữa. Đúng thời điểm này thì
chúng tôi nhận hung tin từ Việt Nam. Mẹ tôi và mẹ Nhân trong một chuyến hành hương về La Vang, Quảng Trị, trên
đường về thì xe bị lật vì trúng mìn.
Mẹ Nhân tan xác tại chỗ, mẹ tôi được đưa vào bệnh viện Trung ương Huế, nhưng rồi cũng từ trần ở đó. Tôi điện thoại
cho Nhân, khóc nức nở trong điện thoại, Nhân chỉ ậm ừ khuyên lơn tôi. Tôi đòi bỏ về Việt Nam ngay, nhưng Nhân khuyên
nhủ, động viên tôi ở lại tiếp tục học và phải cố học tốt hơn nữa, đó cũng là một cách để khỏi làm buồn lòng mẹ. Tôi nghe
lời Nhân, nhưng lòng thì tan nát, dạ rối bời, chẳng thiết ăn uống gần mấy tuần liền. Riêng Nhân từ đó càng lao vào những
cuộc đấu tranh để ủng hộ phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa đang ở Paris để hội đàm tìm cách giải quyết chiến tranh. Nhân
mơ ước ngày trở về sẽ trở thành một công chức cốt cán của chính quyền miền Nam, với những đổi thay và cương lĩnh
mới. Hiệp định Paris được ký kết, Nhân cay cú vì bảo rằng chính quyền miền Nam đã bị Mỹ lừa. Nhân càng hoạt động
mạnh hơn, quyết liệt hơn. Và trong tâm trạng đó, Nhân đã phạm một sai lầm oan nghiệt, chấm dứt mọi ước mơ và hoài
bão, cắt đứt tương lai đang rộng cửa. Trong khu đại học xá, Nhân được bố trí ở cùng chung phòng với Thành, cũng là
một du học sinh học trường Bách Khoa Paris, học sau Nhân một khóa. Thành là con trai của Chủ tịch Tối cao Pháp viện
của chính quyền miền Nam, nhưng Thành lại là lãnh tụ của phong trào thiên tả ủng hộ Cộng sản. Thành cũng là một thành
viên rất cực đoan của lực lượng này. Từ lâu, cả hai đã có nhiều lần tranh cãi nhau dữ dội vì những quan điểm xung khắc
nhau về cuộc chiến đang xảy ra. Khi hiệp định Paris vừa có hiệu lực thi hành, Nhân trong cơn bực tức đã nổ ra cuộc đấu
khẩu với Thành và trong lúc không kềm lòng được đã bay đến phóng chân đá vào đầu Thành ngay trong phòng của hai
người. Thành gãy cổ chết ngay lập tức, máu trào khóe miệng. Nhân bị bắt ngay. Báo chí đưa tin hàng giờ. Tôi ở
Montpellier đọc báo thấy đăng hình của Nhân, nhưng lần này không phải là khuôn mặt tươi cười, hớn hở như xưa mà là
tấm hình Nhân cúi đầu đi giữa đám cảnh sát, hai tay bị còng, những sợi tóc xoăn trước trán rũ xuống khuôn mặt nhợt nhạt
không còn chút sinh khí. Tôi chợt nhớ nhận định của chú Lý Hạnh ngày nào và bỗng tin vào số mệnh.
Tôi bay ngay về Paris, nhưng không được gặp trực tiếp Nhân. Hắn đang bị cách ly để điều tra. Sau một thời gian, Nhân bị
trục xuất và dẫn độ về Sài Gòn với cái án giết người. Tôi lại chỉ gặp được Nhân qua hình trên báo đăng hình Nhân ở chân
phi cơ lúc bị dẫn độ, tay Nhân vẫn bị còng và Nhân vẫn lại lọt thỏm giữa đám cảnh sát với khuôn mặt hớt hãi. Tôi nhận
được thư Nhân lúc trở về Montpellier, Trong thư Nhân dặn dò tôi là không được tin cho ai ở nhà biết việc này, đồng thời
Nhân cũng nhờ tôi là khi nào nhận được thư Nhân với hai phong bì, tôi phải bỏ bì thư ngoài và gởi lại cái thư bên trong về
Việt Nam cho gia đình Nhân, nếu nhận được thư của ba Nhân, tôi lại gởi về Sài Gòn làm như là Nhân vẫn đang ở Pháp
vậy. Nhân khuyên tôi cố gắng học cho xong và xin lỗi tôi, tôi chẳng biết Nhân xin lỗi tôi vì lí do gì. Mỗi lần đi gởi thơ về cho
ba Nhân, tôi cảm thấy mình đang làm một chuyện tội lỗi tày đình vì đang đánh lừa ba Nhân, người đang hi vọng về đứa
con thiên tài của mình. Lần nào đi gởi thư, tôi cũng khóc. Không biết bao giờ tôi mới bỏ được kiểu thường hay rơi nước
mắt như thế này.
Năm 1972 tôi đang học năm thứ hai Y khoa, tôi bỗng chán nản cùng cực và ý thức một cách rõ ràng là nghề y không phù
hợp với tôi. Tôi sợ thấy máu chảy. Tôi sợ những khuôn mặt nhăn nhó, đau đớn vì bệnh tật của bệnh nhân. Tôi cũng biết
rất rõ mình không đủ phẩm chất để làm người thầy thuốc. Tôi quá nhạy cảm trước mọi sự. Tôi chỉ mong ước mình trở
thành họa sĩ, suốt ngày lang thang vẽ vời, sáng tạo, đùa giỡn với sắc màu, không phải đối diện với những nỗi đau bệnh
tật, máu me, chết choc của con người như nghề bác sĩ. Nếu cứ tiếp tục cố nhồi nhét những kiến thức y khoa như thế này,
chắc chắn tôi sẽ điên mất. Trước đây tôi chọn học y vì ba tôi bắt phải thế, lúc đó tôi vẫn chưa có ý thức về nghề, về
tương lai. Nhưng bây giờ, qua gần ba năm, tôi tuyệt vọng vì thấy mình đang đi lần vào một hố thẳm và sợ hãi khi nghĩ đến
việc suốt đời phải gắn bó công việc khủng khiếp này. Và rồi tôi đi đến quyết định cuối cùng. Đây là quyết định đầu tiên
trong đời do tôi tự quyết.
Không biết tương lai rồi sẽ ra sao, nhưng tôi có chút hài long vì đã thoát ra được bế tắc. Ít ra con chim rời lồng son cũng
đã tự định hướng cho đời mình. Tôi bỏ trường Y, thi vào L’Ecole supérieure des Beaux – Arts de Montpellier
Aggomération, tức trường Trang trí Mỹ thuật Montpellier. Học trường này có nghĩa là tôi sẽ bị mất học bổng ở trường cũ,
do vậy kể từ đó cuộc sống của tôi bấp bênh, no đói thất thường, làm nhiều nghề để kiếm cơm và để được học những
thứ mình ưa thích. Nhưng tôi vốn vụng về và hậu đậu, chẳng làm tốt được chuyện gì, đi đưa báo thì đưa lộn địa chỉ, làm
bồi rửa chén thì chuyên làm vỡ bát dĩa, đi giao sữa thì đổ sữa lai láng trước cửa nhà của khách. Bởi từ bé cho đến lớn,
tôi chỉ việc học, ba mẹ tôi không cho tôi làm gì ngoài chuyện phải học thật giỏi. Lối giáo dục đó làm cho tôi vấp phải thất
bại trong bước đầu trong cuộc đời.
“J ai cueilli ce brin de bruyère
L automne est morte souviens-t en
Nous ne nous verrons plus sur terre
Odeur du temps Brin de bruyère
Et souviens-toi que je t attends ”
(L Adieu – Apollinaire)
Monique rất quý tôi, tuần nào tôi không về, cô ấy gởi bánh trái cho thầy Alain mang lên cho tôi. Biết thân phận mình, lại vẫn
cái tánh nhút nhát, không tin vào mình, nên dù có rất nhiều cảm tình với nàng, tôi vẫn không dám ngỏ, cứ mặc cảm mình
không xứng đáng. Chúng tôi thường đi dạo trên con đường mòn của cánh rừng sau nhà, cùng đi qua đủ bốn mùa. Mùa
thu sắc đỏ, lá vàng ngập lối đi. Mùa hạ bầu trời xanh và mặt nước hồ gợn sóng lăn tăn. Mùa xuân với những cành lá biếc,
hoa nở tím cả rừng và mùa đông với những cành trơ trọi, trời lạnh giá, trên cổ mỗi người quấn chiếc khăn quàng do
Monique tự tay đan. Trong những buổi cùng lang thang, hái hoa, nghe tiếng chim líu lo, chúng tôi nói với nhau đủ thứ
chuyện trên đời. Nhưng cũng có khi trên đường về, hai đứa cứ im lặng suốt cả con đường dài, nhưng vẫn ngập tràn một
thứ hạnh phúc khó diễn tả nổi. Tình yêu đến nhẹ nhàng, trong như giọt sương, tôi không dám động mạnh, chỉ sợ nó vỡ
tan. Và ánh mắt nhìn nhau, nụ cười trao nhau như những lời ước hẹn, đổi trao diễn ra trong im lặng. Mỗi khi đến nhà của
Thầy Alain, được ngồi ăn chung với hai bố con Thầy, được nhìn khuôn mặt đẹp tựa thiên sứ của Monique, nghe tiếng hát
trong veo của nàng, tôi cảm thấy cuộc đời thật tươi đẹp và mong ước mình cứ được mãi như thế này….
Nhưng số phận lại giáng xuống đời, khi tôi vừa xong năm thứ hai đang kỳ nghỉ hè thì tai họa ập đến gia đình Thầy Alain.
Trong chuyến đi về Paris của hè năm ấy, họ đã bị tai nạn giao thông. Thầy Alain chết ngay trên volant, Monique bị thương
nặng, được chở vào bệnh viện, một tuần sau thì mất. Tôi bay về Paris ngay khi được tin và chăm sóc Monique suốt một
tuần nàng thoi thóp, mê man trên giường bệnh, suốt ngày tôi quên ăn uống, chỉ ngồi nắm trong tay bàn tay bé nhỏ lạnh giá
của Monique, chờ phép lạ. Đến hôm cuối cùng, Monique mở mắt nhìn tôi rất lâu, hai dòng nước mắt chảy dài trên má
nàng, mặt tôi cũng đầm đìa nước mắt. Môi nàng mấp máy: “Je t’aime… Je t’aime…” và bàn tay rời khỏi tay tôi. Phép lạ đã
không đến. Chúa cũng đã quay mặt đi trước nỗi đau của thiên thần. Tôi gần như không kêu lên được tiếng gọi y tá cấp
cứu, cổ họng tôi đông cứng và tôi đứng chôn chân gần mấy tiếng đồng hồ trong niềm tuyệt vọng như bức tượng đá bên
giường. Tôi không tin đó là sự thật.
Suốt cuộc đời, tôi không bao giờ quên được ánh mắt và câu nói cuối cùng đó. Câu nói của Monique như vết khắc trong
tim tôi, không phai. Tôi đau đớn tột cùng trước cái chết của cha con Thầy Alain, người tôi xem như người cha thứ hai của
mình. Và Monique, mối tình đầu của tôi, mối tình câm chưa dám ngỏ của tôi. Tôi có cảm tưởng mình đã bị rút hết tất cả
sinh lực. Tôi mất ngủ, lang thang như kẻ điên suốt mấy tháng dài. Tôi chẳng còn thiết tha gì chuyện học hành và tương
lai. Thiên thần Monique của tôi hiện ra như ánh chớp, lóe sáng đời tôi một khoảnh khắc rồi bay về trời. Nàng như một thứ
định mệnh làm thay đổi ý nghĩ của tôi về cuộc sống. Cái chết của mẹ tôi, mẹ Nhân, của Thầy Alain, của Monique khiến tôi
thấy cuộc sống này chỉ là một ảo ảnh, có đó rồi mất đó. Hiện hữu rồi tan vào hư vô. Sống chết là một ranh giới quá mỏng
manh. Cuộc sống chỉ là một ánh chớp. Tôi đóng cửa suốt ngày và cứ nghĩ về lẽ tử sinh. Và rồi số phận lại đổi thay, tôi
ngộ ra rằng những tham vọng, những ước mơ, những hoài bão, những cố gắng cuối cùng rồi cũng sẽ được chấm hết
bằng một cái chết do muôn ngàn bất trắc của đời sống. Thế thì ham danh vọng để làm gì, mải mê theo những ảo vọng
để làm gì? Tất cả thật ra rồi cũng chỉ là ảo ảnh. Và tôi buông tay, thả cuộc đời mình cho những con sóng của số phận. Tôi
bỏ lại tất cả và trở về Việt Nam
3. Tôi không dám về quê, cố bám lấy Sài Gòn. Tôi tìm gặp Nhân, hai đứa thuê chung căn phòng ở khu Trương Minh
Giảng. Tôi và Nhân bàn cách để tránh những người quen biết. Tôi để tóc, râu dài thậm thượt, Nhân cũng thế. Hai đứa
thường mang đôi kính đen, ban đêm thì mang kính đổi màu. Hàng tháng, tôi và Nhân viết thư gởi qua Pháp cho một
người bạn, anh này lại bỏ phong bì ngoài, gởi tiếp về Việt Nam cho ba tôi và ba Nhân. Và nhận những lá thư từ gia đình
gởi qua chặng Đà Nẵng – Pháp – Sài Gòn. Chúng tôi lại tiếp tục lừa dối và loay hoay trong lừa dối tự mình bày ra. Lúc
Nhân vừa bị dẫn độ về Sài Gòn, ông chủ tịch Tối cao Pháp viện, tức là bố của Thành, người bị Nhân giết chết bằng cú đá
oan nghiệt, đang chuẩn bị ra tranh cử dân biểu quốc hội. Không muốn bị báo chí phanh phui là có con theo Cộng Sản bị
giết chết nên ông này tìm mọi cách ỉm vụ đó đi. Nhân chỉ bị đưa ra tòa bí mật và kết luận là gây án ngộ sát trong tình trạng
thần kinh không bình thường, nên được trả tự do sau hai tháng giam giữ.
Được một người bạn du học Mỹ về đang làm Tổng cục trưởng, Nhân được bố trí làm việc ở Tổng cục gia cư, chuyên về
xây dựng. Khi tôi về, Nhân lại giới thiệu tôi vào làm với nhiệm vụ họa viên vẽ họa đồ. Để trốn khỏi đi lính, Nhân mua cho tôi
một cái giấy hoãn dịch vì lí do sức khỏe và hắn thì hoãn dịch vì gia cảnh. Cả hai đều là giấy giả. Đi làm lương cũng kha
khá đủ sống, nhưng hai thằng sống như hai thằng buôn thuốc phiện lậu, lúc nào cũng lén lén lút lút, cứ sợ gặp người
quen với gia đình và cũng phải trốn tránh bọn cảnh sát chìm nổi đầy mọi ngõ ngách. Cả hai trường hợp nếu bị phát giác
cũng đều đưa đến kết quả bi thảm cả. Thế mà tôi cũng phiêu lưu dám ghi danh học tiếp ở Đại học Văn khoa. Vừa làm
vừa học, dù ít khi có mặt ở giảng đường.
Từ đó, tôi cảm thấy mình an phận, chấp nhận số phận do mình chọn lựa. Nhưng hình như Nhân không nghĩ giống tôi. Có
rất nhiều khi Nhân không cười, không nói, lầm lì suốt cả tuần lễ, có lúc lại uống rượu đập bàn, đập vỡ li chén, uống say
mèm và khóc tức tưởi. Những lúc như vậy, tôi chỉ biết ngồi im vì ánh mắt của hắn lúc đó trông như ánh mắt của quỷ dữ,
như con thú bị dồn đến đường cùng. Có một điều lạ nữa là Nhân không bao giờ nhắc đến Dạ Lan lúc tỉnh táo, mặc dù tôi
biết Nhân nhớ thương nàng nhiều lắm. Nhưng cứ đến khi say, hắn khóc và réo mãi tên Dạ Lan. Khi tỉnh, nếu tôi vô tình
nhắc đến tên nàng, Nhân quắc mắt lên rất dữ tợn, riết rồi tôi chả bao giờ dám nhắc đến cái tên đó nữa. Hàng tuần, cứ mỗi
chiều thứ bảy khi đi làm về, Nhân lại mua một bó hoa lớn, vào nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, ngồi trước mộ Thành đến tối mịt
mới về. Tôi hiểu tâm trạng của Nhân nên cũng chẳng có ý kiến, nhưng tôi tự nghĩ, một cú đá đã giết chết cuộc đời của hai
người: cái chết tức thời của Thành và cái chết dai dẳng của Nhân. Cú đá đã làm cho cuộc đời của Nhân qua một ngã rẽ
để đi tới hố sâu thăm thẳm. Chúng tôi sống bình lặng chẳng có gì đáng kể như thế cho đến biến cố 30 tháng 4 năm 1975.