Giá trị phổ quát và vĩnh cửu của bản tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền (10/12/1948)
Sau 3 năm chuẩn bị, ngày 10 tháng 12 năm 1948, Bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền (The Human Rights Declaration) đã
được Ðại Hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua, với 48 phiếu thuận, không có phiếu chống nào, duy chỉ có Liên Xô cũ, Saudi
Arabia và Nam Phi từ chối bỏ phiếu. Tiến sĩ Herbert, Chủ tịch phiên họp Ðại Hội đồng Liên Hiệp Quốc lúc bấy giờ đã nhận xét,
rằng “Lịch sử sẽ ghi nhận Bản Tuyên ngôn này như là một trong những thành tựu nổi bật của Liên Hiệp Quốc.”
Như vậy là đã 67 năm qua (1948-2015), Bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền đã cho thấy một giá trị phổ quát và vĩnh cửu.
Bởi vì Bản Tuyên ngôn ấy đã thể hiện một chân lý được khẳng định trong phần mở đầu, rằng “Mọi thành viên trong gia đình
nhân loại đều có nhân cách, có quyền bình đẳng bất khả chuyển nhượng. Sự công nhận nhân cách và các quyền này là nền
tảng của tự do, công chính và hoà bình trên thế giới”; và rằng “mọi sự coi thường và khinh thị nhân quyền đều đưa đến những
hành động dã man, xúc phạm đến lương tâm nhân loại và ước vọng về một thế giới mà mọi người đều được hưởng tự do
ngôn luận, tín ngưỡng và không bị đe dọa, bởi đã được tuyên bố đó là khát vọng cao cả nhất của loài người”.
Trong 30 điều khoản của bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, đã đưa ra được những nguyên tắc và liệt kê các nhân quyền
và dân quyền có giá trị như một Bản Hiến pháp Quốc tế mà các quốc gia hội viên có nghĩa vụ phải tuân thủ trong việc tôn
trọng, bảo vệ và hành xử các nhân quyền căn bản.
Tuy nhiên, trên thực tế, từ quá khứ đến hiện tại, vẫn còn nhiều quốc gia không tuân thủ các điều khoản của Bản Tuyên ngôn
Quốc tế Nhân quyền. Ðó là các quốc gia có chế độ độc tài phản dân chủ các kiểu, điển hình như chế độ độc tài đảng trị kiểu
cộng sản ở Việt Nam; hay các chế độ độc tài tôn giáo tại một số nước Trung Đông; hoặc chế độ độc tài quân phiệt ở Miến
Ðiện trước đây, nay đã chuyển đổi qua chế độ dân chủ đa đảng...Tất cả các kiểu chế độ độc tài này, dù là thành viên Liên
Hiệp Quốc, có trách nhiệm tuân thủ Bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, song thực tế các nhà cầm quyền vẫn thách thức
công luận bằng những hành vi xâm phạm trắng trợn nhân quyền và các dân quyền căn bản.
Ðến đây một câu hỏi được đặt ra là vì sao chính quyền trong các chế độ độc tài tại các kiểu lại dám thách thức công luận như vậy?
Câu trả lời tổng quát, theo thiển ý của chúng tôi, là vì 30 điều khoản của Bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền chỉ liệt kê các
quyền mà không dự trù các biện pháp chế tài hữu hiệu. Trên thực tế, các biện pháp chế tài đối với các chính quyền vi phạm
nhân quyền thường là đều xuất phát từ các cường quốc có ảnh hưởng hay Liên Hiệp Quốc, vốn là tổ chức mà các cường
quốc chiếm ưu thế tuyệt đối (với quyền phủ quyết). Sự chế tài này thường là các áp lực mạnh hay yếu lại tùy thuộc vào mục
đích vụ lợi song phương hay đa phương của các cường quốc.
Tỷ như những áp lực của Hoa Kỳ đối với các hành động vi phạm nhân quyền bao lâu nay của chế độc độc tài toàn trị tại Việt
Nam, thường chỉ là biện pháp được sử dụng như một phương cách để đạt được một lợi ích kinh tế, chính trị, ngoại giao, quân
sự nào đó cho Hoa Kỳ. Cộng sản Việt nam chỉ cần đáp ứng phần nào hay tất cả lợi ích này cho Hoa Kỳ là họ có thể an tâm
tiếp tục đàn áp nhân dân, chà đạp nhân quyền, nhân danh cái gọi là “vấn đề nội bộ của Việt nam”. Vì vậy, sự kết án của Hoa
Kỳ hay quốc tế nếu không đi kèm với biện pháp chế tài triệt để và hữu hiệu, thì vẫn chỉ mang tính hình thức, chiếu lệ, không có
mấy hiệu quả thực tế.
Thực tế là tại Việt Nam, từ lâu nay nhà cầm quyền vẫn ngang nhiên xâm phạm các quyền dân chủ, dân sinh và nhân quyền, dù
Hoa Kỳ và quốc tế bao lâu nay đã nhiều lần lên tiếng phàn nàn, kết án, cảnh cáo, kèm theo những biện pháp pháp lý, hành
chánh, kinh tế… cũng chỉ có tác dụng nhẹ nhàng, đủ xoa dịu sự phẫn nộ của công luận và nếu có hiệu quả thì quá lắm cũng
chỉ buộc được Việt cộng lùi một bước (thả một số tù chính trị…) để đối lấy một lợi ích giai đoạn nào đó , hơn là vì lợi ich tự
do dân chủ lâu dài cho nhân dân Việt Nam.
Thực tế là tại Việt Nam, ngay cả sau khi được kết nạp vào TPP, với nhiều điều kiện ràng buộc về dân quyền và nhân quyền (tự
do thành lập công đoàn, tổ chức xã hội dân sự…), nhưng nhà cầm quyền cộng sản vẫn thẳng tay bắt bớ, giam cầm và đầy ải
các nhà đấu tranh cho các quyền tự do chính trị và tôn giáo trong các nhà tù và các trại tù trá hình gọi là “Trại Cải tạo” được
thiết lập trên toàn cõi Việt Nam.
Đứng trước thực tế này, về phần mình, người Việt Nam yêu chuộng tự do, dân chủ ở hải ngoại cũng không biết làm gì hơn là
đẩy mạnh các cuộc đấu tranh hổ trợ cho các nhà đấu tranh cho dân chủ trong nước, bằng cách lên tiếng tố cáo và báo động
trước công luận quốc tế về các hành động vi phạm tự do, dân chủ và nhân quyền của nhà cầm quyền Việt Nam.
Tựu chung, dù thực tế có thế nào chăng nữa, thì Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền vẫn mang giá trị phổ quát và vĩnh
cửu. Vì đó là chân lý muôn thuở của loài người, có giá trị qua mọi thời đại, vượt không gian và thời gian. Tuy nhiên, ngày nào
Liên Hiệp Quốc và các cường quốc không có được những biện pháp chế tài hữu hiệu, vẫn sẽ không ngăn chặn được các
chế độ độc tài vi phạm tự do, dân chủ và nhân quyền trên hành tinh này, tức là vi phạm Bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền
vậy.
Điển hình là Cộng sản Việt Nam, sở dĩ vẫn ngang nhiên tiếp tục các hành vi đàn áp tôn giáo, tiêu diệt đối lập chính trị và các
nhân quyền căn bản như từ bao lâu nay, chính là vì thực tế Hoa Kỳ nói riêng, cộng đồng quốc tế nói chung, có thể vì những
lợi ích và toan tính khác, nên chưa có những biện pháp chế tài triệt để, hữu hiệu và chưa thể hiện quyết tâm thực hiện các
nguyên tắc và các điều khoản của Bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, vì lợi ích của nhân loại nói chung, nhân dân Việt Nam
và các nước sống dưới ách các chế độ độc tài nói riêng.
Thiện Ý (VOA)
_______________
Chú thích:
38 năm trước đây, sau khi Cộng sản Bắc Việt cưỡng chiếm Miền Nam, vi phạm Hiệp định Paris ngày 27-1-1973 về chấm dứt
chiến tranh lập lại hòa bình cho Việt Nam, chúng tôi và một số anh em khác cùng chung lý tưởng, đã sớm thành lập Mặt trận
Nhân quyền Việt Nam trong ý hướng trường kỳ đấu tranh chủ yếu bằng vũ khí nhân quyền cho mục tiêu chống độc tài, dân chủ
hoá đất nước, phù hợp với chiếu hướng chiến lược toàn cầu mới, hậu “Chiến tranh Lạnh”của các cường quốc.
Trong nhiệm vụ Ủy viên Nghiên huấn của Mặt trận Nhân quyền Việt Nam, chúng tôi đã được giao trách nhiệm khởi thảo bản
Tuyên Ngôn Nhân Quyền Việt Nam 1977. Tuyên ngôn Nhân quyền này đã được công bố đúng vào ngày 10-12-1977 là ngày
bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền được Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua. Chúng tôi còn nhớ, phần mở đầu của
bản tuyên ngôn này đã viết:
“Khẳng định rằng, con người sinh ra có quyền sống và phải được sống xứng đáng với nhân phẩm và cương vị của một con
người.
“Sống xứng đáng với nhân phẩm và cương vị của một con người, là con người không phải chỉ sinh ra để được sống như một
con vật mà còn có yêu cầu khẩn thiết hơn là phải được sống và sống tự do.
“Sống tự do là mọi người, không phân biệt giai tầng xã hội, sắc tộc, tôn giáo, phải được tôn trọng, bảo vệ và hành xử những
nhân quyền căn bản đã được ghi trong bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền và Hiến chương Liên Hiệp Quốc: Quyền tự do
chính trị, tự do kinh tế, tự do cư trú và vãng lai, tự do tư tưởng bao gồm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, ngôn luận v.v….
“Bởi vì tự do và con người là một thực thể bất khả phân, có con người là phải có tự do, thiếu nó con người sẽ sống trong lo
âu, sầu tủi và nhân phẩm bị hạ thấp ngang tầm loài vật.
“Tiếc thay, một dân tộc đã và đang phải sống ngang tầm loài vật, đó là dân tộc Việt Nam. Bởi vì dân tộc này đã và đang phải
sống dưới chế độ độc tài đảng trị của những người Cộng sản Việt Nam, duới chế đô này mọi nhân quyền và dân quyền căn
bản đã bị chà đạp hay bị tước đoạt..”.
Những dòng cuối cùng của Bản Tuyên ngôn viết:
“…Như một quy luật, ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh; và rằng một chế độ thiết lập bằng bạo lực, duy trì bằng bạo lực,như
chế độ độc tài đảng trị đương thời tại Việt Nam, thì sớm muộn cũng sẽ bị hủy diệt do tự bản chất và do sức mạnh vùng lên
của những con người bị áp bức, bóc lột.”