logo
Men for what watch? Watch, watch and call. A tool that is used for timing on breitling replica the wrist. Men wear watches what kind, starting from the basic color and size, have their own right watches, you can follow the watch's color, shape, value, occasions to carefully match their own clothing. For the choice of rolex replica a watch, the first to look at and their identity are consistent with a rural old people wear watches, a bit unrealistic, even if there is, it would have been too ostentatious. A Multi Millionaire owner, wearing a few hundred dollars of high imitation table also lost their identity, and even make friends on their own business is not good. In the formal social occasions, watches are often regarded as jewelry, for usually only ring a jewelry can be worn by rolex replica uk men is respected. Some people even stressed that: "the watch is not only a man's jewelry, but also men's most important jewelry." In western countries, watches, pens, lighters was once known as adult men "three treasures", is every man even for a moment can not be away from the body.

Chào mừng các bạn! Mong bạn Đăng nhập. Xin lỗi bạn, tạm dừng việc đăng ký mới.►Nhấn hình ảnh nhỏ sẽ hiện ảnh lớn ‹(•¿•)›

Thông báo

Icon
Error

Tùy chọn
Xem bài viết cuối Go to first unread
phai  
#1 Đã gửi : 13/02/2016 lúc 04:28:42(UTC)
phai

Danh hiệu: Moderate

Nhóm: Registered
Gia nhập: 21-02-2012(UTC)
Bài viết: 13,123

Cảm ơn: 4 lần
Được cảm ơn: 3 lần trong 3 bài viết
Cứ mỗi lần cúng Giao Thừa xong, tôi mang bình trà vào phòng sách ngồi uống một mình. Chính những lúc nầy tôi

nhớ lại những ngày tết cũ xưa cũ. Khi còn nhỏ, tôi là người phải thức để lo sắp xếp bàn cúng giữa sân cho Bác tôi

khấn vái. Câu khấn đầu tiên Bác tôi giới thiệu về mình cho những người khuất mặt quanh đây biết về gia thế: “Kính

thưa ông bà, cha mẹ, những người khuất mặt quanh quẩn đâu đây. Tôi tên là Phan Xuân Sâm là con thứ năm của

cha mẹ tôi, người còn lại lớn nhất của gia đình nầy. Hiện tôi đang sinh sống tại Nại Hiên xã, Đà Nẵng xứ, Quảng

Nam tỉnh. Kính xin chư vị ghé qua đây hưởng chút nhang khói nhân ngày đầu khai niên. Giúp đỡ gia đình tôi mạnh

khỏe, thuận hòa. Chúng tôi luôn luôn cung kính gìn giữ lòng biết ơn chư vị…”. Năm nào Bác Năm tôi không được

khỏe, Ba tôi làm nhiệm vụ cúng bái Giao Thừa thay cho Bác. Ba tôi không nói ra những lời như Bác, ông chỉ lầm

thầm trong miệng rồi lạy. Hình như ông làm chuyện nầy cho có lệ, chứ không thành tâm như Bác tôi. Bác nằm trên

gường hỏi Ba tôi sau khi cúng xong vào nhà: “Chú có biết phải để cho cây hương tàn hết mới dọn vô nhà không?”

Ba tôi lúng túng trả lời cho qua chuyện, sự thật cây hương cháy chưa hết một nửa thì Ba tôi đã dọn vô nhà. Cúng

xong bao giờ Bác Năm cũng ngồi uống trà với Ba tôi. Cái cung cách đầu năm cũng đổi khác, nói chuyện với nhau

đượm một chút nhẹ nhàng. Hình như người ta gìn giữ tốt đẹp nhất cho ngày đầu năm.

Sau nầy Bác tôi mất, Ba tôi mỗi năm cúng GiaoThừa thay cho Bác. Tôi là người được ngồi đối diện uống trà với

Ba tôi. Sau đó hai cha con dẫn nhau xuất hành, thường thường chúng tôi đi đến chùa Nại Hiên lạy Phật. Chính lúc

trên đường đi Ba tôi mới kể cho tôi nghe nhiều chuyện của quê tôi. Cái chuông chùa của làng Nại Hiên là do ông

Án Nại đúc tặng cho làng (Ông Án Nại tên là Nguyễn Hanh, Án Sát tại Nghệ An, nguyên quán của ông ở làng Nại

Hiên nên thường gọi ông là Án Nại, sau ông từ quan theo phong trào Văn Thân, Cần Vương, bị tử thương ở mặt

trận Phú Thượng Hòa Vang, Quảng Nam). Có một năm vợ chồng người học trò cũ của Ba tôi tới chúc tết thầy. Ba

gọi tôi ra chào chị Hồng, người mà khi tôi còn nhỏ Ba tôi nhờ chị chăm sóc cho tôi vì má tôi mất sớm. Ba tôi đi

dạy mang tôi đi theo, các chị thay phiên chăm sóc tôi, đút cơm, tắm rửa, thay áo quần. Trong số các chị thì chị

Hồng là người lo cho tôi nhiều nhất. Lúc nầy tôi đang học đệ nhị. Từ trong buồng ngủ bước ra. Chị Hồng trố mắt

nhìn tôi: “Thằng Sinh đây hả thầy? Hồi nhỏ nó bụ bẫm sao lớn lên nó ốm quá vậy? Có đau gì không? Ừ, mà như

vậy trông có vẻ thư sinh, bảnh trai. Hắn mà gái trông thấy phải chạy theo thôi”. Chị hỏi tôi, hồi nầy có còn thích ăn

bánh bèo không? Hồi còn nhỏ xíu khi dẫn nó ra chợ, bao giờ nó cũng chỉ hàng bánh bèo, ăn một lần bốn năm

chén. Tôi gật gật đầu, ý của tôi nói với chị vẫn còn thích ăn bánh bèo.

Vợ chồng chị Hồng chắc là khá giả, chị ấy móc tiền lì xì cho tôi 200 đồng, số tiền đó lúc ấy hơi lớn. Chị kể mấy chị

trong lớp hay bẹo má phúng phính của tôi. Thứ bảy chủ nhật các chị thay phiên nhau xin Ba tôi cho các chị mang

tôi về nhà. Ba tôi thì lúc nào cũng gật đầu đồng ý. Sau nầy lớn lên tôi mới biết đó là lúc tốt nhất để Ba tôi có thời

giờ đi cua “đào”. Ông thầy giáo vợ chết sớm, sống lẻ loi sao được, tuổi lại còn quá trẻ nên có cơ hội thuận tiện lúc

nào là ông “tranh thủ” đi đến nhà các bà bồ để tán dóc. Ra tết, chị Hồng chạy xe Honda tới nhà mang cho tôi

chừng hơn 10 chén bánh bèo. Bánh bèo Quảng Nam lớn lắm, chén đổ bánh bằng chén ăn cơm, chị nghĩ rằng hồi

còn nhỏ tôi ăn được 4 chén, thì bây giờ phải ăn gấp đôi. Tội nghiệp sự chu đáo của chị làm cho tôi nhớ mãi. Ba tôi

kể, nhà chị Hồng nghèo nên mỗi năm phụ huynh đi lễ tết cho thầy nào là bánh, mứt, rượu, gà, nếp, bánh tét… Ba

tôi gọi mẹ chị Hồng qua nhà lấy bớt đêm về nhà ăn tết, nên gia đình chị Hồng mặc dù ít mua sắm cho ngày tết, vẫn

có đầy đủ mọi thứ trong nhà. Khi chị đi lấy chồng Ba tôi có đi dự. Sau nầy chị kể cho Ba tôi nghe chị và anh Khiết

cùng học một lớp yêu nhau, nhưng gia đình anh Khiết nghèo quá nên anh ấy không thể cưới chị. Con gái đến tuổi

không thể chờ đợi nên gia đình phải gả chị cho anh Hoàng ở làng bên. Gia đình anh Hoàng khá giả, chị về làm dâu

cũng sung sướng. Anh Hoàng đi lính ở thành phố nên không sợ phải ra trận, còn anh Khiết cũng vào lính được

chừng hơn một năm thì tử trận.

Cái vui nhất của tôi là ngồi canh lửa nồi bánh tét. Mấy thằng bạn nhỏ trong xóm tụ lại nghe tôi kể chuyện. Ngồi

chung quanh nồi bánh, lửa phừng phực cháy xua đuổi cái lạnh mùa đông, ngồi chờ ngoại tôi vớt ra mấy cái bánh ú

cho tôi, bạn bè chia nhau ăn. Sau nầy lớn lên bao giờ tôi cũng mua một lít rượu để sẵn, một dĩa thịt heo dầm nước

mắm, một chén củ kiệu, vài thằng bạn ngồi nhâm nhi. Lúc nầy chúng tôi sắp bước vào lính nên bữa nhậu đượm

một chút buồn trên mặt.

Tết Mậu Thân, thành phố Đà Nẵng sống trong yên bình. Đêm giao thừa pháo vẫn nổ rộn rã, xen lẫn tiếng súng nổ

nhiều hơn mọi năm, tiếng súng nổ nhiều nhất ở ven thành phố. Dân chúng hoàn toàn không biết là Việt Cộng tổng

tấn công bị các đơn vị đồn trú bên ngoài đẩy lui. Bốn giờ sáng Ba tôi dậy pha trà, súng vẫn nổ nhiều mà không

dứt, mở radio nghe tin tức, mới biết là Việt Cộng tấn công vào các thành phố miền Nam. Lệnh của Bộ Tổng Tham

Mưu kêu gọi quân nhân đang ăn tết với gia đình, phải trình diện ở những đơn vị gần nhất. Tất cả gia đình đều hé

cửa nhìn ra đường, chỉ thấy xe tuần tiễu của quân đội thỉnh thoảng gắn loa phóng thanh, lệnh giới nghiêm 24 giờ

trên toàn thành phố. Tất cả phải đóng kín cửa không được ra đường. Các quân nhân ở xa về ăn tết ra đường đón

xe tuần tiễu để được chở vào Quân Vụ Thị Trấn. Sáng mồng một, đài phát thanh địa phương báo cho biết là Quân

đội đã đẩy lui các cuộc tấn công vào thành phố. Chỉ biết được tin tức qua đài phát thanh. Người dân Đà Nẵng yên

tâm ăn tết không bị quấy phá bởi lực lượng bên kia. Chừng 9 giờ sáng mọi người ra đứng trước cửa nói chuyện

với hàng xóm, khuôn mặt họ đều ngơ ngác. Nói chuyện về tình hình chiến sự chỉ đoán già đoán non chứ quả thật

không ai biết gì cả. Tối mồng một tết nghe phong phanh có mấy người trong xóm trước đây đi nhảy núi, đã thấy

xác của họ ở xã Hòa Cường. Chuyện thật hư không ai biết, mọi chuyện đều bị xé to. Tối cả nhà quây quần chung

quanh chiếc radio để nghe BBC và VOA, lúc nầy mới biết rõ các tỉnh, thành phố ở miền Nam đều bị tấn công.

Nghe lén đài phát thanh Hà Nội thì họ bảo quân Cách Mạng đã chiếm được miền Nam, dân chúng miền Nam đón

tiếp niềm nở. Sau nầy mới rõ, các cán binh miền Bắc tin vào lời tuyên truyền trên radio, trên truyền đơn, dân chúng

sẽ đón tiếp các anh nên họ tưởng thật. Khi vào thành phố họ mới biết chẳng có ai đón tiếp họ. Ai thấy họ cũng đều

sợ hãi, cũng đều trốn tránh. Thú thật người dân lúc đó rất hoang mang không thể tin được đình chiến mà lại bị

quân Bắc Việt tấn công. Ở Đà Nẵng chỉ nghe súng nổ trong ngày mồng một tết, khuya mồng một tiếng súng nghe

xa xa nghĩa là chiến sự đang ở các vùng quê. Như vậy quân đội đã làm chủ được tình hình. Đó là một cái tết đã

làm điêu đứng toàn dân, phe Cộng Sản xé bỏ hiệp định đình chiến. Từ cái chuyện Tết Mậu Thân, tôi bắt đầu ngao

ngán chế độ Công Sản, tôi không tin những gì họ tuyên truyền trước đây. Tôi nghĩ nếu chế độ nầy họ thắng trong

cuộc chiến thì dân chúng sẽ khổ biết mấy. Chỉ có một hiệp đình đình chiến trong 3 ngày tết để dân chúng nghỉ ngơi

mà họ trắng trợn vi phạm. Thì làm sao họ tôn trọng những thứ khác. Sau khi chiếm được miền Nam thì mới tỏ rõ

bộ mặt nham hiểm thật sự của họ. Những ngày sau đó thành phố Huế vẫn còn phe Giải Phóng chiếm đóng, chiến

sự vẫn còn gay gắt. Gần một tháng quân đội miền Nam mới thực sự chiếm lại Huế.

Nói đến tết mà không đề cập tới tết Mậu Thân ở Huế là một thiếu sót lớn. Mặc dù tôi không ở Huế để chứng kiến

cái cảnh tan nát mà người dân Huế phải gánh chịu. Thế nhưng mỗi ngày tôi phải mở đài BBC và VOA để nghe

chiến sự ở Huế. Đà Nẵng và Huế chỉ cách nhau vào khoảng 80 cây số theo đường chim bay (100 cây số tính theo

đường quốc lộ), thế mà Huế lại gánh tất cả những hãi hùng, thật tội nghiệp. Những nơi bị Việt Cộng chiếm đóng

xẩy ra biết bao tai ương, số người bị họ giết nhiều vô kể. Đổ lỗi cho cá nhân nầy, cá nhân kia gây nên, tôi không

đồng ý, vì cá nhân không thể tàn bạo như vậy, giết hại bà con ruột thịt của mình. Chỉ có quyết định của đảng Cộng

Sản. Tôi không đề cập đến chuyện nầy, điều mà tôi muốn nói ra trong hồi ký nầy là tang thương ụp lên đầu những

người dân vô tội, nhà nào cũng có người là nạn nhân của cuộc tấn công tết Mậu Thân. Gần đây sau bốn mươi bảy

năm những người Cộng Sản im tiếng, thì bỗng nhiên có một người ngụy tạo ra một tài liệu bảo rằng những nạn

nhân tết Mậu Thân đều do máy bay Mỹ giết hại. Khi quật những nấm mồ tập thể, tất cả những nạn nhân bị cột tay

chung với nhau, đầu bị vỡ sọ. Như vậy họ dùng cuốc xẻng đập vào đầu, không thấy một vết đạn nào. Lại nghe nói

một ông đạo diễn dàn dựng một cuốn phim về tết Mậu Thân quy tội cho Mỹ Và quân đội Cộng Hòa. Còn cán binh

Bắc Việt vô tội. Việc làm nầy đi ngược lại sự thật đã trở thành hiển nhiên, mà họ tán tận lương tâm thêu dệt ra để

tránh tội. Họ quên nghĩ rằng, những vùng của họ chiếm đóng làm sao có lính Cộng Hòa vào bắt đồng đội của mình

đem ra giết. Cho nên vải thưa không thể che mắt thánh. Chuyện của họ làm người dân Huế đều biết rõ, không chối

cãi được. Người Mỹ trước đây quá mệt mỏi với “Cuộc Chiến Việt Nam”, họ không muốn khui lên đống tro tàn sợ

đau lòng dân chúng Mỹ. Những năm gần đây, sự việc đã trở nên nguội lạnh, thì chính những Quân Nhân Mỹ tham

chiến tại Việt Nam bắt đầu lên tiếng. Họ cho rằng QLVNCH là một quân lực hùng mạnh nhưng phải thua vì thiếu vũ

khí và đạn dược. Chính nước Mỹ gây ra oan khiên nầy. Song song đó thì bà Giáo Sư Orgar Dror phân khoa lịch sử

Đại học Texas A&M (một người Do Thái gốc Nga) dịch quyển Giải khăn sô cho Huế của nhà văn Nhã Ca ra tiếng

Anh với nhan đề MOURNING HEADBAND FOR HUE. Giải khăn sô cho Huế tố cáo những tội ác của quân Bắc

Việt gây ra tan thương cho Huế. Chính Nhã Ca đã có mặt ở Huế lúc đó, chị là một nhân chứng sống, viết với một

tấm lòng dành cho Huế, không thêu dệt hay bịa đặt. Cuộc ra mắt sách tại Đại học UC Berkeley, California, được

sinh viên Mỹ hoan hô nhiệt liệt.

Sau khi Huế được Quân Đội Cộng Hòa chiếm lại, chừng một tháng sau, tôi có dịp ra Huế. Cầu Trường Tiền sụp,

nhà cửa tiêu điều, đường phố vắng người. Chỉ có xe quân đội tuần tiễu trên đường phố. Tôi có cảm tưởng như

Huế mắc phải cơn trọng bịnh chưa kịp hồi phục, sống trong uể oải, nhìn thấy người đi đường mặt buồn thiu. Huế

tang thương như vậy đó, thật tôi nghiệp. Đi đâu cũng thấy vết tích chiến tranh, số người chết nhiều quá, nhiều hơn

ngày Kinh thành Huế thất thủ, khi vua Hàm Nghi khởi nghĩa cuộc binh biến bất thành. Sau đó quân Pháp tràn vào

gặp ai giết đó, bất kể người có tội hay không. Huế nơi nào cũng có máu đổ, người dân Huế nhà nào cũng lập đàn

cúng cô hồn trong ngày Kinh Thành thất thủ. Sau nầy đêm giao thừa người dân Huế cũng lập đàn cúng tế cho

những vong hồn bị Việt Cộng giết trong tết Mậu Thân. Số người bị giết chết trong tết Mậu Thân nhiều hơn số

người bị Pháp giết trong ngày Kinh Đô thất thủ.

Khi ra đơn vị, tôi trình diện Trung Đoàn 51 Biệt Lập, đồn trú tại Quảng Nam, vào khoảng hai mươi tháng chạp,

nghĩa là chỉ còn 10 ngày nữa tới tết. Đây là cái tết đầu tiên của tôi ở quân đội. Năm thằng sĩ quan ở chung một

phòng. Người lính phụ trách câu-lạc-bô, đêm giao thừa mang tới cho chúng tôi 2 lít rượu đế và 5 lon thịt ba lát, bảo

rằng Đại Úy Đại Đội Trưởng bảo mang đến cho các ông uống rượu mừng xuân. Năm đứa trải chiếu ngồi xuống

sàn nhà bắt đầu uống rượu. Thú thật đây là cái tết buồn nhất trong đời tôi, chúng tôi ngồi uống rượu mà không nói

một lời, mỗi đứa mang một tâm trạng khác nhau. Nhớ nhà, nhớ người yêu, nhớ bạn bè còn bên ngoài, nhớ quán

cà phê… Uống hết hai lít rượu định don dẹp đi nằm thì mấy người lính ở Trung Đội của tôi trông coi, mang rượu

vào nhập cuộc, lúc nầy đông người chúng tôi mới cảm thấy hứng chí. Cuộc rượu cho đến sáng mồng một mới tan

hàng. Suốt ngày mồng một chúng tôi ngủ li bì.

Sau 1975, tôi sống ở Sài Gòn. Có một năm tôi về Đà Nẵng ăn tết. Chiều 28 tháng chạp, Ba tôi và tôi ra chợ hoa

tìm một cành mai. Tôi muốn mua một cành mai lớn, Ba tôi thì bảo mai lớn mắc tiền trong lúc kinh tế khó khăn, nên

mua một cành nhỏ cho đỡ tốn kém. Tôi đồng ý vì nghĩ lại mọi người đang chật vật mà mình phung phí như vậy cũng

khó coi. Tất cả hoa hồng và hoa cúc Ba tôi trồng nở rực rỡ nên cái tết năm đó thật vui cửa vui nhà. Mồng bốn tết

tôi chuẩn bị vào lại Sài Gòn thì Công an mời lên Phường làm việc vì họ nghi tôi thuộc diện sĩ quan trốn học tập. Tôi

đi theo người Công an khu vực lên phường, trình bày các giấy tờ trình diện cho họ xem, tôi bị thương được cho về

địa phương học tập tại chỗ. Ông trưởng Công an phường bảo tôi để giấy tờ ở đây để họ xác minh. Tôi thấy không

xong nên tìm người giúp đỡ. Cũng may thằng cháu gọi tôi bằng cậu bảo với tôi là rõ ràng tụi nầy muốn làm tiền,

cậu đưa một ít tiền con đi lấy giấy tờ về cho cậu. Quả nhiên một lúc thằng cháu mang giấy tờ về cho tôi. Từ đó, tôi

không bao giờ về Đà Nẵng ăn tết nữa. Ở Sài Gòn những ngày tết đến, tôi nhớ nhà quay quắt thế nhưng nghĩ lại cái

cảnh làm tiền trắng trợn, bắt nạt dân chúng của Công an địa phương, tôi đành phải từ bỏ ý định trở về.

Thực tình mà nói, mười lăm năm sống trong nước, tôi trải qua cay đắng, vinh nhục. Nhưng rồi mọi chuyện cũng trôi

qua. Ở ngay trên quê hương mình mà mỗi lần đến tết không dám về thăm nhà, nghĩ cũng buồn thật. Sáng mồng

một tết, tôi chở hai con đi chùa, Chùa chúng tôi đi ở Cống Bà Xếp, gần ga Hòa Hưng, Sài Gòn. Chùa do một vị

Trụ Trì người Miền Trung (hình như là Bình Định) trông coi. Vì chùa nhỏ ở trong một con hẻm sâu nên người đi

viếng chùa đầu năm cũng không nhiều. Thầy rất quý mến tôi. Đến chùa nầy tôi nhớ lại chùa Nại Hiên của tôi, mỗi

năm đi với Ba tôi, cùng ngồi trên bàn với mấy bác bạn vối Ba tôi trong làng, uống nước trà, nói chuyện râm ran.

Khi về lại nhà thì quá nửa đêm, bao giờ Ba cũng bảo tôi vào nhà trước để “đập đất”. Mặc dù thức khuya, nhưng

bao giờ Ba tôi cũng dậy sớm pha trà cúng đầu năm. Cái đêm ba mươi trầm lặng, thế mà mỗi khi xa nhà nhớ lại

thấy nó lâng lâng, lòng bỗng dưng cồn cào quay quắt. Cho đến bây giờ hơn hai mươi lăm năm xa xứ lòng tôi càng

quặn đau thêm. Nếu có ai hỏi tôi, đêm 30 tết ở Đà Nẵng có cái gì khác với đêm 30 tết ở Sài Gòn trước đây hay

hải ngoại bây giờ? Tôi sẽ không trả lời được. Có những điều chỉ biết cảm nhận nhưng không thể mô tả bằng ngôn

ngữ, trường hợp nầy cũng vậy.

Tôi đến Mỹ năm 1990. Năm đó tôi sống ở Philadelphia thuộc tiểu bang Pennsilvania. Đêm 30 tết tôi có đi dự đón

giao thừa ở nhà thờ gần nhà, mặc dù chúng tôi không phải là giáo dân. Tôi cảm thấy lẻ loi, những người tham dự

rất vui. Hay là tâm trạng của người mới hội nhập chưa thích ứng với cuộc sống nơi đây, nhưng sau nầy tôi có một

thời gian sống ở Oakland gần San Jose, California, thành phố người Việt đông, thế mà tôi vẫn không tìm thấy cái

không khí như bên quê nhà. Mới biết quê hương đã ăn sâu, thấm đẫm trong lòng chúng tôi.
… Sau nầy tôi định cư ngụ nhiều chỗ khác nhau, nhiều tiểu bang khác nhau. Dù có bận rộn đêm 30 tết tôi vẫn chở

các con đi lễ chùa, vì đó là cách tốt nhất còn gìn giữ lại được một chút gì đó cho quê hương.
Giống như Ba tôi ngày xưa, sau khi cúng giao thừa tôi ngồi một mình uống trà. Chính lúc nầy là lúc nhớ nhà. Theo

thói quen đầu năm tôi thường làm vài câu thơ mà người xưa hay bảo là khai bút:
“những câu thơ khiến ta chùn bước
lời ru quen đẫm nát lòng nhau
một thuở nhớ hoài thành mỏi mệt
cuối năm trời lạnh thêm nỗi sầu”
(Nhớ người, chiều cuối năm – trong thi tập Tát cạn đời sông)
Hoặc:
“trời lạnh, đêm tàn, một mình uống rượu
một mình ngồi giữa đêm ba mươi
tìm quanh không thấy một bóng người
lòng rũ, mắt đục mờ sương khói.”
(Đêm ba mươi, uống rượu – trong thi tập Tát cạn đời sông)
… Hôm nay là ngày đầu năm, tôi viết lại hồi ức nầy để tưởng nhớ, để suy ngẫm. Những điều hay cũng có, những

điều không hay cũng nhiều. Tất cả đều rơi vào thời kỳ quá vãng. Dù hay dù dở nó đều gợi lại cho tôi một chút kỷ

niệm vui buồn…
Phan xuân Sinh
Những ngày cuối năm Ất Mùi

Ai đang xem chủ đề này?
Guest
Di chuyển  
Bạn không thể tạo chủ đề mới trong diễn đàn này.
Bạn không thể trả lời chủ đề trong diễn đàn này.
Bạn không thể xóa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể sửa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể tạo bình chọn trong diễn đàn này.
Bạn không thể bỏ phiếu bình chọn trong diễn đàn này.

Powered by YAF.NET | YAF.NET © 2003-2024, Yet Another Forum.NET
Thời gian xử lý trang này hết 0.328 giây.