logo
Men for what watch? Watch, watch and call. A tool that is used for timing on breitling replica the wrist. Men wear watches what kind, starting from the basic color and size, have their own right watches, you can follow the watch's color, shape, value, occasions to carefully match their own clothing. For the choice of rolex replica a watch, the first to look at and their identity are consistent with a rural old people wear watches, a bit unrealistic, even if there is, it would have been too ostentatious. A Multi Millionaire owner, wearing a few hundred dollars of high imitation table also lost their identity, and even make friends on their own business is not good. In the formal social occasions, watches are often regarded as jewelry, for usually only ring a jewelry can be worn by rolex replica uk men is respected. Some people even stressed that: "the watch is not only a man's jewelry, but also men's most important jewelry." In western countries, watches, pens, lighters was once known as adult men "three treasures", is every man even for a moment can not be away from the body.

Chào mừng các bạn! Mong bạn Đăng nhập. Xin lỗi bạn, tạm dừng việc đăng ký mới.►Nhấn hình ảnh nhỏ sẽ hiện ảnh lớn ‹(•¿•)›

Thông báo

Icon
Error

Tùy chọn
Xem bài viết cuối Go to first unread
song  
#1 Đã gửi : 17/03/2013 lúc 11:18:30(UTC)
song

Danh hiệu: Moderate

Nhóm: Registered
Gia nhập: 21-02-2012(UTC)
Bài viết: 24,236

Cảm ơn: 1 lần
Được cảm ơn: 2 lần trong 2 bài viết
Đọc Nước Mắt Của Rừng, người đọc mới xót xa, hoài cảm vì giữa cuộc sống hiện đại đã mọc lên những hàng quán café, quán nhậu, cửa hàng điện thoại và các dịch vụ khác, người đọc không còn tìm thấy nhiều dấu vết hiền hòa, êm ả của buôn làng, không còn bếp lửa nhà sàn ấm áp, không còn tiếng chầy giã gạo ngoài sân, không còn tiếng mõ trâu, không cả những lũy tre làng vươn lên xanh ngát, có những chiếc lá tre rơi trong hiu hiu gió về...


Amai B’Lan là bút hiệu của một cô giáo từng dạy học thiện nguyện ở miền cao. Cô còn rất trẻ và dù chỉ dạy một quãng thời gian ngắn tại một buôn làng heo hút của miền Thượng du nhưng cũng đủ để cô thực hiện được ước mơ nhỏ bé của mình là viết ra tập bút ký mang một cái tên hết sức “miền Thượng”: Nước Mắt Của Rừng (*).


Đọc Nước Mắt Của Rừng, người đọc dễ nhận thấy ngay Amai B’lan viết về Tây nguyên với biết bao thiện chí chân thành như viết về cuộc đời mình: “Tôi mê cao nguyên không đơn thuần chỉ vì vẻ đẹp trinh khôi của nó, mà còn vì trong chuyến đi mạo hiểm đầu đời, tôi được những con người tốt bụng của cao nguyên đùm bọc khi sa cơ lỡ bước. Giờ đây, tôi muốn làm một cái gì đó cho vùng đất đáng yêu này.”


Tuổi 18 là lứa tuổi đẹp như bông hoa vươn lên quãng trời xanh bát ngát mà cũng là một lứa tuổi đầy lý tưởng, tuổi của phiêu lưu mạo hiểm từ trong máu. Đoạn cô tả cảnh thân gái dặm trường, một mình đạp xe đi từ Di Linh lên tận Kontum ròng rã suốt một tháng trời với biết bao may rủi dọc đường mưa nắng, đói khát, mệt mỏi... đủ thấy cô có duyên có nợ từ kiếp nào với cao nguyên đến trời đất cũng phải kinh động.


Với Amai B’Lan, Tây nguyên nói chung hay Cheo Reo, Phú Bổn, Ayunpa, Krông Pa nói riêng là quê hương đất nước, là buôn làng, mà cũng là chỗ dựa tinh thần của cô. Chỉ cần một không gian nhỏ bé là vùng đất hẻo lánh của Ayunpa và một quãng thời gian ngắn ngủi thôi cũng đủ sinh ra Amai B’Lan, đủ để tạo nên số phận cô, duyên nợ cô, con người và cuộc đời cô. Chính cuộc sống nội tâm đã thúc đẩy cô hướng về phía núi, nên qua một hoạt động mục vụ của nhà thờ cô tìm thấy niềm vui trong công việc dạy học để giúp cho các em người Jrai học tốt hơn, dạy cho các em biết phân biệt tốt xấu để tránh bị người đời lừa đảo.


Amai B’Lan đến với người Jrai hoàn toàn không mang theo hoài bão của con người thời đại, như cô nhỏ nhẹ phân trần “Không dám có ước muốn tìm hiểu một dân tộc thẳm sâu và lạ lùng trong quãng thời gian ngắn như thế”. Nhưng sâu trong một tâm hồn hiền hòa, chất phác như nương rẫy, Amai B’Lan đến với Tây nguyên bằng tinh thần thiện chí, bằng hơi thở, bằng nhớ thương, bằng nỗi ám ảnh trước cảnh đời không như cô mơ ước, người đọc mới cảm nhận tự đáy lòng cô dâng lên những gợn sóng u hoài. Chúng ta hãy nghe Amai B’Lan diễn tả tâm trạng này: “Tôi đã tới nơi cần tới sau nhiều ngày mơ tưởng về thủ phủ của người Jrai, về vùng đất của Pơtao Apui, về những căn nhà sàn đêm đêm bập bùng ánh lửa kể akhan, về một dân tộc có đời sống tâm linh vô cùng sâu sắc, nhưng sao cảm giác trong tôi thật lạ, có gì đó như là tan vỡ.”


Đọc Amai B’Lan, ta thường gặp những lời trần tình biểu hiện lòng biết ơn vô lượng những con người miền cao, cũng như cô bộc lô nhận thức một loại triết lý trăn trở, cảm thông về cuộc đời con người đã mất đất, mất cả chủ quyền. Chia sẽ nỗi trầm luân của người bản địa, Amai B’Lan thổ lộ: “Người Jrai đã từng là chủ vùng đất này (tên Gia Lai đọc từ chữ “Jrai” mà ra). Tổ tiên họ đã sống và đã chết ở đây. Họ có cách sống và văn hóa của riêng họ... Trên đầu họ là bầu trời tự do. Dưới chân họ là đất rừng linh thiêng. Họ sống như thế biết bao thế hệ. Mọi chuyện cứ diễn ra như thuở ban đầu cho tới khi người Kinh tới.”


Chính vì thế mà xuyên qua Nước Mắt Của Rừng, ta thấy cuộc sống của đồng bào miền núi đã bị đồng hóa vào đời sống thành thị đầy hỗn tạp, tục lụy, méo mó, chao đảo, ngụy tạo. Sau cơn bão thời thế, những cái đẹp, những cái bình dị, mộc mạc của con người thuần lương, cái hoang dại nên thơ, cái hào hùng cao cả... đã bị thay thế bằng những cái bi thương, những cái thấp hèn dung tục, cái ác tâm, ác tính. Rõ ràng là bầu không khí thiêng liêng và bí ẩn nằm sâu trong bản chất cuộc sống như biểu tượng tâm hồn dân tộc của đồng bào thiểu số đã hoàn toàn đảo lộn từ gốc rễ.


Tôi xa quê lâu rồi, có hơn nửa đời người chưa từng trở lại nên thầm tiếc cho cái khố thân yêu của người đàn ông Thượng và cái xà-gạc trên vai, hay cái eng truyền thống của người đàn bà Thượng với cái gùi trên lưng có còn theo họ lên rừng lên rẫy, ra chợ búa hay không. Còn những biểu tượng muôn thuở của đại ngàn như cái ná, cái tên, cái tù và có còn treo trên vách nứa? Còn nữa, con chim ông lão, con chim kơ-tia hay con chim ka-lơi có còn... tức tiếng hót của con chim hoàng anh mà hót vang trên rừng trên núi, và cả cái nai, cái hoẵng dễ gì tồn tại trên nương rẫy thân thương?


Đọc Nước Mắt Của Rừng, người đọc mới xót xa, hoài cảm vì giữa cuộc sống hiện đại đã mọc lên những hàng quán café, quán nhậu, cửa hàng điện thoại và các dịch vụ khác, người đọc không còn tìm thấy nhiều dấu vết hiền hòa, êm ả của buôn làng, không còn bếp lửa nhà sàn ấm áp, không còn tiếng chầy giã gạo ngoài sân, không còn tiếng mõ trâu, không cả những lũy tre làng vươn lên xanh ngát, có những chiếc lá tre rơi trong hiu hiu gió về. Amai B’Lan hết sức chua chát: “Người ta đã thay nhà sàn bằng nhà xây, vật dụng trong nhà cũng là của người Kinh. Giới trẻ thay cái váy truyền thống bằng quần jeans bó sát. Ở một góc của buôn, đàn ông tụ tập gầy sòng bạc, uống rượu và chửi tục. Người trong buôn nói: “Người Jrai bây giờ đã biết học theo người Kinh rồi. Con gái Jrai đã biết làm đĩ còn con trai đã biết ăn cắp rồi.” Chính những ấn tượng nặng nề đó đã ám ảnh Amai B’Lan, làm tâm hồn cô nghiêng xuống nỗi đau trước những nền tảng đạo đức lâu đời đã làm con người băng hoại.


Amai B’Lan, với tâm hồn hoài cổ luôn luôn nuối tiếc quá khứ, thiết tha với con người cũ, yêu mến mảnh đất thiên nhiên màu mỡ của núi của rừng. Chính vì lẽ đó, mang tâm trạng của nghệ sĩ với tất cả rung cảm chân thành, cô đã hết lòng làm cho rừng núi và những con người hoang dã này sống lại trong văn chương miền cao.
UserPostedImage
Ảnh: Trần Thị Trung Thu
Nhìn họ qua những trang giấy trắng, mực đen, người đọc còn có thể “chạm” vào quá khứ để gặp lại một vị thừa sai người Pháp đáng kính trọng là cha Jacques Dournes, người đã hy sinh một đời của mình để mang tình thương Thiên Chúa đến cho những người Thượng hoang sơ, điêu đứng khổ cực, áo quần lam lũ, ánh mắt thì xa xăm. Cũng xuyên qua những trang văn này, ta cũng có thể chuyện trò thân thiết với những con người thông tục như Mơai, Ama H’siu, Ami H’siu, Ơi H’hiam, chị H’nhao, bé H’mái… hoặc người già làng đại diện cho ý chí và quyền lực của cộng đồng sắc tộc, ngay cả những nhân vật tâm linh Pơtao nước (Thủy Xá), Pơtao lửa (Hỏa Xá)... là những con người sinh ra từ cuộc sống sơn lâm huyền bí.


Nhưng mà con người Amai B’Lan cũng lạ lắm. Lạ ở cái chỗ, bằng cái giọng cảm khái thâm trầm, cô đang rưng rưng kể cho chúng ta nghe về những nỗi buồn mênh mông trước cái thế thái nhân tình, rồi đột ngột như một thứ lịch sử sang trang, ta lại gặp, lại nghe cái giọng cà tửng như đùa cợt của cô, khi cô săng sái lên giọng kể về cách sống hòa mình với người bản địa. Hãy lật lại những trang đầu mà coi. Amai B’Lan đã để cho ngòi bút của mình hồn nhiên, thơ thới vẽ nên những con người một thời thuộc về hoang sơ rừng rú làm cho người đọc cảm giác rằng mọi vấn đề của đời sống miền núi vẫn cứ như xưa, sinh sống trong yên bình, tự tại.


Nhà văn trẻ tuổi của chúng ta sầu đời, giận đời, thương đời nhưng không căm hận cuộc đời. Là vì cái vẻ đẹp nhân bản của Amai B’Lan trong Nước Mắt Của Rừng chứa đựng một triết lý thuần khiết mà nồng nàn, thấm đượm một tinh thần lạc quan của phương Đông. Mặc dù cuộc sống hiện nay đã khiến cho mọi vẻ đẹp về tình người của người Jrai bị hao mòn, nhưng chính cái thiện mỹ của cô, dựa trên nền tảng lấy niềm tin hăm hở soi vào vùng hiu hắt nhất, tăm tối nhất để tạo cho sức sống con người một bộ mặt tươi sáng hơn, đáng yêu hơn.


Nước Mắt Của Rừng là tập bút ký đầu tay của Amai B’lan, qua đó, cô đã vẽ lại một bức tranh phong phú, vừa hoang dại nên thơ vừa khơi dậy một sức sống tiềm tàng của những người con của núi rừng đại ngàn mà tổ tiên của họ đã từng dũng cảm tranh đấu với thiên nhiên và thú dữ, bón vào lòng đất xương máu của mình để hình thành một Tây nguyên mênh mông, hùng vĩ như ngày nay. Chính vì thế, Amai B’Lan sống giữa nền văn minh cơ khí hiện đại, giữa ánh sáng phù phiếm của đô thị đầy vật chất cám dỗ vẫn không chi phối tâm hồn cô.


Ở Amai B’Lan, suốt một dẫy cao nguyên hùng vĩ đã được ngòi bút của cô khoanh lại thành một vùng đất hiu quạnh, nhỏ bé mang tên Ayunpa. Ở đó, đất pha cát mọc lên những chóp núi, những cụm rừng, những mái nhà cũ kỹ và những con người Jrai thật thà, chất phác bên cạnh những truyền thuyết, huyền thoại, sử thi, chuyện cổ tích dân gian vô cùng phong phú từ hình thể tới màu sắc.


Tập bút ký được chia ra nhiều tiểu đoạn, nhưng mỗi tiểu đoạn lại là một chuỗi tiếp nối như một bức phác họa bằng tư tưởng nghệ thuật đầy màu sắc và âm điệu, thể hiện niềm đam mê sáng tạo của tác giả mô tả nhiệt tình về cuộc đời, về tình thương, về con người du canh du cư vì thời thế mà trôi theo dòng đời phù vân, tụ tán, dở dang, luôn luôn mất mát, thua thiệt trước những “Yuăn”, những âm mưu toan tính của những loại người ác tính ác tâm.


Đọc Nước Mắt Của Rừng quả là có nhiều niềm vui, nỗi buồn như chính dòng đời trôi nổi những buồn vui, nhưng sáng tác của Amai B’Lan có tâm huyết tự sự bằng chữ nghĩa, đã thả trên trang giấy một thứ tình yêu da diết dành riêng cho những con người từng đến rồi đi, sống và chết trong niềm tự hào được làm người với ý nghĩa đích thực của nó.

Phan Ni Tấn
danlambaovn.blogspot.com
(*) Nước Mắt Của Rừng - Bút Ký của Amai B’Lan.
Tựa: Phan Ni Tấn. Nhân Ảnh Xuất Bản. Bìa và tranh: Khánh Trường. Trình Bày: Lê Hân & Tạ Quốc Quang.
Copyright @ 2013 by Trung Thu. ISBN: 978-0-9811982-9-3.
Ấn phí và bưu phí 15 M. K.
Sách có thể đặt mua theo địa chỉ sau:
Mr. Lê Hân
375 Destino Circle, San Jose, CA 95133
U.S.A or han.le3359@gmail.com
xuong  
#2 Đã gửi : 20/03/2013 lúc 09:17:36(UTC)
xuong

Danh hiệu: Moderate

Nhóm: Registered
Gia nhập: 21-02-2012(UTC)
Bài viết: 8,813

Cảm ơn: 1 lần
Được cảm ơn: 3 lần trong 3 bài viết
Lớp học Phùm Gi
UserPostedImage
Bút Ký của Amai B’Lan, tác phẩm "Nước mắt của rừng".
Hơn mười năm trước, báo Nhân Dân (số ra ngày 9 tháng 12 năm 2000) ái ngại đi tin:“Các dân tộc Ba Na, Cà Dong, Chu Ru, Cà Tu, Hà Nhì, Xê Đăng, Thổ Chỉ có từ hai đến ba học sinh đạt tiêu chuẩn. Đáng chú ý, mỗi dân tộc: Cơ Lao, Xtiêng, Giáy, Cơ-ho, Lào, La Chí chỉ có một học sinh đủ tiêu chuẩn cử tuyển vào học các trường đại học, cao đẳng.”

Mẩu tin ảm đạm (và hiếm hoi) thượng dẫn, ngó bộ, không tạo ra sự tin tưởng và an vui gì mấy cho những người dân đang sống trong một quốc gia Độc Lập – Tự Do – Hạnh Phúc. Và chắc vì thế, từ đó đến nay, không thấy những cơ quan truyền thông của nhà nước Việt Nam đề cập đến tin tức liên quan tới người dân bản địa (“được cử tuyển vào học các trường đại học”)như trước nữa.

Tuy thế, độc giả vẫn có thể đoán được cuộc sống, cũng như tình trạng học vấn của học sinh miền núi, qua nhiều nguồn thông tin khác:

- Ngày 15 tháng 1 năm 2013, vnexpress đi tin:”Trẻ em vùng cao phong phanh trong giá rét.Có em còn đi chân đất, mặc mỗi một chiếc áo mỏng tang.”

- Trước đó một hôm, hôm 14 tháng 1 năm 2013, báo Đất Việt cũng đã buồn bã cho hay: “Không có thức ăn, hết măng ớt, các em học sinh vùng cao phải dùng bẫy bắt chuột làm thức ăn chống rét.”

Đời sống có những nhu cầu theo theo thứ tự ưu tiên sắp sẵn: ăn - mặc, ăn - học... Ăn/mặc đều thiếu thốn như thế thì học/hành ra sao?
UserPostedImage
Viết nằm. Photo by Trần Thị Trung Thu
Câu trả lời có thể tìm được trong một lớp học ở thôn Phùm Gi, thuộc Tây Nguyên, qua cuốn bút ký Nước Mắt Của Rừng (*) của Amai B’Lan – một cô giáo trẻ, đến từ miền xuôi:

Phùm Gi cách buôn Nu khoảng sáu cây số thôi nhưng có tới hai kiểu đường. Hai cây số đầu là đường nhựa láng o, khoảng bốn cây số sau thì lởm chởm đá, ổ gà và mịt mù bụi bặm. Buôn nằm cạnh quốc lộ 25, bên cạnh con đường rách nát y như bản thân mình vậy. Đi ngang qua nhìn vào buôn, sẽ thấy những ngôi nhà sàn nhỏ bé đứng cạnh nhau, rúm ró, buồn bã và nín nhịn. Cả buôn có khoảng 70 nóc nhà. Chín mươi chín phần trăm là người Jrai và một gia đình người Kinh đến bán tạp hóa giữa làng...

Cũng như những buôn khác, Phùm Gi sống bằng nghề nông. Trước kia họ trồng lúa, còn bây giờ chuyển qua trồng mì vì mì có giá hơn. Họ cũng trồng thêm lúa, mè, bắp, hột dưa và nuôi bò dê tăng thu nhập. Nương rẫy Phùm Gi nằm bên kia sông Pa, dưới dãy núi cao ngất, vì đất bên này bán cho người Kinh hết rồi. Muốn lên rẫy, họ phải vượt sông bằng chiếc ghe nhỏ, hai tay hai mái chèo bơi đi như vịt, trông rất nguy hiểm.

Rẫy xa, bố mẹ đi làm từ sáng đến chiều mới về, mấy đứa nhỏ ở nhà tự tìm cái ăn. Nấu cơm được thì ăn, không thì chạy qua nhà hàng xóm ăn ké. Có bữa tôi thấy tụi nhỏ ăn xoài trừ cơm. Bí quá không kiếm được cái gì bỏ vào miệng thì nhịn. Ăn uống thất thường, thiếu chất, nên đứa nào đứa nấy cũng bụng ỏng đít beo, không lớn lên được mà cứ quắt lại.
Người Jrai thương con vô cùng nhưng lại không biết cách chăm sóc con cái. Họ để quần áo chúng rách rưới, đầu tóc dơ bẩn, mặt mày lem luốc. Mỗi chiều tắm xong, đám trẻ đứng trên những tảng đá cao ngóng bố mẹ từ bờ bên kia chèo về như những con chiên lạc không người chăn dắt...
UserPostedImage
Sinh hoạt vòng tròn. Photo by Trần Thị Trung Thu
Tối đến, tôi còn đang ăn dở chén cơm thì các em tới. Tất cả là 25 em cả trai lẫn gái, một con số khá ấn tượng trong buổi gặp đầu tiên. Đứa lớn nhất 19 tuổi và nhỏ nhất năm tuổi. Học cao nhất lớp tám và có tới một nửa chưa biết chữ là gì.

Các em tới, rất vô tư và tự nhiên ngồi xuống xung quanh tôi, líu lo như một đàn chim.

Các em tới vì biết hôm nay có người đến buôn của các em và dạy một cái gì đó, chỉ vậy thôi.

Các em tới với đôi mắt to tròn, đen láy và hàng lông mi cong vút lúc nào cũng mở ra nhìn tôi.

Các em tới, đi chân đất, mặc nguyên bộ quần áo còn ẩm ướt lúc chiều tắm bên sông Pa.

Các em tới với hai bàn tay trắng, thừa sự háo hức nhưng đầy vẻ ngại ngùng.

Chúng tôi ngồi bên nhau, làm quen và phác họa rất nhanh chương trình học. Một tuần sẽ học năm buổi. Từ thứ hai tới thứ sáu. Lúc bảy giờ đến chín giờ tối vì ban ngày các em đều bận đi chăn bò. Sau giờ học sẽ sinh hoạt vòng tròn, tập hát, kể chuyện hay chiếu phim tùy nhu cầu.

Tôi biết trong buôn các em yếu nhất hai môn toán và tiếng Việt nên chỉ tập trung dạy hai môn đó. Ban ngày tôi rảnh, ai cần học cứ tới, tôi dạy hết. Bọn trẻ khoái chí, vỗ tay rần rần và hẹn tối mai rủ thêm bạn tới.

Khi bọn trẻ về hết và chỉ còn lại một mình trong ngôi nhà trống trải, thì tôi tự hỏi chính mình:“Thế là lớp học của tôi bắt đầu thật rồi sao?” Bắt đầu mà chẳng có gì cả. Không bàn không ghế. Không phấn không bảng. Không sách vở bút viết. Đến cả ánh sáng cũng nhờ nhợ như một vì sao xa. Chúa ơi, Chúa đã dẫn con tới đây thì xin Chúa cũng hãy chỉ bảo cho con biết con phải làm gì nhé. Và Chúa đã nhận lời.

Ngài chỉ cho tôi biết việc đầu tiên là tôi hãy quá giang xe về Ia R’siơm vào sáng hôm sau để mua sách vở, bút viết cho bọn trẻ, sau đó về nhà ama tìm một tấm ván làm bảng. Tôi không quên mang theo ít thuốc Panadol phòng ốm đau. Anh Wiêng xung phong làm xe ôm chở tôi về lại Phùm Gi với bao nhiêu thứ lỉnh kỉnh trên người.
Qua tới nơi mới biết còn thiếu một thứ rất quan trọng, đó là bàn học. Thế là cô trò hì hục vác những tấm ván ở chuồng bò nhà ami H’hot ra sông Pa cọ rửa, lau khô. Tôi mượn ba cái ghế nhựa nhà ami H’hot làm trụ mà vẫn không đủ, liền mượn luôn cả cái cối giã gạo của nhà bên cạnh. Vậy là có những cái bàn ngon lành. Tưởng thế là ổn, ai dè học trò đông quá, lên tới 35 em, không có đủ bàn, thành thử, khoảng một phần ba lớp học phải nằm, quỳ hoặc bò ra mà viết. Học trò của tôi viết trên những cái bàn thô kệch ấy. Những dòng chữ ngoằn ngoèo, đôi khi dơ bẩn, tẩy xóa tùm lum, duy chỉ có đôi mắt là sáng như sao và sự chăm chỉ đến tê người. Nhìn học trò lăn lóc viết, tôi như chết lặng.

Ôi! Có nơi đâu đi kiếm con chữ mà khổ sở đến vậy không hả trời?

Tôi phát cho mỗi em một cây viết và một cuốn vở, bắt các em viết tên của mình vào vở, khi học xong tôi thu bút vở lại, kẻo bọn trẻ mang về xé vở làm diều hết. Bữa sau tới học, tôi lại phát ra. Thế là bảo toàn được lực lượng. Cứ nhìn gương mặt háo hức nhận vở của bọn nhóc mà thấy vui lây.

Có nhiều em chưa biết viết, phải nhờ mấy bạn lớn viết hộ tên. Người Jrai có nhiều cái tên đọc muốn méo miệng mà vẫn không trúng, tiếng Việt cũng không biết phải viết thế nào. Những em chưa biết viết không theo kịp anh chị lớp lớn, tôi cho ngồi riêng ra một góc rồi cầm tay tập viết cho từng đứa. Có cầm tay bọn nhóc, có đặt mũi vào mái tóc cháy nắng và bộ quần áo khét lẹt, lấm lem bùn đất và sực nức mùi phân bò của bọn nhóc, mới thấy xót xa cho các em. Còn bọn trẻ thì cứ nắm chặt bút, mím chặt môi viết như sợ từng chữ bay đi mất.

Học xong, tôi cho sinh hoạt vòng tròn. Từ trước đến giờ, chưa có ai đến với các em, dạy dỗ các em và cho các em chơi các trò chơi mà đáng lí tuổi của các em phải được chơi... Qua một ngày vất vả ngược xuôi, sau dãi dầu mưa nắng, thì giờ đây, các em được tha hồ sống thật với bản tính hồn nhiên vô tư của tuổi thơ. Các em không còn vẻ lam lũ của những đứa trẻ chăn bò nữa, mà thay vào đó là những gương mặt linh hoạt, nụ cười rạng rỡ và ánh mắt lung linh.

Tôi thích đứng một mình nhìn các em ra về sau khi giải tán, vì lúc đó, men chơi còn chất ngất, khiến đứa này chọc ghẹo đứa kia, để rồi cả đám đuổi bắt nhau, tiếng cười giòn tan như bắp nổ rộn rã trên đường làng. Bóng bọn trẻ khuất lấp trong màn đêm rồi đậu xuống dưới một mái nhà, mang theo vào giấc ngủ nụ cười trên môi. Hôm nay trăng sáng, tha hồ chơi, gần mười giờ rưỡi các em mới chịu về.

Mấy chục cái miệng thi nhau chúc tôi “pit hiam” (ngủ ngon) rồi ùa chạy đi trên con đường làng đầy ánh trăng, tiếng cười trong veo như nước suối cứ trầm bổng rồi tan theo núi rừng vào thinh không. Tối nào cũng có vài chục người chúc ngủ ngon. Không muốn cũng sẽ ngủ rất ngon, hỡi những thiên thần Jrai. (Amai B’lan. Nước Mắt Của Rừng. San Jose: Nhân Ảnh, 2013.)

Trong giấc ngủ, tất nhiên,những thiên thần Jrai có thể mơ đến một ngàyđược bước chân vào ngưỡng cửa đại học – một thứ đại học có tầm vóc quốc tế, theo như lời của người đại diện của hội đồng sáng lập Dự Án Đại Học Tư Thục Trí Việt (Tri Viet International University project) bà Tôn Nữ Thị Ninh:

“Gọi là trường quốc tế bởi vì sẽ dạy bằng tiếng Anh kể từ năm thứ 2, với lập luận rằng thanh niên Việt Nam thời hội nhập phải có tiếng Anh như là một ngôn ngữ làm việc của mình, ngoài tiếng mẹ đẻ...”

Tất nhiên, đây là một giấc mơ xa. Cũng xa vời (và mịt mờ) như cái chủ nghĩa xã hội mà Đảng và Bác (kính yêu) đã chọn. Tạm thời, ngày mai, khi vào lớp những các em hãy cứ nhẩn nha học phép toán xem 15 trừ 8 còn bao nhiêu (trướcđã) đểđỡ bị cái nạn hay bị người Kinh thối lộn tiền – khi đi mua muối!

Tưởng Năng Tiến

(*) Nước Mắt Của Rừng. Bút Ký của Amai B’Lan.Tựa: Phan Ni Tấn.Nhân Ảnh Xuất Bản. Bìa và tranh: Khánh Trường.Trình Bày: Lê Hân & Tạ Quốc Quang.Copyright @ 2013 by Trung Thu. ISBN: 978-0-9811982-9-3.Ấn phí và bưu phí 15 M.K. Sách có thể đặt mua theo địa chỉ sau:

Mr. Lê Hân

375 Destino Circle,San Jose, CA 95133

U.S.A or han.le3359@gmail.com
Source: RFA
song  
#3 Đã gửi : 03/04/2013 lúc 04:41:20(UTC)
song

Danh hiệu: Moderate

Nhóm: Registered
Gia nhập: 21-02-2012(UTC)
Bài viết: 24,236

Cảm ơn: 1 lần
Được cảm ơn: 2 lần trong 2 bài viết
Tôi đọc Nước Mắt của Rừng của Amai B’Lan

Có lẽ cuốn sách đầu tiên viết về người Tây Nguyên là cuốn của linh mục truyền giáo Pierre Dourisbourg, thường được gọi là cố An. Ông sinh ngày 19 tháng năm 1825, tại Briscans, miền Tây Nam nước Pháp, gần biên giới Tây Ban Nha.

Ông đã tình nguyện gia nhập Hội Truyền giáo Ba Lê và được phái vào hoạt động trong Địa phận Đàng Trong, tức Trung bộ Việt Nam để xây dựng một cơ sở truyền giáo nơi các dân tộc Thượng Du. Trong số các vị thừa sai cùng với cha Pierre Dourisbourg, đã không người nào sống sót quá 10 năm nơi những miền đất rừng thiêng nước độc chịu đựng mọi hiểm nguy như: thú dữ, bệnh tật, khó nghèo này. Vậy mà cha P. Durisbourg đã đứng vững được trong suốt 35 năm. Sau đó cha mang bệnh như sốt rét rừng, kiết lỵ và có thể nhiều tật bệnh khác do nước độc ảnh hưởng tới gan ruột nên chữa không khỏi phải về Pháp. Và khi tầu cập bến cảng Marseille được ít hôm thì cha qua đời ở tuổi 65.

Vào năm 1929, tức 39 năm sau ngày cha qua đời. Hội thừa sai Ba Lê mới cho ấn hành cuốn Hồi ký của cha mang tên: Les sauvages Banhars.

Cuốn hồi ký này sau đó đã được dịch sang Tiếng Việt với nhan đề: Dân Làng Hồ, nắm 1972. Tôi đã đọc xong cuốn Hồi ký này và phải thú nhận không khỏi xúc động về sự hy sinh vô bờ bến của các thừa sai đầu tiên đến Tây Nguyên..

Cuốn sách này chẳng những có giá trị tài liệu có một không hai về tập tục, tín ngưỡng về bệnh tật, về các thần linh, về con người, về sinh hoạt làm ăn của dân Tây Nguyên.

Nó còn giúp những người trí thức có thói quen xếp hàng chế độ thuộc địa đến Việt Nam song song với sự truyền giáo đạo Thiên Chúa Giáo ..Nó cho thấy rắng những vị truyền giáo này đến Tây Nguyên không phải với cái tâm địa xâm chiếm và vụ lợi. phục vụ cho chế độ thực dân Pháp vốn đến sau họ hơn hai thế kỷ..

Tôi ước mong cuốn sách này được in lại một cách đẹp đẽ và được phổ biến rộng rãi mà tôi xin trách nhiệm edited lại nó trong một văn phong dễ hiểu hơn và truyền cảm hơn sau hàng gần thế kỷ bị bỏ quên! Ước vọng này được gửi đến bất cứ ai quan tâm đến vấn đề này!!

Khi tôi viết những dòng này thì không hiểu Amai B’ Lan, tác giả Nước Mắt của rừng đã có cơ hội được đọc cuốn này chưa ? Nếu chưa thì xin liên lạc với anh Tưởng Năng Tiến để tôi gửi một bản photocopy biếu một tài liệu hiếm và quý giá này..

Cuốn sách thứ hai mới hơn- Có nhan đề Miền đất huyền ảo của cha Jacques Dournes- Các dân tộc miền núi Nam Đông Dương- Populations montagnardes du Sud- 1950, do nhà văn bất đồng chính kiến Nguyên Ngọc dịch..Cuốn sách này chắc có thể kiếm được không mấy khó khăn ở Sài Gòn, nếu muốn. Cũng xin có lời trân trọng gửi đến nhà văn Nguyên Ngọc mà đôi lần tôi được dịp nói chuyện với ông.

Tất cả hai cuốn trên về giá trị tài liệu sống thực- tài liệu đầu nguồn- về con người Tây Nguyên thật vô giá!! Mà tôi nghĩ bất cứ ai cũng nên tìm đọc để hiểu rõ những người anh em thiểu số mà theo tác giả Amai B’Lan thì hiện nay họ đang bị hủy hoại bởi những tham vọng du lịch sinh thái làm biến chất họ..

Thật đau xót cho họ và vì thế mới có: Nước mắt của rừng.

Nếu các vị thừa sai thống hiểu được những nỗi khốn cùng của người dân Tây Nguyên thì nay Ami B’Lan hiểu được nỗi khốn khổ biến chất của họ,.

Phần tài liệu thứ ba đã được tiểu thuyết hóa qua nhà văn Nguyễn Huy Thiệp mà rất nhiều truyện tôi đánh giá là về giá trị hư cấu là tuyệt vời như trong các truyện ngắn như:Những Ngọn gió Hua Tát, Truyện tình kể trong đêm mưa. Trong câu truyện này của Nguyễn Huy Thiệp- do làm giáo viên trên chợ Muong La..Đọc truyện này về sự trả thù của người dân miền Sơn cước, tôi không biết có chuyện nào hay hơn được thế không?

Về các chuyện của NHT, độc giả có thể tìm đọc trong các tuyển tập: Truyện ngắn NHT, Tác phẩm và dư luận..vv..

Khi nghe anh Tưởng Năng Tiến và Phan Ni Tấn giới thiệu Nước Mắt của Rừng thì dù lúc đó chưa có tác phẩm trong tay, tôi đã vội mừng, vì tôi nghĩ, nó đã đáp ứng một số điều suy nghĩ của tôi bấy lâu nay.

Tôi đã có cơ hội đọc hai tác giả ở trên, nhưng chưa bao giờ được có cơ hội sống giữa núi rừng cao nguyên- để có một kinh nghiệm hiện sinh- về những người anh em thiểu số. Tôi vẫn thích câu nói: Hãy cầm lấy mà đọc vả tự mình đánh giá cuốn sách mỏng- không thể gọi là chuyện- của một tấm lòng của một cháu gái 18 tuổi- nhẹ nhàng và dàn trải tâm sự trong nỗi bất lực- muốn đánh thức lương tâm con người thời đại.

Tôi nhắc cháu gái là Jacques Dournes không phải là vị thừa sai đầu tiên đến Tây Nguyên. (Trang 93 trong sách Nước Mắt cùa rừng). Người đầu tiên được phái đến truyển giáo cho các dân tộc Ba-na là các cha Combes và cha Fontaine và Pierre Bourisboure. Đặc biệt có thày Sáu Do, người Việt Nam..Trong chương I có ghi như sau: Những toan tính đầu tiên để thiết lập cơ sở truyền giáo nơi các dân tộc Thượng. Cuộc hành trình khảo sát của thầy Sáu Do.

Les sauvages Bahnars, Dân Làng Hồ, tác giả, LM Pierre Dousiboure, trang 5.

Trong khi đó cách viết của Jacques Dourmes sau này mang đậm nét nghiên cứu, suy luận, phóng chiếu vào nếp sống Tây Nguyên để định chế và hệ thộng hóa các xã hội nguyên sơ như trong các nghiên cứu tiếp theo sau này như: Tôn gíao của người miền núi vùng Đồng Nai Thượng hay Rừng, đàn bà, điên loạn, hành trình qua miền mơ tưởng Gia Rai.

Có thể nói Jacques Dourmes mang tính cách học giả hơn là một nhà truyền giáo.

Tôi đọc xong Nước Mắt của Rừng trong một chuyến đi ngắn ngày bên Hoa Thịnh Đốn và nhận một thùng sách nhỏ cũng tại nơi đấy.

Đọc xong tập sách mỏng, gấp sách lại, tôi cảm thấy một cái gì nhẹ nhõm len vào tâm hồn. qua những dòng tâm bút của một cô gái trẻ. Và như tác giả viết trong phần kết luận: Tôi thấy mình đang trôi đi trên một dòng sông, hai bên bờ, người Jrai mỉm cười vẫy tay chào.

Và một lời chót, tôi cũng muốn đóng góp một cách khác người trong chuyện ngắn mang vóc dáng Tây Nguyên trong câu chuyện Dì Xinh. Ai thích thì tìm đọc.

© Nguyễn Văn Lục

Ai đang xem chủ đề này?
Guest
Di chuyển  
Bạn không thể tạo chủ đề mới trong diễn đàn này.
Bạn không thể trả lời chủ đề trong diễn đàn này.
Bạn không thể xóa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể sửa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể tạo bình chọn trong diễn đàn này.
Bạn không thể bỏ phiếu bình chọn trong diễn đàn này.

Powered by YAF.NET | YAF.NET © 2003-2024, Yet Another Forum.NET
Thời gian xử lý trang này hết 0.213 giây.