Thời Báo số Xuân Giáp Ngọ phát hành ngày 25-01-2014 có đăng hai bài thơ Đường luật thất ngôn bát cú (Xướng và Họa) Lại Tết Về Giữa Mùa Đông của Trúc Lan với lời mời gọi “Mời các bạn cùng họa bài thơ”. Giới thiệu cặp thơ xướng-họa nầy, Thời Báo đã mặc nhiên muốn phát động phong trào xướng-họa thơ Đường luật ở hải ngoại, giống như báo điện tử NguoiViet.de ở Đức tổ chức xướng-họa thơ lần đầu tiên nhân Ngày Đàn Ông (Mannertag) vào năm 2011.
Người viết sẽ lần lượt điểm qua vài nét về thơ Đường luật, cách thức xướng-họa, sau cùng chép lại một số bài thơ họa và đưa ra vài nhận xét.
Vài nét về thơ Đường luật Thơ Đường hay Đường Thi là thể thơ được sáng tác vào thời nhà Đường (618-907) bên Trung Hoa. Số lượng các bài thơ Đường được ghi chép và lưu truyền đến nay lên đến hàng chục ngàn bài (khoảng 48000) của hàng ngàn tác giả. Tác phẩm Đường Thi nhất thiên thủ chọn lọc 1000 bài Đường Thi hay nhứt của các thi nhân đời Đường. Đời Thanh chọn 300 bài tiêu biểu do Hàng Đường Thoái Sĩ và Trần Uyển Tuấn bổ chú thành Đường Thi tam bách thủ được phổ biến rộng rãi ở Trung Hoa, Việt Nam…
Đến đời Trần Nhân Tông (1258-1308), Nguyễn Thuyên (1229-?) là người đầu tiên biết theo Đường luật mà làm thơ Nôm, đặt ra thể thơ Hàn luật. Như vậy thơ Hàn Luật là thơ nôm (tiếng Việt) theo luật thơ Đường. Đó là thể thơ vay mượn “thi pháp của Tàu, âm luật của ta” (Dương Quảng Hàm) để tạo thành thơ ta như các thể thơ Việt Nam khác.
Hiện nay có sự lạm dụng, nhập nhằng về tên gọi thể thơ Đường luật. Nhiều thi sĩ trong nước làm thơ Đường luật gọi đó là Thơ Đường hay Đường Thi. Thật là sự ngộ nhận đáng tiếc! Lại có “nhà thơ” đòi phát động phong trào “Thắp Sáng Đường Thi”. Trời đất! Đường Thi đã thật sự tỏa sáng ngàn năm rồi, thắp sáng hay không là việc của con cháu các ông Lý Bạch, Đỗ Phủ, mắc mớ gì đến chúng ta mà sáng với tối!
Người viết dù có ý muốn thoát Trung, nhưng vẫn không bài ngoại như Thánh Gandhi đã từng hô hào tẩy chay hàng hóa của Anh thuở nọ; cũng không triệt để bài Pháp như cụ Đồ Chiểu qua việc không dùng xà bông của Pháp (chỉ dùng nước tro để giặt đồ), không đi trên đường Tây đắp, gọi người Pháp là “loài bạch quỷ”, thậm chí khuyên con cháu không được học chữ quốc ngữ vì cho đó là “lối phát minh man rợ”. Chúng tôi không đồng ý với tên gọi như Thơ Đường, Đường Thi hay Thơ Đường Việt Nam (thiếu chữ luật) và xin được đề nghị các tên gọi như Thơ Đường luật Việt Nam hay Thơ Đường luật.
Thơ Đường luật có bốn thể: Ngũ ngôn tứ tuyệt, Ngũ ngôn bát cú, Thất ngôn tứ tuyệt, Thất ngôn bát cú. Ở đây, người viết chỉ lạm bàn tới thể Thất ngôn bát cú.
Xướng-họa thơ Đường luậtThơ xướng-họa có nhiều loại, thông dụng nhứt là thơ Đường luật thất ngôn bát cú. Đã có họa, tất nhiên phải có xướng. Bắt chước người xưa khi cho rằng “Xuất đối dị; Đối đối nan”(Ra câu đối thì dễ, đối lại câu đối lại khó), tôi có thể viết “Xuất xướng nan; Họa xướng nan”. Thật vậy, làm thơ Đường luật (xướng) là một việc khó, không phải ai cũng làm được. Họa một bài thơ Đường luật lại càng khó hơn. Cho nên ít có bài họa xuất sắc. Ngoài việc tuân thủ các quy luật nghiêm ngặt của một bài thơ Đường luật (như Vần, Đối, Luật, Niêm và Bố cục), người họa cần phải biết rõ cách thức họa thơ. Có nhiều tài liệu đề cập đến vấn đề nầy, người viết chỉ xin tóm gọn hai yêu cầu chánh về nội dung và hình thức.
Về nội dung: Bài họa phải dựa theo ý bài xướng (chủ đề, nội dung), có thể biểu đồng tình mà bàn rộng thêm ra hay phản đối hoàn toàn.
Về hình thức có họa hạn vận và họa phóng vận.
1
.Họa Hạn vận: Lối họa nầy không có bài xướng, chỉ có đề mà thôi. Người họa phải diễn tả ý thơ theo đầu đề đã ra sẵn và dùng đúng 5 vần hạn định của bài xướng.
Thí dụ: Cuộc thi thơ do Phan Kế Bính tổ chức.
– Đầu đề (Nội dung cần diễn tả): Trống treo, ai dám đánh thùng / Bậu không, ai dám dở mùng chun vô.
– Năm vần hạn định: xô – cô – vô – ô – rô.
Điều khá thú vị là người đoạt giải nhứt tại cuộc thi nầy lại là một nhà sư! Bài thơ họa như sau:
Nào phải là ai dám giục xô
Thuận tình trước hết tự nơi cô
Có cho mới dám trao dùi đánh
Không hẹn nào ai đẩy cửa vô
Mảng sướng kể gì thân lễ nghĩa
Ham vui quên hết chuyện dâm ô
Thói hư thuần thước xưa còn lạc
Đừng học làm chi gióng nhảy rô.
2.
Họa Phóng vận: Lối họa nầy dựa vào một bài thơ có sẵn gọi là bài thơ xướng. Bài họa có thể theo một trong bốn cách sau đây:
– Họa nguyên vận: là họa đúng 5 vần của bài xướng và hạ vần đúng y theo thứ tự của bài xướng;
– Họa đảo vận: là họa ngược thứ tự 5 vần từ dưới lên trên;
– Họa hoán vận: thay đổi thứ tự vị trí vần của bài xướng sao cho êm tai;
– Họa tá vận: mượn vần, không cần phải theo nội dung của bài xướng, nên dễ làm.
Chú ý: Bài xướng gieo luật gì thì bài họa phải đối lại luật đó. Bài xướng luật Bằng thì bài họa phải là luật Trắc, và ngược lại. Trong một số trường hợp có thể du di, họa đồng luật cũng được.
Thí dụ: Trong 10 bài thơ xướng họa liên hoàn Giang san ba tỉnh giữa Tôn Thọ Tường và Phan Văn Trị, có 6 bài họa của Cử Trị không đối luật.
Chẳng hạn bài 1:
Bài xướng của Tôn Thọ Tường (luật Bằng)
Giang san ba tỉnh hãy còn đây
Trời đất xui chi đến nỗi này
Chớp nhoáng thẳng bon dây thép kéo
Mây tuôn đen kịt khói tàu bay
Xăn văn thầm tính, thương đòi chỗ
Khấp khởi riêng lo, biết những ngày
Miệng cọp hàm rồng, chưa dễ chọc
Khuyên đàn con trẻ chớ thày lay!
Bài họa của Phan Văn Trị (luật Bằng)
Hơn thua chưa biết đó cùng đây
Chẳng đã, nên ta mới thế này
Bến Nghé quản bao cơn lửa cháy
Cồn Rồng dầu mặc bụi tro bay
Nuôi muông giết thỏ còn chờ thuở
Bủa lưới săn nai cũng có ngày
Đừng mượn hơi hùm rung nhát khỉ
Lòng ta sắt đá há lung lay!
Trường hợp một bài thơ thất luật cho dù có thi thánh, thi thần cũng không tài nào họa nổi.
Thí dụ: Bài thơ Đèo Ba Dội của Hồ Xuân Hương.
Một đèo, một đèo, lại một đèo
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo
Cửa son đỏ loét tùm hum nóc
Hòn đá xanh rì lún phún rêu
Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc
Đầm đìa lá liễu giọt sương gieo
Hiền nhân quân tử ai mà chẳng
Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo.
Đây là một bài thơ thất luật (căn cứ vào chữ đèo thứ hai câu đầu, đáng lẽ Trắc), thất niêm (chữ thứ hai câu 1- thanh Bằng=đèo, không cùng thanh với chữ thứ hai câu 8- thanh Trắc=gối).
Chú ý: Hạn chế dùng lại chữ thứ 6 của các câu 1,2,4,6,8 của bài xướng.
Có thể dùng lại một số tử vận, tức nhóm từ không thể thay thế được (thí dụ: xót xa; danh từ riêng: Nam Quan, Quang Trung).
Một số bài thơ Họa bài Xướng Lại Tết Về Giữa Mùa ĐôngTừ khi Thời Báo đăng bài thơ xướng-họa ấy, tôi để tâm theo dõi xem có ai là người đồng điệu hạ bút họa thơ…
Hai tháng sau, trên tờ Thời Báo số ra ngày 01/03/2014 có đăng hai bài thơ họa của tác giả Tú Xác với tựa đề lần lượt là Một trà một rượu một băng ngàn (luật Bằng) và Thiên thu (luật Trắc).
Tôi đã thử tìm cách liên lạc với tác giả Tú Xác, qua ông Chủ Bút Thời Báo, để cám ơn, đồng thời xin phép phổ biến các bài thơ họa khi có dịp. Đến nay vẫn chưa lần ra manh mối.
Thế là tia hy vọng của tôi vừa lóe lên đã bị dập tắt.Một cái duyên khác đưa đến. Tuần vừa qua, trong lúc lang thang trên mạng, tôi tình cờ biết có thêm ba tác giả đã họa lại bài thơ xướng Lại Tết Về Giữa Mùa Đông. Biết đâu còn có thêm một vài bài thơ họa khác mà tôi chưa biết. Trong số ba tác giả, có một người ở Canada họa ba bài (Tứ Diễm); một người không rõ ở đâu họa một bài (PN- tức Phong Nguyen); một người ở Hoa Kỳ họa một bài (Lan Dinh).
Trúc Lan thành thật cám ơn các tác giả có bài thơ họa và xin phép chép lại những bài thơ họa đó. Đồng thời người viết mạo muội đưa ra một vài nhận xét nho nhỏ (xin lỗi các thi sĩ đồng điệu) theo kiểu thầy bói mù xem voi, “thấy sao nói vậy”. Dám mong các bậc thức giả am tường về xướng-họa thơ Đường luật vui lòng bổ sung, chỉ giáo. Xin đa tạ.
*Bài thơ Xướng-Họa Lại Tết Về Giữa Mùa Đông của Trúc Lan (lược bỏ phần chú thích):
Bài Xướng (Luật Trắc)
Tết giữa mùa Đông – suối lệ tràn
Ngàn năm ô nhục: Ải Nam Quan!
Tây nguyên hùng vĩ, người khai thác
Biển đảo đẹp giàu, chúng phá tan
Hội nghị Diên Hồng: bừng chánh khí
Bài thơ Nam Quốc: nức tâm can
Non sông gấm vóc, thề son sắt
Tủi gió sầu mưa – hận ngút ngàn!
Bài họa (Luật Trắc)
Tết giữa mùa Đông – lệ cứ tràn
Khóc cho Bản Giốc, hận Nam Quan
Tài nguyên phong phú, người xâm đoạt
Văn hiến ngàn xưa, chúng xóa tan
Đại cáo Bình Ngô: ngời chánh nghĩa
Lời thề Sát Thát: rực tâm can
Chừng nào minh chúa tòng dân ý
Phất ngọn cờ đào diệt sói ngàn!
Trúc Lan
Montreal, 10/2013
Nhận xét: Cả hai bài thơ xướng-họa đều làm theo thể Đường luật thất ngôn bát cú luật Trắc, vần Bằng, đúng niêm, đối khá chỉnh. Đặc biệt tử vận ở cuối câu 2 của bài xướng (địa danh Nam Quan) do tác giả cố ý sử dụng để nhờ các bạn yêu thơ thử trổ… tài họa xướng! Vì khó đối nên bài họa phải đối cùng luật Trắc.
*Hai bài thơ Họa của Tú Xác
Bài 1: Một trà một rượu một băng ngàn (Luật Bằng)
Mừng Xuân rượu thấm nói năng tràn
Dân đã hoàn dân quan hết quan
Gió nhẹ bè trôi đình đám tụ
Mưa dầm đầm vắng cối chày tan
Say mồi đắc chí xin đừng cản
Gặp mối đê mê chẳng dám can
Trà rượu lăng nhăng là món phụ
Thứ ba đã bén dẫu băng ngàn.
Bài 2: Thiên thu (luật Trắc)
Đông đến xuân sang tuyết dễ tràn
Của dân cũng trắng huống chi quan
Trắng trên trắng dưới không thèm lẩn
Đen nhỏ đen to chẳng chịu tan
Tạo hóa đặt bày đừng có đổi
Đất trời phó thác chớ nên can
Tuyết là tuyết nguyệt thiên thu trọn
Xuống biển y như thứ ngược ngàn.
(Nguyên tiêu, năm Ngựa)
Nhận xét: Tác giả nắm vững cách họa thơ Đường luật nên cả hai bài họa khá hoàn chỉnh về niêm, luật, vần. Vì gặp tử vận ở câu 2 nên bài họa 2 cùng đối luật Trắc. Riêng về đối, tác giả Tú Xác đã sử dụng phép đối tương phản. Tuy nhiên hơi xa đề. Cả hai bài nói lên tâm trạng bi quan của một người bất đắc chí giống như Tú Xương “một trà, một rượu, một…” để mừng Xuân. Mọi việc phó mặc cho Tạo hóa.
*Hai bài thơ họa của Tứ Diễm (Thật ra có ba bài, chỉ chép hai bài và lược bỏ chú thích)
Bài 1 (Luật Bằng):
Đọc thơ ai viết, uất dâng tràn
Hận lũ bạo quyền lẫn ác quan
Áp bức, đọa đầy – dân tới thác
Biển dâng, đất hiến – nước gần tan
Nằm gai rèn luyện tăng hùng khí
Nếm mật trau giồi thêm đảm can
Quyết đuổi giặc dù không tấc sắt
Chẳng nề gian khổ, quyết băng ngàn.
Tứ Diễm – Jan 26, 2014
Bài 2 (luật Trắc)
Càng ngẫm, hận càng mãi uất tràn
Hoàng Sa, Bản Giốc lẫn Nam Quan
Tiền nhân gìn giữ chẳng e thác
Hậu thế bán buôn không ngại tan
Quốc biến – trẻ, già đua tráng khí
Gia nguy – nam, nữ dốc tâm can
Ngày xưa Thánh Gióng vung roi sắt
Nay sánh vai nhau cưỡi sóng ngàn.
Tứ Diễm – Feb 14, 2014
(Nguồn:
http://tudiemcorner.blog...et-ve-giua-mua-dong.html).
Nhận xét Bài 1: Tác giả giữ đúng niêm, luật, vần. Tuy nhiên, vì muốn đối luật nên khi gặp tử vận ở hai chữ cuối câu 2 (ác quan-danh từ chung) đối chưa thật chỉnh với bài xướng (Nam Quan-địa danh). Nhóm từ “Áp bức, đọa đày” (câu 3) đối còn hơi gượng với “Biển dâng, đất hiến” (câu 4). Tác giả họa rất nhanh trong thời gian kỷ lục 2 ngày, đặc biệt họa nguyên chữ cuối cả 8 câu của bài xướng.
Theo chỗ Trúc Lan biết và “đoán mò”, Tứ Diễm là một nữ “nghệ sĩ” thiên phú, đa tài, “công, dung, ngôn, hạnh” gồm đủ (theo cái tên?). Ngoài viết văn, làm thơ, đọc sách, vẽ, chuyên về vi tính, Tứ Diễm còn khéo tay nấu ăn, làm bánh, cắm hoa, may thêu, đan móc v.v…
Nhận xét Bài 2: Bài họa hoàn chỉnh về niêm, luật, vần. Câu 3 và 4 hơi khó đọc. Tuy nhiên đối cùng luật Trắc với bài xướng vì gặp tử vận ở câu 2 (Nam Quan).
*Bài thơ họa của PN (Luật Trắc):
Dù Hạ hay Đông hận vẫn tràn
Khi còn nỗi nhục Ải Nam Quan
Trường Sơn quyết tử dù hồn thác
Đông Hải hy sinh mặc xác tan
Giặc Hán ngang tàng đầy sát khí
Dân Nam hùng dũng một tâm can
Trăm lòng như một thề gan sắt
Gìn giữ non sông mãi bạt ngàn.
P.N-13/02/2014 (theo TuDiem’s Corner Blog)
Nhận xét: Khá hoàn chỉnh về niêm, luật, vần. Vì gặp tử vận ở câu 2 (Nam Quan) nên đối cùng luật Trắc.
*Bài thơ họa của Lan Dinh (Luật Trắc)
Ôi Tết giữa Đông với lệ tràn
Thương nòi thương nước hận tham quan
Giang sơn gấm vóc hèn đem bán
Văn hiến ngàn năm dám phá tan
Không thể ngồi yên còn nợ nước
Gương hùng sử Việt thúc tâm can
Chung tay đòi lại nguyên bờ cõi
Hẹn Tết đầu Xuân vui ngút ngàn.
Lan Dinh (Đặc San Xuân 2015 Ninh-Hoa.com)
Nhận xét: Tương đối chỉnh về niêm, vần. Vì muốn tránh lặp lại tử vận ở câu 2 (Nam Quan) nên phải đối cùng luật Trắc. Ở cặp luận, “Không thể ngồi yên” (câu 5) đối chưa chỉnh với “Gương hùng sử Việt” (câu 6). Bài thơ nói lên tinh thần lạc quan: sau khi chiến thắng giặc ngoại xâm, định yên bờ cõi, toàn dân Việt sẽ “vui ngút ngàn” với cái “Tết đầu Xuân”.
Thay lời kếtXướng-Họa thơ Đường luật là thú chơi tao nhã của các tao nhân mặc khách trong những lúc trà dư tửu hậu, những dịp Xuân về Tết đến. Nếu ngày xưa xướng-họa thơ là “món đặc sản” dành cho bậc thượng lưu trí thức thì ngày nay nó trở thành “sân chơi” văn hóa-trí tuệ tao nhã của những người yêu thơ gồm đủ mọi thành phần, giới tính,lứa tuổi. Thơ xướng-họa còn là phương tiện giao lưu, tạo ra bao liên hệ bằng hữu tao nhã, tri âm tri kỷ.
Trước kia phương tiện thông tin liên lạc còn bị hạn chế, người chơi thơ xướng-họa phải dùng đường bưu điện, mất rất nhiều thời gian, có khi cả tháng. Ngày nay với sự tiến bộ kỹ thuật tin học, qua hệ thống Internet, E-mail, tác giả bài thơ xướng (bản gốc) có thể nhận lại các bài thơ họa (bản sao) trong vài giờ hoặc vài chục phút.
Hai năm trước, Trúc Lan đã sáng tác bài thơ xướng-họa chỉ với mục đích giãi bày tâm trạng của mình bởi nỗi đau đời. Nhờ sự bắc cầu của tờ Thời Báo, một số thi hữu “đồng cảm đồng điệu” đã bỏ công sức tìm chữ, gieo vần, đặt câu họa lại. Xin cám ơn tất cả những người bạn yêu thơ chưa hề quen biết ấy.
Thật thà mà nói, xướng-họa thơ Đường luật quá khó, Trúc Lan ngỡ là thể thơ nầy sẽ dần dần bị “lấn sân” bởi các dòng thơ mới, thơ trẻ. Đến khi sưu tầm, tìm hiểu, Trúc Lan đi từ ngạc nhiên nầy đến ngạc nhiên khác, có thể nói bị “tẩu hỏa nhập ma” bởi phong trào xướng-họa thơ lên quá nhanh như diều gặp gió trong nước cũng như ở hải ngoại (chẳng hạn như ở Đức, Pháp, Mỹ, Gia Nã Đại…). Riêng ở trong nước, phong trào xướng-họa thơ Đường luật đã “bùng phát” khắp từ Bắc vào Nam. Đã có Tuyển tập Thơ Đường luật Việt Nam in năm 2012 gồm hơn 3000 bài với 700 tác giả. Nhiều sinh viên còn chọn Thơ Đường luật làm luận văn tốt nghiệp. Thơ Đường luật vì vậy có lợi thế, có cái đăc tính xướng-họa độc đáo mà các thể thơ khác không có. Điều đó chứng tỏ sức sống dồi dào kỳ diệu của thơ Đường luật, khả năng tiềm ẩn thi phú còn rất nhiều trong cộng đồng người Việt chúng ta ở khắp mọi nơi.
Nếu biết chăm chút, nuôi dưỡng và khơi dậy khả năng tiềm ẩn, sức sống dồi dào ấy, người viết tin rằng dòng thơ Đường luật sẽ không bao giờ ngưng chảy. Nói theo thiên tài Nguyễn Trãi: “Mất thơ, mất nhạc là mất nước”. Các bạn nghĩ sao?
Montreal 01/2016
Trúc Lan
Sửa bởi người viết 14/02/2016 lúc 10:25:50(UTC)
| Lý do: Chưa rõ