logo
Men for what watch? Watch, watch and call. A tool that is used for timing on breitling replica the wrist. Men wear watches what kind, starting from the basic color and size, have their own right watches, you can follow the watch's color, shape, value, occasions to carefully match their own clothing. For the choice of rolex replica a watch, the first to look at and their identity are consistent with a rural old people wear watches, a bit unrealistic, even if there is, it would have been too ostentatious. A Multi Millionaire owner, wearing a few hundred dollars of high imitation table also lost their identity, and even make friends on their own business is not good. In the formal social occasions, watches are often regarded as jewelry, for usually only ring a jewelry can be worn by rolex replica uk men is respected. Some people even stressed that: "the watch is not only a man's jewelry, but also men's most important jewelry." In western countries, watches, pens, lighters was once known as adult men "three treasures", is every man even for a moment can not be away from the body.

Chào mừng các bạn! Mong bạn Đăng nhập. Xin lỗi bạn, tạm dừng việc đăng ký mới.►Nhấn hình ảnh nhỏ sẽ hiện ảnh lớn ‹(•¿•)›

Thông báo

Icon
Error

Tùy chọn
Xem bài viết cuối Go to first unread
song  
#1 Đã gửi : 31/01/2016 lúc 11:13:42(UTC)
song

Danh hiệu: Moderate

Nhóm: Registered
Gia nhập: 21-02-2012(UTC)
Bài viết: 24,156

Cảm ơn: 1 lần
Được cảm ơn: 2 lần trong 2 bài viết
Bài 1: Về chủ nghĩa tư bản thân hữu
Vài lời phi lộ: Mặc dù chủ đề “xã hội dân sự và chế độ dân chủ” vẫn còn nhiều điều cần bàn tiếp, tôi xin tạm dừng lại để trình bày về “Tư bản thân hữu và Cộng sản thân hữu” - một chủ đề nóng bỏng liên quan đến cuộc đấu tranh giữa hai phái chính trị trong Đảng Cộng sản Việt Nam suốt nhiệm kỳ XI vừa qua, và trong thời gian sắp tới có lẽ vẫn còn tiếp tục nằm ở hàng đầu chương trình nghị sự của Bộ Chính trị mới...


Bài viết của ông Vũ ngọc Hoàng (Phó ban Thường trực Ban Tuyên giáo khóa XI) nhan đề “Lợi ích nhóm và chủ nghĩa tư bản thân hữu - cảnh báo nguy cơ”được đăng trên Tạp chí Cộng sản số 872 (tháng 6 năm 2015), trong mục “Hướng tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng”. Nhìn vào tiêu đề, độc giả có thể thấy hai cụm từ khác nhau: “lợi ích nhóm” và “chủ nghĩa tư bản thân hữu”. Như tôi đã trình bày trong bài “Nhóm lợi ích là gì?”[1], “lợi ích nhóm” thật ra là một khái niệm hoàn toàn khác đã bị giới lý luận cộng sản và các trí thức cung đình gọi nhầm tên. Bây giờ chúng ta chuyển sang tìm hiểu cụm từ thứ hai: chủ nghĩa tư bản thân hữu.


Từ tình thân hữu thông thường đến Chủ nghĩa Thân hữu (Cronyism) trong chính trị:


Trước hết, cần phải khẳng định: tình thân hữu vốn là điều tốt đẹp. Đó là mối quan hệ đáng trân trọng giữa người và người - nhất là trong lĩnh vực xã hội dân sự. Thế nhưng một khi “tình thân hữu” được áp dụng vào lĩnh vực chính trị - nhất là công quyền, thì nó có thể trở thành một căn bệnh, một tệ nạn có khi làm băng hoại cả một chế độ.


Trong tiếng Anh, crony có nghĩa là “bạn bè thân tín”, “cộng sự lâu năm”, nói theo ngôn ngữ dân gian là “bạn bè chí cốt”, “cánh hẩu”[2]. Nhưng cronyism (chủ nghĩa thân hữu) trong lĩnh vực chính trị lại là một thói xấu, một tập quán không lành mạnh. Đó là thói quen “trọng dụng người thân quen”, là tập quán của những người nắm quyền lực thích bổ nhiệm bạn bè, người quen biết của mình vào các chức vụ công quyền, không quan tâm gì đến phẩm chất, năng lực của người được cất nhắc. Thói xấu chính trị này hoàn toàn đi ngược lại với chế độ trọng dụng nhân tài (meritocracy). Chủ nghĩa thân hữu thu hẹp hơn một chút thì biến thành chủ nghĩa thân tộc (nepotism) - ở nước ta thường được gọi là thói gia đình trị, nghĩa là chỉ cất nhắc, trọng dụng những người bà con, thân thích trong gia đình, dòng họ.


Sở dĩ phải nói đến Chủ nghĩa thân hữu trong chính trị vì đây là một nguồn gốc của nạn tham nhũng và có liên hệ chặt chẽ với Chủ nghĩa Tư bản thân hữu mà chúng ta sắp bàn đến. Ở các quốc gia dân chủ, để phòng ngừa căn bệnh này, người ta thường đặt ra những nguyên tắc, những quy định rất chặt chẽ trong việc bổ nhiệm các chức vụ công quyền. Nhưng ở các nước độc tài – nhất là các nước cộng sản phương Đông, căn bệnh này thường có đất tốt để phát triển. Thường thì ở các quốc gia cộng sản phương Đông, để bảo đảm lòng trung thành của các đảng viên, người ta đặt nặng chủ nghĩa lý lịch - nhất là lý lịch gia đình, có khi đến ba đời. Vì vậy, mỗi khi một người được thông qua lý lịch để kết nạp vào đảng cầm quyền thì những người khác trong gia đình, thậm chí trong dòng họ, cũng được hưởng chút “hương thơm lý lịch”, nghĩa là dễ dàng được đưa vào diện “trung kiên”, “đối tượng đảng” và dễ dàng được kết nạp vào đảng. Vì thế, cũng tương tự như ngày xưa (một người làm quan cả họ được nhờ) ngày nay “một người vào đảng cả họ cũng được nhờ”. Do kế thừa di sản từ truyền thống làng xã (thời phong kiến và nhất là thời quân chủ tập quyền), có khi cả một xã chỉ nằm trong tay một hay vài ba họ - từ các chức vụ đảng đến các chức vụ trong chính quyền. Ở bất cứ địa phương nào, việc người thân trong gia đình phụ trách cả cơ quan thi hành quyền lực lẫn cơ quan kiểm soát quyền lực, hay chuyện chồng cấp trên vợ cấp dưới trong cùng một ngành chẳng hề là chuyện lạ ở nước “cộng hòa của các đồng chí” này. “Tình thân hữu” phát triển trong tầng lớp “ưu tú” của chế độ cộng sản mạnh đến mức ở bất cứ cấp lãnh đạo nào, chúng ta cũng thấy xuất hiện các danh xưng thân mật như Anh Hai, Chị Ba, Anh Tư, chị Năm, v.v… thể hiện “tính chất gia đình” ở mỗi đảng bộ hay mỗi cấp ủy.


Cho nên tôi hơi ngạc nhiên khi thấy gần đây các cán bộ cao cấp của Đảng và báo chí bỗng nhiên la toáng lên về chuyện lãnh đạo đưa bà con thân thích vào chức vụ này chức vụ kia, làm như chuyện này xưa nay chưa hề có trên đất nước Việt Nam “xã hội chủ nghĩa”. Có thể vì ngày nay chủ nghĩa thân hữu hay chủ nghĩa thân tộc đã trở nên quá trắng trợn, hay là vì sự phát triển của Internet và mạng xã hội khiến người ta khó lòng giấu giếm, che đậy nên mới có những tiếng kêu hốt hoảng. Nhưng làm sao có thể dẹp bỏ được thói quen sử dụng thân hữu trong chính trị hay tệ nạn gia đình trị một khi lý lịch gia đình, dòng họ vẫn được đưa lên hàng đầu? Chúng ta có thể tin rằng một khi chủ nghĩa lý lịch bị vứt vào sọt rác, và nhất là khi độc quyền lãnh đạo của một đảng chính trị mất đi, thì chủ nghĩa thân hữu và chủ nghĩa thân tộc sẽ có cơ hội chào từ giã nền văn hóa chính trị của đất nước ta.


Bản chất của nhà tư bản thân hữu:


Từ ý nghĩa ban đầu của crony (bạn bè thân tín, cộng sự lâu năm), đã phát sinh thêm một ý nghĩa mới khi crony được dùng để chỉ một nhà “tư bản thân hữu”, nghĩa là một nhà tư bản “thông đồng”, “móc ngoặt” với một quan chức trong chính quyền để tìm kiếm lợi ích cho riêng mình, bất chấp lợi ích chung của toàn xã hội. Trong tiếng Anh, không có từ nào dùng để chỉ một “nhóm tư bản thân hữu”, mà chỉ có từ cronies (số nhiều) dùng để chỉ nhiều nhà tư bản thân hữu. Hiện tượng “tư bản thân hữu” trong tiếng Anh có tên là crony capitalism (chủ nghĩa tư bản thân hữu), người Pháp dịch thành capitalisme de connivence (chủ nghĩa tư bản thông đồng).


Sự khác nhau căn bản giữa các nhà tư bản thông thường và các nhà tư bản thân hữu là ở chỗ: trong khi nhà tư bản thông thường là người tìm kiếm lợi nhuận (profit-seeking) thì nhà tư bản thân hữu là người tìm kiếm đặc lợi (rent-seeking). Lợi nhuận (profit) là đồng tiền kiếm được bằng cách sản xuất, kinh doanh thật sự: nhà tư bản làm ăn chân chính tìm lợi nhuận bằng cách làm cho của cải tăng lên hoặc làm cho dịch vụ có phẩm chất cao hơn. Còn các nhà tư bản thân hữu thì không làm như thế (không làm cho của cải tăng lên, cũng không làm cho dịch vụ tốt hơn) mà trái lại, dựa vào mối quan hệ “thân hữu”, “nồng ấm” với các quan chức trong chính quyền để tìm kiếm “đặc lợi” – tức là cái mà hiện nay báo chí thường gọi là “siêu lợi nhuận”.


Theo David R. Henderson, từ “rent” do nhà kinh tế học David Ricardo (1772-1823) đưa vào kinh tế học, dùng để chỉ “khoản tiền phải trả cho một yếu tố của sản xuất nhiều hơn so với yêu cầu nhằm giữ cho yếu tố đó được sử dụng trong hiện tại”. Thuật ngữ này thường được dùng để chỉ tiền thuê đất (“land rent” hay “ground rent”, địa tô), về sau được dùng rộng hơn cho cả tiền thuê bất động sản. Nhưng ngày nay, “rent-seeking” không có nghĩa là là tìm kiếm một thứ tiền thuê. Các nhà kinh tế học thời nay sử dụng thuật ngữ này để mô tả việc các nhà tư bản thân hữu thông đồng với các quan chức trong chính phủ để tìm kiếm những “đặc lợi” như: miễn giảm thuế, vay vốn ưu đãi, nhận tài trợ của chính phủ hay các hình thức ưu đãi, khuyến khích khác, … Như vậy, nghĩa hiện đại của “rent-seeking” là “tìm kiếm đặc lợi”, “tìm kiếm đặc ân” (privilege seeking).[3] Và lẽ dĩ nhiên, muốn làm được điều đó, nhà tư bản thân hữu phải tìm đến người có “đặc quyền”. Đó chính là nguồn gốc của nạn tham nhũng.


Nói một cách dễ hiểu, thực chất của tìm kiếm đặc lợi là “tự cắt cho mình một lát bánh lớn hơn thay vì làm cho cái bánh lớn hơn” hoặc “tìm mọi cách để có nhiều tiền hơn mà không sản xuất nhiều hơn cho khách hàng.” Cho dù là hợp pháp hay bất hợp pháp, các hoạt động tìm kiếm đặc lợi có thể đem lại những tổn thất lớn cho một nền kinh tế bởi vì chúng không tạo ra bất kỳ giá trị nào mà ngược lại, các hoạt động đó gây thiệt hại cho người tiêu dùng và cho toàn xã hội, chỉ có lợi cho một nhóm nhỏ những nhà tư bản thân hữu và những quan chức chính quyền tiếp tay cho họ.


Tóm lại, tư bản thân hữu không phải là một tư tưởng hay một học thuyết, cũng không phải là một hình thái kinh tế-xã hội, mà là một hiện tượng tiêu cực, một căn bệnh xảy ra trong nền kinh tế thị trường có liên quan đến tệ nạn tham nhũng, hối lộ. Hiện tượng tư bản thân hữu có thể xảy ra ở bất cứ quốc gia nào, kể cả những quốc gia có chế độ dân chủ thành thục, bền vững. Nhưng tư bản thân hữu chỉ được gọi tên là chủ nghĩa tư bản thân hữu (crony capitalism) một khi nó trở thành một tệ nạn quốc gia - nghĩa là chi phối cả một nền kinh tế hay ít nhất là chi phối một số ngành kinh tế trọng điểm.



Gs. Luigi Zingales
Một trong những người đấu tranh quyết liệt chống lại chủ nghĩa tư bản thân hữu là nhà kinh tế học người Mỹ gốc Ý tên là Luigi Zingales - hiện là giáo sư tại Trường Kinh doanh Chicago Booth (Chicago Booth School of Business) thuộc Đại học Chicago. Di dân sang Hoa Kỳ từ năm 1988, ông đã từng chứng kiến quê hương ông (nước Ý) trở thành nạn nhân của chủ nghĩa tư bản thân hữu, dẫn đến tình trạng đình đốn kinh tế và nạn tham nhũng trầm trọng – đặc biệt là dưới thời trị vì của cựu Thủ tướng Silvio Berlusconi. Lo ngại Hoa Kỳ sẽ dẫm vào bước chân của nước Ý, ông đã công bố hai tác phẩm quan trọng: Saving Capitalism from the Capitalists (Cứu chủ nghĩa tư bản từ tay các nhà tư bản, 2003) và A Capitalism for People: Recapturing the Lost Genius of American Prosperity (Một chủ nghĩa tư bản vì nhân dân: Phục hồi thiên tài đã mất của sự thịnh vượng Mỹ, 2012).


Về lý do đấu tranh chống lại chủ nghĩa tư bản thân hữu, Zingales nói: “Chủ nghĩa thân hữu (cronyism) đã cướp đoạt của quê hương tôi phần lớn tiềm năng để tăng trưởng kinh tế. Tôi không muốn nó lại ăn cướp của Hoa Kỳ.” Nhưng không phải chỉ vì lý do kinh tế. Ông nói tiếp: “Còn tệ hơn mất tiền, là việc mất tự do: bởi vì chủ nghĩa thân hữu đàn áp tự do ngôn luận, loại bỏ động cơ nghiên cứu và gây nguy hiểm cho các cơ hội về nghề nghiệp.”[4] (Trong các câu nói này, Zingales dùng thuật ngữ “chủ nghĩa thân hữu” với ý nghĩa tương tự như “chủ nghĩa tư bản thân hữu”)


Mặc dù hiện tượng “tư bản thân hữu” có thể hình thành ở bất cứ quốc gia nào, nhưng tại các nước đã phát triển (developed countries) - nghĩa là các nước tiên tiến (advanced countries), nó ít có cơ hội để trở thành một thứ tệ nạn quốc gia, vì các thiết chế dân chủ có khả năng kiềm chế các hoạt động của các nhà tư bản thân hữu, đồng thời ngăn ngừa nạn tham nhũng. Nhưng tại các nước thường được gọi là “đang phát triển” (developing countries) – và đặc biệt là tại các nước kém phát triển, tư bản thân hữu có nhiều cơ hội để trở thành một căn bệnh nan y khó chữa trị, nhờ dựa vào sự yếu kém trong quản lý nhà nước hay các tệ nạn như: lạm dụng quyền lực, tham nhũng, hối lộ, v.v… Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản thân hữu có thể dẫn đến chế độ đạo tặc (kleptocracy) - nghĩa là một chế độ trong đó các nhà lãnh đạo thường coi ngân khố quốc gia như một nguồn làm giàu cho bản thân và gia đình, chi tiêu ngân quỹ một cách vô tội vạ để mua các hàng hóa xa xỉ và phục vụ các sở thích ngông cuồng của cá nhân và gia đình. Các nhà lãnh đạo kiểu đạo tặc này thường bí mật chuyển lậu các quỹ ăn cắp vào các tài khoản ngân hàng ở ngoại quốc – nhất là tại các “cảng trú ẩn thuế” (tax haven)[5] để phòng khi bị mất chức vẫn duy trì được tài sản cho cá nhân và gia đình.


“Tại Đông Nam Á, hai ví dụ tiêu biểu của chế độ đạo tặc có nguồn gốc từ chủ nghĩa tư bản thân hữu là Ferdinand Marcos (tổng thống của Philippines trong thời gian từ 1965 đến 1986) và Mohamed Suharto (tổng thống của Indonesia từ 1967 đến 1998).” Vào tháng 3 năm 2004, tổ chức Minh bạch Quốc tế (Transparency International) đã công bố bản báo cáo về nạn tham nhũng trên toàn cầu, qua đó đánh giá Mohamed Suharto đã ăn cắp của công từ 15 đến 35 tỷ đô-la Mỹ, còn Ferdinand Marcos đã ẵm của công quỹ từ 5 đến 10 tỷ đô-la Mỹ.[6] Không những thế, hai nhà lãnh đạo kiểu đạo tặc này đã để lại cho đất nước của họ những món nợ khổng lồ. Hơn hai thập niên lãnh đạo của Marcos đã làm cho nợ quốc gia của Philippines tăng từ 7 tỷ (năm 1965) lên đến 27 tỷ đô-la Mỹ (năm 1986).[7] Còn tại Indonesia, vào giữa năm 1997, tổng số nợ phải trả cho các ngân hàng thương mại ngoại quốc lên đến 59 tỷ đô-la.[8]


Vận dụng khái niệm “tư bản thân hữu” vào chế độ cộng sản:
Mặc dù ông Vũ Ngọc Hoàng đã mạnh dạn sử dụng thuật ngữ “chủ nghĩa tư bản thân hữu” để nói về nguồn gốc của nạn tham nhũng ở Việt Nam, nhưng trong thực tế khái niệm này thật ra chỉ phù hợp với các nước “tư bản” hay các nước đang phát triển không thuộc hệ thống cộng sản, chứ không thể áp dụng nguyên xi vào các nước cộng sản - dù đã chuyển sang con đường kinh tế thị trường như Trung Quốc và Việt Nam.


Một ví dụ điển hình là sự kiện tờ Economist ở Anh cố gắng thiết lập “Chỉ số chủ nghĩa tư bản thân hữu” (Crony-Capitalism Index) để đo lường ảnh hưởng của hiện tượng “tư bản thân hữu” đối với một số nền kinh tế. Vào tháng 3 năm 2014, tờ báo này công bố bảng đánh giá xếp loại 23 quốc gia và vùng lãnh thổ. Một trong những điều nghịch lý nổi bật là trường hợp của Trung Quốc: trong bảng xếp loại này, Trung Hoa lục địa được xếp thứ 19 về chỉ số tư bản thân hữu, cao hơn so với Hoa Kỳ (xếp thứ 17) và nước Anh (xếp thứ 15).[9] Điều đó có nghĩa là Trung Quốc ít bị ảnh hưởng của chủ nghĩa tư bản thân hữu so với hơn Hoa Kỳ và Anh!


Thực là một điều nghịch lý, vì nếu dựa theo bảng xếp loại về “Chỉ số nhận thức tham nhũng (Corruption Perception Index) của tổ chức Minh bạch Quốc tế (Transparency Internationale) thì vào năm 2014 Trung Quốc ghi điểm rất kém (36/100 điểm, xếp thứ 100/175 nước), trong khi Anh đạt 78 điểm (xếp hạng 14/100) và Hoa Kỳ đạt 74 điểm (xếp hạng 17/100). Làm thế nào mà hai nước ít tham nhũng (Hoa Kỳ và Anh) lại bị ảnh hưởng của chủ nghĩa tư bản thân hữu nhiều hơn so với một nước tham nhũng nặng nề như Trung Quốc?


Chỉ có thế lý giải nghịch lý nói trên bằng một số lý do sau đây:


- Mặc dù Trung Quốc đã từ bỏ con đường kinh tế tập trung chỉ huy và tiến khá xa trên con đường kinh tế thị trường, nhiều ngành công nghiệp đem lại nhiều “đặc lợi” vẫn còn bị khống chế bởi các doanh nghiệp thuộc sở hữu của Nhà nước. Các doanh nghiệp đó vẫn nhận được nhiều “ân huệ”, được ưu đãi tương đương hoặc cao hơn so với các doanh nghiệp tư nhân, nhưng các chuyên gia của Economist đã không tính (hoặc không thể đo lường) yếu tố này. Chính khu vực kinh tế “quốc doanh” còn sót lại – luôn được sự bảo trợ, ưu ái của nhà nước, cũng là một nơi phát sinh nạn “tìm kiếm đặc lợi” và đẻ ra nạn tham nhũng.


- Tài sản của các nhà “tư bản đỏ” và các quan chức ở Trung Quốc thường bị che giấu hoặc phân tán cho nhiều thành viên trong gia đình. Chính tờ Economist trong bài báo đã dẫn cũng thừa nhận rằng Trung Quốc là “nơi mà các bài báo phanh phui gần đây cho thấy nhiều chính trị gia có thế lực đã ngụy trang tài sản của họ bằng cách thuyết phục các bạn bè và gia đình giữ tài sản nhân danh họ” và “các ghi chép tài sản không đáng tin cậy cũng giúp che giấu ai sở hữu cái gì”.


Theo điều tra của ICIJ (The International Consortium of Investigative Journalists) - một mạng lưới quốc tế với hơn 190 nhà báo điều tra của hơn 65 nước, các quan chức và các nhà tư bản đỏ ở Trung Quốc thường tìm cách ngụy trang tài sản của họ bằng cách mở các công ty bí mật ở các “cảng trú ẩn thuế” (tax haven) như Quần đảo Virgin thuộc Anh, quần đảo Cook hay Samoa. Trong số những nhân vật che giấu tài sản, có cả con trai của cựu Thủ tướng Ôn Gia Bảo và Deng Jiagui (鄧家貴 Đặng Gia Quý) - anh rể của đương kim Chủ tịch Nước kiêm Tổng bí thư Tập Cận Bình. Ngoài ra, còn có bà con họ hàng của các quan chức cao cấp như cựu Chủ tịch nước kiêm Tổng bí thư Hồ Cẩm Đào, cựu Thủ tướng Lý Bằng, và cố lãnh tụ tối cao Đặng Tiểu Bình, v.v…[10]


Như vậy, khi áp dụng khái niệm “tư bản thân hữu” vào trường hợp của Trung Quốc, cần phải xét đến những đặc điểm riêng biệt của nền kinh tế của nước này - một nền kinh tế chưa hoàn toàn thị trường hóa, còn chịu sự điều chỉnh nặng nề của nhà nước. Mặt khác, cần phải xem xét cả hệ thống chính trị tại đây, một chế độ chính trị chưa hoàn toàn thoát ra khỏi khuôn khổ của một chế độ độc tài-hậu toàn trị (post-totalitarian regime).


Mặc dù có những điểm khác biệt, kể từ đầu thập niên 1990 đến nay, mô hình kinh tế-chính trị của Việt Nam ngày càng giống với mô hình của Trung Hoa lục địa. Vì vậy, để có thể hiểu được trường hợp của Việt Nam, thiết tưởng không có gì tốt hơn là tìm hiểu trường hợp của Trung Quốc. Đó là điều chúng ta sẽ đề cập trong bài sau.


Đà Lạt 28-1-2016


Mai Thái Lĩnh
____________

[1] Mai Thái Lĩnh, Nhóm lợi ích là gì? Bauxite Vietnam 7-1-2016:
http://www.boxitvn.net/bai/40235


[2] Từ “crony” đầu tiên xuất hiện vào thế kỷ 18 ở London. Theo Từ điển Oxford, nó xuất phát từ tiếng Hy Lạp chronios (χρόνιος) – có nghĩa là “lâu năm”.


[3] David Henderson, “Rent seeking”, The Concise Encyclopedia of Economics:
http://www.econlib.org/l...ary/Enc/RentSeeking.html


[4] Margareta Pagano, “Luigi Zingales: A crusader against crony capitalism”, The Independent, 21 June 2012:
http://www.independent.c...-capitalism-7869975.html


[5] Cảng trú ẩn thuế (tax haven) trong tiếng Pháp được gọi là thiên đường tài chính (paradis fiscal), là các quốc gia hay thành phố đánh thuế thu nhập rất thấp, thậm chí bằng không (zero).


[6] Transparency International, Global Corruption Report 2004, p. 13:
http://www.transparency....004_political_corruption


[7] Manuel F. Amario, “The Philippine’s debt hole”, Inquirer November 3rd, 2013:
http://opinion.inquirer....he-philippines-debt-hole


[8] Steven Radelet, Indonesia: Long Road to Recovery, Harvard Institute for International Development, March 1999:
http://www.cid.harvard.e...iid/papers/indonesia.pdf


[9]“Our crony-capitalism index: Planet Plutocrat”, The Economist, Mar 15th 2014:
http://www.economist.com...st-likely-prosper-planet


[10] Dexter Roberts, “China's Elite Wealth in Offshore Tax Havens, Leaked Files Show”, Bloomberg Businessweek's January 22, 2014:
http://www.bloomberg.com...havens-show-leaked-files
song  
#2 Đã gửi : 31/01/2016 lúc 11:16:18(UTC)
song

Danh hiệu: Moderate

Nhóm: Registered
Gia nhập: 21-02-2012(UTC)
Bài viết: 24,156

Cảm ơn: 1 lần
Được cảm ơn: 2 lần trong 2 bài viết
Bài 2: Về Chủ nghĩa cộng sản thân hữu

Từ đầu thế kỷ 21 đến nay, nhiều học giả phương Tây đã quan tâm nghiên cứu hiện tượng “tư bản thân hữu” tại Trung Quốc. Tuy nhiên, khi vận dụng khái niệm “tư bản thân hữu” vào hoàn cảnh của quốc gia cộng sản hậu-toàn trị này, các nhà nghiên cứu đã nhanh chóng nhận ra một số đặc điểm riêng biệt. Vì vậy, trong khi một số học giả sử dụng thuật ngữ “Chủ nghĩa Tư bản Thân hữu với đặc điểm Trung Quốc” (Crony Capitalism with Chinese Characteristics), một số học giả khác (như Bruce Dickson, Minxin Pei,...) đã mạnh dạn sử dụng khái niệm “Chủ nghĩa Cộng sản Thân hữu” (Crony Communism) để nhấn mạnh tính chất đặc thù, riêng biệt đó.


Tư bản đỏ và Chủ nghĩa cộng sản thân hữu:

Một trong những nét đặc thù của hiện tượng “tư bản thân hữu” tại Trung Quốc là bên cạnh các nhà “tư bản-thân hữu” thông thường (nghĩa là những nhà tư bản có quan hệ “thân thiết” với các quan chức trong bộ máy cầm quyền), còn có các nhà tư bản đỏ (red capitalists) – tức là các nhà tư bản đồng thời là đảng viên cộng sản.


Bruce J. Dickson – giáo sư khoa chính trị học và quan hệ quốc tế tại Đại học George Washington (Hoa Kỳ), là một trong những học giả chú ý đến chủ đề này. Trong cuốn Red Capitalists (xuất bản năm 2003) và cuốn Allies of the State. China’s Private Entrepreneurs and Democratic Change (viết chung với Jie Chen, xuất bản năm 2010), ông đã phân tích tỉ mỉ những đặc điểm của loại hình “tư bản đỏ” tại Trung Quốc để tìm cách lý giải tại sao sự phát triển của giai cấp tư sản thành thị (urban bourgeoisie) tại quốc gia đông dân nhất thế giới này lại không dẫn đến những thay đổi có lợi cho tự do, dân chủ. Trong một tiểu luận công bố năm 2008,[i] Bruce Dickson đã nêu bật một số đặc điểm đáng chú ý của chủ nghĩa cộng sản thân hữu tại Trung Quốc như sau:


1) Chịu sự chi phối của đảng cộng sản cầm quyền: Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) – tác nhân trung tâm của chế độ chính trị tại Trung Quốc, đồng thời cũng là trung tâm của chủ nghĩa cộng sản thân hữu. Do yếu tố then chốt này, tầng lớp được hưởng lợi từ chủ nghĩa cộng sản thân hữu là các đảng viên cộng sản và gia đình của họ. Ông nhận xét: “Trong khi con cái của các nhà lãnh đạo thuộc các thế hệ thứ nhất và thứ hai thường theo gương cha để vào đảng, chính quyền và quân đội, thì con cái của các nhà lãnh đạo thuộc thế hệ thứ ba và thứ tư đều đi vào lĩnh vực kinh doanh (hoặc trong trường hợp của con gái Hồ Cẩm Đào và con gái Ôn Gia Bảo – đã cưới các nhà kinh doanh nổi bật nhất). Một báo cáo nội bộ (được cho là xuất phát từ Trường Đảng) đã chỉ rõ rằng 90% những người siêu-giàu của Trung Quốc (tức là những người có tài sản trên 100 triệu yuan) là con cái của các quan chức cao cấp. Đây là một ví dụ cực đoan, nhưng hiểu theo một nghĩa rộng hơn, sự tập trung tài sản vào tay những người có quan hệ tốt về chính trị là bản chất của chủ nghĩa cộng sản thân hữu.”


Tầng lớp “tư bản đỏ” (red capitalists) này bao gồm hai loại: (1) các đảng viên “hạ hải”[ii] (xia hai 下海), nghĩa là những đảng viên “dấn thân” vào con đường kinh doanh làm giàu và (2) các nhà kinh doanh thành đạt được kết nạp vào đảng cộng sản.


2) Phi tập trung, khuếch tán và có xu hướng bành trướng: Khác với tư bản thân hữu ở các nước khác (vd: các nước Đông Nam Á), chủ nghĩa cộng sản thân hữu của Trung Quốc không chịu sự chi phối bởi một gia đình, một dòng họ hoặc các nhà lãnh đạo ở trung ương, mà lôi cuốn các quan chức ở tất cả các cấp của bậc thang chính trị. Khác với nước Nga hậu-cộng sản – nơi mà của cải tập trung vào tay của một số ít cá nhân có quan hệ tốt về chính trị (các nhà tư bản đầu sỏ, tycoons), công cuộc tư nhân hóa ở Trung Quốc không dẫn đến một sự tập trung về của cải. Thay vào đó, khu vực tư nhân ở đây có đặc điểm là sự vượt trội của các xí nghiệp nhỏ và vừa.


Do chủ trương của ĐCSTQ, chủ nghĩa cộng sản thân hữu đã phát triển mạnh mẽ theo chiều rộng. Theo thống kê của Dickson, vào năm 1993, chỉ có khoảng 13% các nhà kinh doanh tư nhân là đảng viên; khoảng 2007, con số đó tăng gần gấp ba, lên đến 38%.


3) Có tính chất gia trưởng (paternalistic) và cộng sinh (symbiotic): các quan chức của đảng và chính quyền ở các cấp đóng vai trò bảo trợ, hướng dẫn công việc làm ăn của giới tư bản. Từ tháng 4 năm 2000, dưới thời của Giang Trạch Dân, các trường đảng đã mở cửa để đón nhận các nhà kinh doanh tư nhân. Tính đến năm 2006, đã có trên 10 ngàn nhà kinh doanh từ khắp đất nước theo học các lớp tại Trường Đảng Trung ương. Đó là chưa kể đến các lớp được mở tại các trường đảng tại địa phương. Mặc dù việc kết nạp các nhà tư bản đã bị cấm chỉ kể từ sau sự kiện Thiên An Môn (tháng 6 năm 1989), từ năm 2001, sau khi Giang đọc bài diễn văn nổi tiếng về học thuyết “Ba đại diện”, đảng cầm quyền đã mở cửa lại để đón nhận các nhà tư bản làm ăn giỏi.


Sở dĩ lãnh đạo đảng ở mọi cấp đều đóng vai trò bảo trợ, giúp đỡ, hướng dẫn giới kinh doanh tư nhân là vì họ có chung một mục tiêu: đẩy mạnh “tăng trưởng kinh tế” (economic growth). Đảng cộng sản cầm quyền vừa muốn thúc đẩy sự phát triển kinh tế, lại vừa muốn kiểm soát giới kinh doanh, ngăn ngừa khả năng các nhà tư bản hỗ trợ cho các hoạt động dân chủ. Do đó hình thành một mối quan hệ “ấm cúng”, “thoải mái” giữa một bên là đảng-nhà nước và bên kia là khu vực tư nhân. Cả hai bên đều hưởng lợi từ sự phát triển kinh tế và chủ trương tư nhân hóa. Sự thỏa hiệp chính trị, mối quan hệ cộng sinh này đã dẫn đến tình trạng bất ổn ngày càng tăng trong xã hội. Các cuộc đấu tranh phản kháng tại các địa phương đã tăng từ 32 ngàn vụ (năm 1999) đến 87 ngàn vụ (năm 2005). Nguyên nhân của các cuộc đấu tranh này rất đa dạng: nông dân mất đất do bị chiếm đoạt bất hợp pháp và do tham nhũng, công nhân không được trả lương đầy đủ hay bị buộc làm việc trong những điều kiện không an toàn, công nhân bị cho thôi việc hay về hưu không nhận được trợ cấp hoặc tiền bảo hiểm như đã hứa, cư dân đô thị bị dời đi để “quy hoạch” nhằm tạo không gian xây dựng cho các công trình mới, v.v…


Mối quan hệ cộng sinh này đã khiến cho giới cầm quyền và giới kinh doanh cộng tác với nhau trong việc giữ gìn ổn định, trật tự xã hội. Trái với luận điểm của nhiều nhà chính trị học phương Tây cho rằng kinh tế thị trường phát triển sẽ dẫn đến sự ra đời của một giai cấp tư sản thành thị ủng hộ dân chủ, theo nhận xét của Dickson, các nhà tư sản ủng hộ dân chủ tại Trung Quốc chỉ chiếm một thiểu số rất nhỏ và không có ảnh hưởng đáng kể, trong khi đại bộ phận các nhà tư bản (mà nòng cốt là tầng lớp tư bản đỏ) đã cộng tác với đảng cộng sản cầm quyền để cùng tồn tại và cùng hưởng lợi.


Nói tóm lại, chủ nghĩa cộng sản thân hữu tại Trung Quốc không phải chỉ là sự câu kết, thông đồng giữa các nhà tư bản và những quan chức trong bộ máy nhà nước, mà là sự hợp nhất, tích hợp (integration) giữa quyền và tiền, trở thành một thể thống nhất. Điển hình là các nhà tư bản đỏ (red capitalists) - vừa có tài sản, lại vừa có thế đứng về chính trị. Nói cách khác, các nhà tư bản đỏ là cái gạch nối giữa giai cấp tư sản nói chung với đảng cộng sản cầm quyền. Quyền và tiền quyện chặt với nhau, trở thành nguồn gốc của nạn tham nhũng ngày càng trầm trọng tại Trung Hoa lục địa.


Giai cấp tư sản tại Trung Quốc phát triển rất nhanh chóng. Theo danh sách các tỷ phú do tạp chí Forbes công bố hàng năm, vào năm 2015 (2-3-2015), Trung Quốc có 213 tỷ phú (tính theo đô-la Mỹ), đứng hàng thứ hai trên thế giới – chỉ sau Hoa Kỳ (536 người). Nhưng danh sách của Forbes thường không tính đến các “thái tử đảng” (princelings)[iii], là những người luôn tìm cách che giấu tài sản của mình. Theo một danh sách khác do nhà sưu tập người Anh Rupert Hoogewerf công bố - thường gọi là Báo cáo Hồ Nhuận (Hurun Report), vào thời điểm 3-2-2015, Trung Quốc có 430 nhà tỷ phú, chỉ sau Hoa Kỳ (537 người). Nhưng đến 15 -10-2015, báo cáo Hồ Nhuận cho biết Trung Quốc có đến 596 nhà tỷ phú, lần đầu tiên vượt Hoa Kỳ (537 người) về số lượng các nhà tỷ phú, mặc dù nếu tính về tài sản thì vẫn chưa sánh bằng.[iv] Điều có ý nghĩa biểu tượng là trong cả hai danh sách của Forbes và Hồ Nhuận, Wang Jianlin (王健林 Vương Kiện Lâm) được coi là người giàu nhất Trung Hoa lục địa, là một đảng viên cộng sản và đã từng phục vụ trong quân đội 16 năm.


Các danh sách này không cho biết có bao nhiêu nhà tỷ phú tại Trung Quốc là “tư bản đỏ”. Nhưng tầm quan trọng của các nhà tư bản đỏ thật ra không nằm ở chỗ “chiếm tỷ lệ bao nhiêu” hoặc “có tài sản lớn bao nhiêu”? Tầm quan trọng là ở chỗ các nhà tư bản đỏ tạo ra chiếc cầu nối giữa đảng-nhà nước với giới kinh doanh, và là xương sống của chủ nghĩa cộng sản thân hữu. Điều đó khiến cho nạn tham nhũng tại Trung Quốc trở thành một tệ nạn rất khó cứu chữa vì các mối liên hệ giữa quyền và tiền có được tính chính danh (legitimity) mà ở các nước dân chủ, các nhà tư bản thân hữu không bao giờ đạt được.


Hiệu quả của chiến dịch “đả hổ diệt ruồi”:


Những người còn tin tưởng vào tính ưu việt của chế độ chính trị kiểu Trung Quốc thường cho rằng Tập Cận Bình là người có “quyết tâm làm trong sạch Đảng” và rất kiên định trong việc trừng trị những cán bộ tham nhũng. Nhưng thực chất của công cuộc “đả hổ diệt ruồi” là gì? Đó là một nỗ lực chống tham nhũng thật sự hay chỉ là một màn trình diễn ngoạn mục để mị dân, một cuộc đấu đá hạ bệ một phe phái khác nhằm củng cố quyền lực cho tập đoàn lãnh đạo mới?


Hồi đầu tháng 6 năm 2015, trong một bài báo mà bản dịch tiếng Anh được đăng trên tờ New York Times,[v] nhà bất đồng chính kiến nổi tiếng Bào Đồng (nguyên là cố vấn lâu năm của cố Tổng bí thư Triệu Tử Dương) đã nhận xét rằng nguồn gốc của nạn tham nhũng hiện nay đang hoành hành trên đất nước Trung Hoa chính là đường lối của Đặng Tiểu Bình. Trong chuyến tuần du Hoa Nam vào năm 1992, Đặng đã tuyên bố một câu nổi tiếng: “Nếu không thay đổi, chúng ta sẽ đi vào ngõ cụt! Ai không tán thành cải cách, hãy từ chức đi! Một số người sẽ làm giàu trước!” Nhưng trong một đất nước mà quyền bính đều nằm trong tay đảng cộng sản, ai có khả năng làm giàu trước tiên? Theo Bào Đồng, những người làm giàu trước tiên chính là “các đảng viên và gia đình, cùng các cộng sự gần gũi của họ”. Ông viết tiếp: “Thành quả cuối cùng trong cuộc cách mạng của Đặng là ai có quyền lực lớn sẽ giàu to, ai có quyền lực nhỏ sẽ giàu ít, và những người không có quyền lực sẽ vẫn sống trong nghèo đói.”


So sánh sự nghiệp của hai nhà lãnh đạo tối cao của ĐCSTQ, Bào Đồng viết: “Mao Trạch Đông quốc hữu hoá tài sản cá nhân. Đặng Tiểu Bình chuyển giao tài sản quốc gia, với cái giá rất hời, chủ yếu mang tính tượng trưng, vào tay giới tinh hoa của đảng. Kết quả là hiện nay, các “thái tử đảng” – hậu duệ của thế hệ cách mạng sáng lập đảng, kiểm soát phần lớn của cải ở Trung Quốc.” Vì thế, ông không tin cuộc đấu tranh chống tham nhũng của Tập Cận Bình sẽ thành công.


Nhà bất đồng chính kiến đã từng ngồi tù 7 năm nhấn mạnh : “… chừng nào Trung Quốc còn tiếp tục đi theo con đường mà Đặng Tiểu Bình đã vạch ra, nó sẽ không giải quyết triệt để được nạn tham nhũng. “Đả hổ diệt ruồi” không phải là phương thuốc cứu chữa từ gốc đến ngọn; thậm chí còn không giảm nhẹ được những triệu chứng nặng nhất. Hổ còn ngao du khắp chốn, và ruồi còn che kín mặt trời: có thể tấn công cả trăm, hoặc cả ngàn trong số chúng, nhưng điều đó sẽ không thay đổi được bản chất của con đường tham nhũng.”


Việt Nam và mô hình Trung Quốc:


Từ đầu thập niên 1990, nghĩa là từ khi lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) bắt tay hóa giải hận thù với “người đồng chí Trung Quốc” nhằm giữ vững độc quyền chính trị trong nước, chủ nghĩa cộng sản thân hữu tại Việt Nam đã phát triển theo cùng một hướng với Trung Quốc, tuy có phần chậm hơn và với quy mô nhỏ hơn:


Trung Quốc bắt đầu đổi mới kinh tế vào năm 1978 (ngay khi Đặng Tiểu Bình trở lại nắm quyền bính) trong khi tại Việt Nam, mãi đến năm 1986 Đảng CSVN mới quyết định đổi mới kinh tế sau khi đã trải qua một cuộc đấu tranh gay gắt giữa hai phái cải cách và bảo thủ. Việc chính thức công nhận tư bản tư nhân là một thành phần kinh tế căn bản cũng chậm hơn so với Trung Quốc. Mãi đến 2001, nghĩa là 15 năm sau khi tiến hành đổi mới, Đại hội Đảng lần thứ IX mới chính thức thừa nhận kinh tế tư nhân là “bộ phận quan trọng cấu thành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.


Hai thập niên sau khi tiến hành đổi mới kinh tế, tại Đại hội lần thứ X (năm 2006), ĐCSVN đã thực hiện một bước ngoặt lịch sử khi chính thức khẳng định “kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế”, đồng thời cho phép đảng viên được làm kinh tế tư nhân. Ngày 29-8-2006, Hội nghị lần thứ ba của Ban chấp hành Trung ương ĐCSVN đã thông qua quy định về việc đảng viên làm kinh tế tư nhân. Có thể coi đây là một bước ngoặt, đánh dấu sự chính thức chuyển đổi đảng cộng sản – một đảng được thành lập nhân danh “nhân dân lao động” (công nhân và nhất là nông dân) nhằm đánh đổ các giai cấp bóc lột (địa chủ và tư sản), trở thành một đảng của “quyền và tiền”. Từ đây, đảng viên đảng cộng sản có thể làm giàu và trở thành nhà tư sản mà không mang tiếng là “bóc lột”, “áp bức”, chỉ cần tuyệt đối trung thành với đảng. Thay cho cái tên “nhà tư bản” hay “giai cấp tư sản” thường gợi nhớ đến thời kỳ đấu tranh giai cấp đầy sắt máu, các nhà tư bản trong nền kinh tế “theo định hướng xã hội chủ nghĩa” được gọi là “doanh nhân” (businessman, entrepreneur). Các hội doanh nhân mọc lên như nấm: ngoài các hội doanh nhân thông thường còn có các hội nữ doanh nhân, hội doanh nhân trẻ, và thậm chí có cả “hội doanh nhân cựu chiến binh”, v.v…


Điều đáng tiếc là cho đến nay, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách nghiêm túc, khách quan về tầng lớp tư bản đỏ tại Việt Nam, cho nên chúng ta chưa thể biết chính xác quy mô và vai trò của tầng lớp đó đối với toàn bộ nền kinh tế. Tuy nhiên nhìn vào thực tế của môi trường kinh doanh hiện nay, ai cũng có thể nhìn thấy sự hiện diện một cách chính danh của các nhà “tư bản đỏ” bên cạnh các nhà “tư bản thân hữu”, ít nhất là từ năm 2006. Có một sự thật tại Việt Nam mà giới lý luận chính thống thường muốn che đậy, đó là: muốn làm giàu nhanh, một doanh nhân (nghĩa là một nhà tư bản) luôn cần đến sự bảo trợ của một hay nhiều quan chức trong bộ máy cầm quyền. Trong hoàn cảnh đó, mỗi nhà tư bản-đảng viên (tức là nhà tư bản đỏ) đều có thể trở thành một chiếc cầu nối, một mối dây liên lạc giữa các nhân vật có quyền trong bộ máy đảng-nhà nước với giới kinh doanh bên ngoài. Đó là chưa kể đến sức mạnh tiềm tàng ngay trong bản thân họ, bởi vì mỗi nhà tư bản đỏ đều có khả năng tìm kiếm “đặc lợi”, lại vừa có khả năng tìm kiếm “đặc quyền”.


Trong thực tế, tham nhũng và hối lộ đã nhanh chóng trở thành chất dầu bôi trơn cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường “định hướng xã hội chủ nghĩa”. Ngay cả những người nghiêm túc, cứng cỏi nhất cũng phải chấp nhận quy luật này, bởi vì không ai dại dột tự triệt tiêu con đường làm ăn của mình bằng cách làm đơn kiện “chống trời”!


Cũng có một số đặc điểm riêng biệt của Việt Nam so với Trung Quốc, như chủ trương “quân đội làm kinh tế” chẳng hạn. Tại Trung Quốc, quân đội đã tham gia kinh doanh từ năm 1982 do chủ trương của Đặng Tiểu Bình. Vào năm 1998, người ta ước tính có từ 10 đến 15 ngàn cơ sở kinh doanh thuộc sở hữu của quân đội. Mặc dù đạt hiệu quả kinh tế cao, việc quân đội tham gia kinh doanh đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng, đặc biệt là làm cho quân đội xao lãng nhiệm vụ chính và gây ra nạn tham nhũng. Vì thế, vào tháng 7 năm 1998, Giang Trạch Dân đã ra lệnh cho quân đội và PAP (Lực lượng cảnh sát vũ trang) chấm dứt các hoạt động thương mại.[vi] Lệnh cấm của Giang Trạch Dân đã làm suy giảm đáng kể hoạt động kinh doanh của quân đội, nhưng vẫn không chấm dứt được tình trạng quân đội lén lút “làm ăn” bằng nhiều cách khác. Mới đây, vào cuối tháng 11 năm 2015 (nghĩa là 17 năm sau lệnh cấm của Giang Trạch Dân), Tập Cận Bình lại phải ra lệnh quân đội chấm dứt các hoạt động nhằm kiếm lợi nhuận như : múa hát thuê cho các sự kiện, chữa bệnh cho người ngoài quân đội để thu viện phí, mở lớp học cho dân thường để thu học phí, cho thuê các kho bãi để làm cơ sở thương mại, nhận thầu các công trình xây dựng, v.v…[vii]


Có một điều nghịch lý đập vào mắt người dân nước ta: trong khi quân đội Trung Quốc – một quân đội có nhiệm vụ bành trướng lãnh thổ và lấn chiếm Biển Đông, luôn tìm cách chỉnh đốn hàng ngũ của mình thì quân đội Việt Nam – một quân đội có nhiệm vụ bảo vệ lãnh thổ và lãnh hải chống âm mưu lấn chiếm của nước ngoài, lại suốt ngày say sưa làm ăn để tìm kiếm lợi nhuận. Chẳng những thế, người ta còn đề cao, khen thưởng các vị tướng, tá “kinh doanh giỏi”.[viii] Vậy mà, trên diễn đàn của Quốc hội, các ông bà “đại biểu nhân dân” – kể cả những người được ngợi ca là “dũng cảm”, là “yêu nước” nhất, dường như vẫn bình chân như vại, chưa thấy ai ”tâm tư”, áy náy về điều này!


Tóm lại, ngoài các nhà tư bản thân hữu, các nhà tư bản đỏ (tức nhà tư bản-đảng viên) còn có những tập thể tư bản đỏ mang bảng hiệu một “cơ quan” của chính quyền hay của Đảng lao vào lĩnh vực kinh doanh. Có thể nói ở Việt Nam đã hình thành nên một mạng lưới của chủ nghĩa cộng sản thân hữu rộng khắp, với hàng ngàn, hàng vạn “cửa ngõ” thông thương giữa bộ máy đảng-nhà nước và lĩnh vực kinh doanh. Có thể vì lẽ đó mà công cuộc chống tham nhũng trở nên khó khăn đến mức ông Chủ tịch nước sắp từ giã chính trường có lần đã ví những quan chức tham nhũng là “bầy sâu”.


Vấn đề đặt ra là : có bao nhiêu bầy sâu và tại sao lại sinh ra các bầy sâu? Nếu chỉ có một hay vài bầy sâu và mỗi bầy sâu được sinh ra từ một con sâu chúa, người ta có thể diệt trừ bằng cách “vừa diệt sâu chúa, vừa diệt sâu con” dựa theo cách “đả hổ diệt ruồi” của Trung Quốc. Nhưng nếu các bầy sâu lại được sinh ra từ một môi trường thuận lợi cho sự sinh sôi nảy nở của loài sâu thì tình hình sẽ ra sao? Chúng ta có thể hình dung một môi trường ô nhiễm “thuận lợi cho sâu” trong đó hàng ngày hàng giờ đẻ ra hàng ngàn, hàng vạn con sâu con; mặt khác do “thời cơ”, bất cứ con sâu con nào cũng có thể trở thành một con sâu lớn - thậm chí trở thành sâu chúa, thì vấn đề diệt hết các “bầy sâu” sẽ trở thành “nhiệm vụ bất khả thi”.


Hiện nay, vẫn còn một số người – kể cả trí thức được coi là “cấp tiến” lẫn một số nhà đấu tranh cho dân chủ, tin rằng sau Đại hội XII, Bộ Chính trị mới “gồm những người trong sạch hơn” sẽ thanh lọc được hàng ngũ của Đảng Cộng sản Việt Nam và tìm cách “thoát Trung”. Nhưng nếu bình tâm suy xét, chúng ta sẽ thấy ước vọng đó có thể chỉ là “mơ ước viển vông” và rất dễ biến thành “ảo vọng”. Với nguyên tắc “đánh chuột nhưng tránh làm vỡ bình”, có thể sắp tới sẽ có nhiều vụ án được xử công khai, nhiều trận đánh tham nhũng được tiến hành để làm yên lòng dân, nâng cao lòng tin của cán bộ, đảng viên. Nhưng suy cho cùng, cho dù đạt mức cao nhất, các màn trình diễn đó khó có thể hấp dẫn hơn, nhiều kịch tính hơn những màn trình diễn ngoạn mục vừa qua của ông Tập Cận Bình. Vậy mà ở “nước bạn”, tương lai của công cuộc chống tham nhũng sẽ ra sao? Ý kiến của các nhà chính trị học và của ông Bào Đồng đủ để giúp chúng ta thấy tương lai của công cuộc chống tham nhũng tại Trung Quốc.


Vào tháng 3 năm 2013, bốn tháng rưỡi sau ngày Tập Cận Bình trở thành nhà lãnh đạo cao nhất của Trung Hoa lục địa, nhà chính trị học Minxin Pei (Bùi Mẫn Hân) có viết trên tờ The Diplomat một bài báo nhan đề “Một nhà lãnh đạo xô-viết mà Trung Hoa có thể bắt chước… và đó không phải là Gorbachev”,[ix] trong đó ông đã tiên đoán một cách chính xác rằng Tập Cận Bình sẽ chọn đường lối của Yuri Andropov chứ không chọn đường lối của Gorbachev.


Yuri Vladimirovich Andropov (1914 – 1984) là Tổng bí thư đầu tiên và duy nhất của Đảng Cộng sản Liên Xô thăng tiến từ chức vụ Giám đốc KGB – cơ quan công an khét tiếng toàn thế giới. Có thể tóm tắt mô hình của Andropov bằng nguyên tắc “làm trong sạch đảng cầm quyền từ bên trong” (cleansing the ruling party from within). Điều lý thú là ở cuối bài báo, Minxin Pei nhận định rằng mô hình đó một “con đường không dẫn đến đâu” (a road to nowhere). Ông còn nhận xét: chính Gorbachev ngay lúc đầu cũng không phải là một nhà cải cách triệt để. Trong hai năm đầu của nhiệm kỳ, Gorbachev đã theo đuổi đường lối của Andropov cho đến khi nhận thức được rằng đường lối đó không có hiệu quả và thay thế bằng con đường glanost (công khai).


Dường như ĐCSVN hiện nay cũng đang ở vào hoàn cảnh tương tự. Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và Bộ Chính trị mới sẽ chọn con đường nào: chống tham nhũng bằng cách làm trong sạch Đảng từ bên trong với nguyên tắc “đánh chuột nhưng tránh làm vỡ bình” hay chống tham nhũng bằng cách mở cửa cho toàn dân tham gia?


Đành rằng đi theo con đường thứ hai có thể làm “vỡ bình”, nhưng” vỡ bình” không đồng nghĩa với “đại họa”, nhất là khi người ta nhận thức được rằng một “đảng chính trị” không thể quan trọng bằng “quốc gia” và “dân tộc”. Còn đi theo con đường thứ nhất (như Tập Cận Bình đã làm) thì số phận thế nào, chúng ta cũng có thể đoán trước: đó là một con đường “không dẫn đến đâu”. Và vì con đường đó “không dẫn đến đâu”, đến một lúc nào đó nhân dân sẽ tự tìm ra được con đường thích hợp. Đến lúc đó thì cho dù chiếc bình vẫn còn, nó có thể trở nên vô dụng hoặc nếu may mắn hơn, chỉ có thể được dùng để trưng bày trong kho đồ cổ hoặc viện bảo tàng để “làm kỷ niệm”!


Đà Lạt 31-1-2016
Mai Thái Lĩnh
__________
Phần 1:
http://danlambaovn.blogs...n-cong-san-than-huu.html

[1] Bruce J. Dickson, “Who Consents to the Beijing Consensus: Crony Communism in China,” presented at the “Washington Consensus versus Beijing Consensus “ conference, University of Denver, May 29-June 1, 2008. In S. Philip Hsu, Yu-Shan Wu, Suisheng Zhao (editors), In Search of China's Development Model: Beyond the Beijing Consensus, Routledge – Taylor & Francis Group, London and New York, 2011, pp. 189-203.

[2] Hạ hải (xia hai) có nghĩa là “xuống biển” (lĩnh vực kinh doanh được ví như biển cả).

[3] Thái tử đảng 太子党 (Princelings, hay Crown Prince Party) là một thuật ngữ thường được dùng theo nghĩa xấu nhằm để chỉ con cháu của các quan chức cộng sản cao cấp tại Trung Hoa lục địa, nhất là những người hưởng lợi từ chủ nghĩa thân hữu (cronyism) và chủ nghĩa thân tộc (nepotism), tương tự như các thái tử trong các chế độ quân chủ thừa kế.

[4] Jonathan Chew, “China now has more billionaires than the U.S.”, Fortune, October 15, 2015: http://fortune.com/2015/10/15/china-billionaires/

[5] Bao Tong, “How Deng Xiaoping Helped Create a Corrupt China”, New York Times June 3, 2015:
http://www.nytimes.com/2...-corrupt-china.html?_r=1

[6] Shirley A. Kan, China’s Military-Owned Businesses, Report 98-197, Congressional Research Service, January 17, 2001.

[7] Minnie Chan and Zhen Liu, “China's President Xi Jinping wants ‘PLA Inc’ to stop its song and dance, plans end for profit-making activities”, South China Morning Post, 28 November 2015:
http://www.scmp.com/news...its-proper-role?page=all

[8] “Tướng quân đội đi làm kinh tế”, Đời sống và Pháp luật, 08-01-2015:
http://www.doisongphaplu...-lam-kinh-te-a78192.html

[9] Minxin Pei, “One Soviet Leader China Could Emulate…and It’s Not Gorbachev”, The Diplomat April 04, 2013:
http://thediplomat.com/2...teand-its-not-gorbachev/

Sửa bởi người viết 31/01/2016 lúc 11:19:34(UTC)  | Lý do: Chưa rõ

Ai đang xem chủ đề này?
Guest
Di chuyển  
Bạn không thể tạo chủ đề mới trong diễn đàn này.
Bạn không thể trả lời chủ đề trong diễn đàn này.
Bạn không thể xóa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể sửa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể tạo bình chọn trong diễn đàn này.
Bạn không thể bỏ phiếu bình chọn trong diễn đàn này.

Powered by YAF.NET | YAF.NET © 2003-2024, Yet Another Forum.NET
Thời gian xử lý trang này hết 0.769 giây.