Trước khi sinh ra, tôi đã đi lại trên con đường này.
Hòa bình vãn hồi, dân tản cư trở về từ vùng chiến khu, dựng nhà, cày ruộng, xây trường, tấp nập buôn bán, khởi đầu cuộc sống mới lam lũ
nhưng vui. Nhà đông con, mẹ tôi gánh hàng rong bán dọc quốc lộ Một cho đến ngày sinh nở. Lớn lên, tôi theo bà vào ra đoạn đường từ thị xã
đến Diên Sanh thăm dì tôi lấy chồng ở Hải Lăng. Ngày hè, gió Lào miên man thổi, mẹ tôi dắt tay tôi một tay giữ chặt nón, hai mẹ con vừa đi
vừa bị gió thổi bay trên đường. Thỉnh thoảng tiếng tiểu liên từng chặp dội về từ rừng, phía đường xe lửa bỏ không nhiều năm, khuất trong cỏ
lau trắng xóa. Tiếng carbine giòn giã, CKC gióng một, AK đinh tai, M16 lanh lảnh. Nhưng nhiều năm súng đạn đã trở thành quen thuộc, trong
cái bóng đổ dài của chiến tranh, cỏ vẫn mọc, người ta vẫn phải sống, và nhiều khi sống hạnh phúc.
Trước giờ đi học, tôi được mẹ giúi cho hai mươi đồng để ăn bánh mì xá xíu trưa ở lại trường, mười đồng đi đò ngang, từ làng qua thị xã. Tôi
nhịn ăn dành tiền thuê kiếm hiệp. Mê đuổi theo số phận nhân vật, đôi khi tôi xài tạm tiền đò, vậy là tan trường, mùa hè cởi áo quần bơi qua
sông về nhà. May nước không sâu lắm, nhưng có khi cũng uống đầy bụng. Trời nắng gió, bước lên bờ tóc đã khô. Đó là những bài tập bơi
của tôi.
Thực ra, có một nỗi lo âu vần vũ xóm làng khi xảy ra chạm súng giữa nghĩa quân của xã, địa phương quân của quận và các toán du kích từ
rừng về đánh lô cốt, phục kích viên chức chính quyền, hay chuyển hàng tiếp tế. Có lần, trên đường đi học tôi nhìn thấy một cái xác quần đùi
ở trần với những bao thuốc lá Ruby đỏ, Cotab trắng, Bastos xanh, Melia vàng rơi vương vãi, máu nhuộm chúng đã khô, không ai dám nhặt.
Nước mắt cũng mau khô. Nỗi sợ hãi chóng qua, không khí yên bình tái lập. Lực lượng dân vệ, nghĩa quân hoạt động mạnh, gây cảm giác khá
an toàn trong vùng bao quanh thành phố và khu trù mật. Làng tôi bên sông đối diện với thị xã, chiều chiều ánh điện chiếu xuống mặt nước soi
lên tuổi mới lớn. Những đứa trẻ mới lớn hay mơ mộng, thích đọc truyện tình và trinh thám kiếm hiệp, cả hai đều lãng mạn, kiểu khác nhau.
Hồi ấy ở miền Nam có phong trào thuê truyện, nhất là giới học trò. Các hiệu cho thuê phát triển, truyện kiếm hiệp Kim Dung, Ngọa Long Sinh,
Nam Kim Thạch, truyện xã hội Dương Hà, Sĩ Trung, Bà Tùng Long. Tôi có nhiều địa điểm thuê truyện, nhưng trong một con hẻm nhỏ ở gần
chùa Tỉnh Hội, chạy sát bên thành cổ Đinh Công Tráng, dọc theo đầm nước có nhiều hoa sen nở trắng vươn lên dưới vòng rào kẽm gai, một
hôm tôi tìm ra địa chỉ thú vị. Ở đầu ngõ hẻm có cái bảng nhỏ đề “Cho Thuê Truyện”, ba chữ sơn xanh nền đỏ, đập ngay vào mắt, mà dù
không có cái bảng sơn xanh đỏ ấy, dù chỉ là hàng chữ li ti thì những đứa mê truyện như tôi cũng không bỏ sót. Một ngày, đi học tan trường
về, tôi nhìn thấy nó từ sau chiếc cột điện, tôi đứng ngẩn người. Con hẻm sâu, đi loanh quanh một chặp, ở dưới hiên lợp mái tôn của những
ngôi nhà lụp xụp, mới cất, của những người từ vùng phía Nam sông Bến Hải, Dốc Miếu chạy giặc giã sau cuộc bình định Ấp chiến lược, dựng
tạm. Bên những đứa trẻ da xanh mét mặc áo hở rốn, quần đùi, là những thiếu nữ phấn son lòe loẹt. Tôi không chú ý lắm, vì thời ấy đầu óc
còn nghĩ đến thú chơi như câu cá, bắt chim, coi phim cọp và những cuốn sách. Quán là căn nhà nhỏ, phía trước rộng có cái tủ cao mắt lưới,
bên trong bày những gáy sách hấp dẫn. Giữa hai chiếc cột lớn là cái võng dù xanh, một người đàn bà còn trẻ thường nằm ở võng cho con
bú, khi có khách vào thì mới đứng lên tới phía sau tủ sách, lụi cụi ghi chép. Nhiều lần quen thuộc, tôi biết chị có chồng là đi lính hay xa nhà.
Chị có hai hoặc ba đứa con nhỏ, quê Gio Linh, gần cầu Hiền Lương, chạy vào thị xã mới vài năm trước. Chị ít nói, mặt không bao giờ trang
điểm nhưng có nét đẹp kín đáo, dịu dàng, tần tảo. Nghề cho thuê truyện không phải là nghề khá giả, nhưng thích hợp vì chị có con nhỏ. Trong
tủ có nhiều loại sách, truyện chưởng và tiểu thuyết văn học, từ Phi lạc sang Tàu của Hồ Hữu Tường đến Mối tình màu hoa đào của Nguyễn
Mạnh Côn, từ Mèo đêm của Nguyễn Thị Thụy Vũ đến Đêm nghe tiếng đại bác của Nhã Ca, tôi nhớ một đoạn: Hãy mang tất cả về đêm nay
cho tôi thấy. Cho ba tôi thấy. Cho em Kim tôi thấy. Cho chị Hạnh thấy. Tiếng đại bác. Tiếng đại bác. Gửi gì không.
Tủ sách của chị ngày một lớn, đầy ắp, khách ngày càng đông, bọn nhóc. Có lúc tôi vào nhà không có ai, ở cửa con chó nhỏ không sủa. Tôi đi
lui đi tới nhiều lần, mỏi chân, nằm lên chiếc võng dù êm ái cho đến khi chủ nhà về. Lâu riết thành quen. Tuần nào thứ bảy tôi cũng ghé để tìm
đọc một hai cuốn. Tôi đi tìm những thú vui trong chữ, trên giấy, ở ngoài cái thế giới mà tôi đang có, khốn khổ, chết chóc, thế giới có thực ấy
cũng đẹp lạ thường nhưng nguy hiểm lạ thường. Tôi đi tìm những con đường khác của đời sống.
Đối với tôi, cuộc đời vừa mới đến.
Nhưng vội tàn. Ngày lễ Phục sinh, thứ Sáu 30 tháng 3 năm 1972, khởi đầu chiến dịch Xuân Hè, các đoàn xe tăng tràn qua sông Bến Hải tiến
về Đông Hà. Các loạt pháo kích dồn dập dọn đường cho bộ binh theo sau, được bảo vệ bởi các hỏa tiễn đất đối không từ vùng phi quân sự.
Mọi người đều biết hòa đàm Paris dự trù mở trở lại vào tháng 7 năm 1972, nên cả hai bên đều tăng cường hoạt động để giành thế mạnh. Ba
ngày sau, thứ Hai 3 tháng 4, quân đội miền Bắc đẩy lùi các phòng tuyến bảo vệ, tràn qua Cam lộ. Sự viện trợ của không lực Mỹ bị giới hạn,
gần như bất động hoàn toàn trong thời gian này. Quân đội miền Nam tổn thất nặng, rơi vào hỗn loạn. Căn cứ Cồn Tiên, Mai Lộc thất thủ. Cầu
Đông Hà bị giật sập làm chậm bước tiến nhưng chỉ được vài ngày. Dân chúng và chính quyền địa phương bắt đầu rút chạy về phía Nam. Gia
đình tôi vào Huế, ở tạm nhà dì tôi bên Đập Đá và nhà chị tôi trong thành Nội, gần trường Hàm Nghi. Ngày 3 tháng 4, khi chúng tôi đang ở
Huế, trên vô tuyến truyền hình, tôi thấy tướng Hoàng Xuân Lãm tư lệnh vùng 1 kêu gọi phản công trên các mặt trận. Ngày 6 tháng 4, hỏa tiễn
và moọc chê bắn vào Đông Hà. Không chỉ vùng giới tuyến, trong tháng Tư này, nhiều mặt trận khác ở miền Nam lửa cũng cháy bừng bừng.
An lộc bị vây hãm. Giữa tháng 4, trung tá tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 11 nhảy dù Nguyễn Đình Bảo tử trận, căn cứ Charlie ở Kon Tum tan vỡ.
Sau đó tình tình địa phương bỗng trở nên lắng dịu. Hai tuần lễ yên tĩnh, một số dân chúng từ Huế, Đà nẵng lần lượt trở về nhà. Cha tôi mang
tôi về quê, nhưng để các anh chị tôi ở lại Huế, vì ông cần trình diện công sở. Đến ngày 27 tháng 4, tình hình thay đổi, với các cuộc tấn công
từ rừng núi phía Tây vào căn cứ Ái Tử của sư đoàn 3. Ngày 28 tháng 4, Đông Hà thất thủ. Bộ tư lệnh sư đoàn 3 rút qua sông Thạch Hãn về
thị xã Quảng Trị. Trưa ngày 29 tháng 4 xe tăng và bộ binh Bắc quân vượt sông. Lữ đoàn 147 Thủy quân lục chiến, thuộc sư đoàn 3, rút khỏi
thị xã Quảng Trị. Tướng Vũ Văn Giai tư lệnh sư đoàn rời khỏi cổ thành phút cuối nhưng không thể đi xuyên qua lực lượng bao vây dày đặc;
lực lượng yểm trợ của Mỹ phải gởi trực thăng tới chở ông ta và đoàn tùy tùng rời khỏi cổ thành Đinh Công Tráng. Lữ đoàn 147 rút theo
đường số Một đến bờ Nam sông Mỹ Chánh, bị pháo kích nặng nề trên đường đi.
Ngày 1 tháng 5, quân miền Bắc chiếm thị xã Quảng Trị. Dân chúng tiếp tục ra đi trong hoảng loạn. Họ chia làm hai ngả, trên đường quốc lộ
mới hoặc rẽ xuống đường quốc lộ cũ, phía biển, từ Cầu Ga đến chợ Diên Sanh. Quảng Trị nhiều cát, nhiều sông, nhiều rừng, vì vậy chỉ cần
đến bìa rừng là đã đặt đường quốc lộ chính vào tầm mắt, lọt vào tầm đạn. Khi các đơn bị địa phương quân bảo vệ các trục lộ giao thông rút
đi, quân miền Bắc dễ dàng đưa súng lớn vào trong một đêm. Một vài khẩu đại bác từ trên các đồi cao, gần các thôn Trường phước, Trường
thọ, Diên Sanh, từ sau nhà thờ La Vang, từ các điểm cao của vùng Như Lệ có hồ nước mơ màng, thừa sức uy hiếp đoạn đường từ thị xã
vào Huế. Hình như họ đã kiên nhẫn chờ và tìm cách dùng bộ binh để đẩy lui đoàn người tị nạn. Đến một lúc không thể ngăn cản được, họ đã
nổ súng, đạn đại bác rót ngay vào giữa mặt đường lộ, trên đầu những người di tản. Ba tháng sau, các lực lượng Nhảy dù và Thủy quân lục
chiến phản công từ phía Nam cũng đã đi qua những đoạn đường này, đếm được nhiều bộ xương khô còn sót lại.
Dọc đường số Một có những bãi cát trắng và rú thấp, khô cằn, nhưng khi đi sâu vào làng mạc phía Đông, phía biển, sau những đồi cát đầu
tiên, cảnh tượng khác hẳn, bạn lại thấy quê hương gió mát trăng trong, nhiều tôm cá. Dưới tác động của gió Lào, cát thay đổi mỗi ngày, từ
sáng đến chiều một ngọn đồi bỗng dưng biến mất, từ chiều hôm trước đến sáng hôm sau một rừng cây lúp xúp bỗng bị che phủ, vì vậy trong
vài ngày những xác chết vô thừa nhận chưa kịp bốc mùi đã vùi sâu trong cát. Gió Lào thổi rào rào qua trảng cỏ, cát bay đầy mặt, đầy người,
ngứa ngáy, đau buốt. Trên những cánh đồng sau đồi, lúa đã vào mùa sắp chín, trái cây nở rộn ràng trong các khu vườn đằm thắm của Gio
Linh, Triệu Phong, Hải Lăng, Quảng Điền, Phong Điền.
Tiếng đại bác rít trên đầu chúng tôi, tiếng nổ gầm vang, lửa, khói dày đặc, tiếng la hét, í ới, tiếng than khóc, tiếng rên rỉ, hoảng hốt. Đạn bắn
rất gần, tiếng B40, súng cối, tiểu liên AK, M16. Đoàn người chạy ngược lại từ cầu Trường Phước, khi tới cầu Bến Đá, cầu cũng vừa bị giật
sập. Chúng tôi cùng với một số người bơi qua sông. Tôi và cha tôi chạy qua những rú cát, những ngọn đồi, cỏ lau mọc phất phơ cao ngất,
những bụi dứa trái chín vàng ươm, những đồi sim tím, muồng muồng đen, tre cào xước mặt, mây quấn lùng nhùng, chạy qua những căn nhà
dân chúng hấp tấp ra đi bỏ lại. Khi ngó xuống, đôi dép sứt quai, hai bắp chân tôi đầy máu vì gai nhọn. Chạy qua một căn nhà trống, gió thổi
tơi bời phên liếp, trước cái cột nhà đen bóng, cha tôi dừng lại. Tôi nhìn qua vai ông, trên cột treo tấm lịch hiệu Quán thế âm bồ tát của Khuôn
hội Phật giáo, có những tờ xé ra từng ngày. Tờ lịch đứng lại ngày 30 tháng 4. Đó là ngày hôm qua. Một ngày đang còn in dấu tay của người
chủ nhà. Chúng tôi dừng nghỉ một lát, nghe tiếng súng nổ xa xa. Tôi đứng đó, nhìn vào con mắt thăm thẳm của thời gian. Thời gian nhìn trả
lại. Sau cửa sổ, qua vai cha tôi, đọt lá ổi non chấp chới nắng lay động ngoài vườn.
Có một nỗi sợ hãi khủng khiếp khi bạn chạy lạc, lọt vào tầm đại bác, úp mặt trên cỏ, thân xác phơi ra, không có gì bảo vệ, tiếng depart, tiếng
đạn réo trên đầu. Bạn biết bạn sẽ chết. Nhưng chết là khái niệm trừu tượng, siêu hình, sự kết thúc đời sống, cái quan tài, hàng nến lung linh,
nước mắt người thân, hư vô, kiếp sau. Cái chết của chiến tranh không phải thế, không kết thúc, đó là sự bắt đầu. Bạn bắt đầu bước xuống
tầng hầm tối đen địa ngục, bạn khởi sự đoạn đời khủng khiếp, sợ hãi kêu thét một mình, không ai nghe, không ai biết, bạn kêu gào xin kết
thúc, không có tiếng lắc chuông của Địa tạng vương bồ tát, chỉ những bông hoa sim tím bên đường giữa cát trắng dội lại tiếng than khóc của
bạn, dội đi dội lại âm thanh ngày cuối cùng. Bạn lớn lên bao giờ cũng tin rằng cá nhân mình là ngoại lệ, mọi người có thể phạm tội ác nhưng
bạn không thể phạm tội ác, mọi người có thể rơi vào thảm họa nhưng chính bạn không thể rơi vào thảm họa, người khác có thể phản bội
nhưng bạn không phản bội, người khác có thể đạp phải mìn mất một bàn chân nhưng bạn không thể dẫm phải mìn mất một bàn chân trong
một ngày sương còn đọng trên cỏ ướt.
Giữa xác thường dân, thỉnh thoảng chúng tôi gặp xác những người lính, những người bộ đội, bên súng cối, súng B40, súng AR15, súng
phóng lựu dài ngoằng. Không chỉ pháo kích, các trận đánh phục kích bên đường cũng diễn ra ác liệt, súng bắn vòng trên đầu, súng bắn
ngang. Cha tôi cầm tay tôi chạy hốt hoảng giữa đoàn người, một số chạy về phía Nam tìm vợ chồng con cái thất lạc, một số chạy về phía
Bắc khi gặp pháo kích. Tôi lạc mất cha tôi, giữa những cái xác. Đêm tôi thức dậy một mình, nằm trong một cái hố cát nhỏ trong vườn cách
xa quốc lộ vài chục mét. Có một tấm vải bạt đắp ngang người tôi, như thể tôi đã kéo xuống từ một cái chòi nào đó, hay là một người nào bí
mật đã đi ngang qua và đắp cho tôi. Đêm mùa hè, sao trời sáng rực, nhiều như hoa đăng, sáng đến nỗi bạn có thể nhìn thấy rõ đường chỉ
tay. Gió Lào bắt đầu ngừng, xen lẫn với gió nồm từ biển vào đem theo hơi mát, mùi muối mặn, mùi máu mặn. Xa xa con đường số Một nằm
trơ trụi, về phía đường xe lửa là rừng rú, về phía Đông là đồng bằng, càng đi xuống làng mạc càng đông đúc. Tôi ngồi dậy, mỏi rã rời, lắng
nghe tiếng ve sầu bàng bạc lưng chừng cây như khóc than, báo cho tôi biết rằng đây không phải là nơi trú ẩn an toàn. Bạn phải chạy đi, quê
hương không còn là nơi trú ẩn an toàn. Tôi nhắm mắt lại.
Ba.
Papa.
Tôi gọi khẽ.
Không tiếng trả lời.
Hồi nhỏ, tôi gọi cha tôi là Papa, vì ông là thầy giáo Pháp văn, dạy tôi tiếng Pháp thời vỡ lòng. Bạn mười mấy tuổi, những năm đẹp nhất đời,
vầng trăng tròn vừa ngự trời cao lồng lộng. Bạn từng sống ngày hạnh phúc, quê hương của bạn kịp thấy trời rạng đông, phảng phất thứ tai
ương mới đầu bạn tưởng mình không hề nhúng tay vào, thật ra bạn có nhúng tay vào. Khi không người nào chịu trách nhiệm thì tất cả mọi
người đều chịu, sự hủy hoại của chiến tranh trong khi cày xé mặt đất cũng bẻ vụn tâm hồn, biến chúng ta thành người khác, tàn nhẫn hơn,
khôn ngoan hơn, điên cuồng hơn. Giữa chiến tranh, không có một niềm hy vọng nào cả, tôi nằm đó, nhìn sao, qua những cành lá, cỏ may, cỏ
hổ ngươi, một nỗi buồn rầu xen lẫn giận dữ từ từ dâng lên như khi bạn đi vào giấc mộng, cánh cửa sập lại đằng sau và bạn sống với những
quy luật khác. Trong căn phòng của quy luật khác ấy tôi đi lại một mình, dùng một ngôn ngữ không ai hiểu. Tôi còn trẻ quá, nhưng chỉ vài năm
nữa thôi nếu chiến tranh tiếp diễn, tôi sẽ phải cầm súng. Đây là đất nước tôi, đây là ngày mai, nhưng tôi chẳng có tiếng nói, không ai có
quyền quyết định trước số phận, một nửa dân tộc biết rõ như thế, một nửa chưa biết điều ấy, nhưng không một người nào có quyền quyết
định số phận mình. Tại sao nằm giữa chiến tranh, kề cận cái chết, tôi lại nghĩ những điều mông lung, tôi muốn nghĩ một điều gì để quên đi
hiện tại, tôi muốn ghi nhớ vì ngày mai xóa sạch ngày hôm nay. Máu sẽ ngừng chảy, nước mắt sẽ khô, người sống sẽ chết, đứa trẻ đi lạc sẽ
trở về nhà, thời gian trở thành kẻ dối trá. Để có thể sống bình thường, mỗi người đều phản bội chính mình, như một người mẹ vừa khóc đứa
con trên tay, vài ngày sau đã phải áo quần tươm tất ra đường. Chỉ có đất nhận lại lỗi lầm của chúng ta, uống lại máu chúng ta, như chiếc nôi
xưa nhận lại hài nhi.
Nếu đời sống trước mùa hè ấy không đáng yêu đến thế, nếu con người tự do không hạnh phúc đến thế, nếu ngày vui chim đã không hót vang
trong bụi trúc, thì đêm ấy tôi đã không muốn khóc. Vì nỗi thương tiếc chẳng làm nên tích sự gì, bọn bạo chúa chẳng bao giờ tin vào quyền
lực của tiếc thương. Nhưng tôi đã bơi qua dòng sông cùng với cha tôi, rồi thất lạc, rồi bơi một mình qua dòng sông khác, đã nhìn thấy những
xác chết đen nhẻm trên đường, đã cầm mảnh đạn pháo nóng hổi màu xám trên tay, mùi kim khí khét rẹt, mùi thịt người cháy xém trong
không gian, tôi đã thấy một cánh tay vắt vẻo trên cành tre cao ngất, chim chào mào hay về đậu, đã thấy hàng ngàn người chạy trên đoạn
đường chín cây số, đã nhìn thấy một cây cầu đổ ụp phía chân trời.
Bạn có bao giờ nhìn thấy một cây cầu đổ?
Khi chúng tôi vừa vượt qua cầu Bến Đá về phía Bắc được vài trăm mét thì có tiếng nổ lớn, mọi người dừng lại, ngoái đầu, một cột nước cao
ngất, tồi đám khói bốc lên, bụi mù, cây cầu bằng sắt đen từ từ nẩy lên rồi chúi đầu xuống ở giữa dòng. Chậm đến nỗi bạn biết điều ấy không
có thật. Sau nhiều giấc ngủ chậm chờn, những giấc mơ ngắn, mồ hôi ra đầm đìa, tôi ngồi dậy, từ trong cái hố cát nhỏ trong vườn bên đường
số Một nghe ngóng, nhìn lên mặt đường. Tôi ngạc nhiên về im lặng, về tỉnh thức xen lẫn sợ hãi, đôi khi sợ hãi lớn đến mức che mờ ý thức,
người tôi run lên từng chập, tôi chỉ muốn chết để kết thúc sự đau khổ ấy, nhưng nhiều khi ý thức trở lại xua sạch nỗi sợ hãi. Vào lúc ấy, bầu
trời sáng bừng, khổ đau trở nên hiểu được, nỗi bơ vơ mất cha lạc mẹ trở nên chịu đựng nổi, dù tạm thời. Chân tôi dầm trong cát mát lạnh vì
sương đêm, cơn đói tới dồn dập. Tôi bò quanh tìm trái mít rụng, tìm dễ dàng nhờ mùi thơm. Đó là một trái mít ướt vừa rơi, múi còn nguyên,
tôi úp mặt xuống, ăn ngấu nghiến, nuốt hết nước mũi nước mật hòa nhau.
Khi đã no, tôi bắt đầu nghe tiếng dế kêu trong cỏ, con dế nào vừa ra khỏi hang đi tìm bạn. Hai tay tôi cầm chặt cái vỏ mít đầy gai nhọn. Có
một lúc tôi nhận ra nỗi đau khổ của tôi lớn đến nỗi không một lý thuyết nào có thể giải thích được, có thể tự chứng minh sự đúng đắn của nó.
Chiến tranh không chỉ là vết thương súng đạn, mà còn là con đường dẫn tới mọi ảo tưởng, ảo giác, dẫn một dân tộc vào mê lộ ở đó đúng và
sai lẫn lộn, thắng và bại lẫn lộn, trước và sau lẫn lộn, một dân tộc, không trừ một người nào, như những người bị kiếm sắc đâm vào mắt, mù
lòa, dẫn nhau đi sờ sẫm trong hang động, như trong tiểu thuyết của Kim Dung. Chúng ta sẽ không còn yêu ai nữa nếu chiến tranh tiếp tục. Vì
tình yêu cần một cấu trúc vật thể như linh hồn cần thân xác, như tín ngưỡng cần nơi thờ phượng. Trong một thời kỳ đầy rẫy những lý tưởng,
mỹ ngữ, xảo ngữ, cuộc chiến tranh đã bắt đầu từ lâu trước khi tôi ra đời, sự đau khổ này tuy diễn ra đột ngột, với nhiều người là kết cục tất
nhiên của nhiều năm tháng lầm lỗi của dân tộc, không trừ một ai, ở đó sự hỗn loạn lấn át trật tự, sự độc ác chiến thắng tình người. Nỗi hối
hận gõ cửa, đến tìm thăm nơi cội nguồn của bạn, nhưng bạn lúc ấy đi xa, không bao giờ biết. Những nạn nhân của bạo lực bao giờ cũng chết
trước khi bạn trở về, không bao giờ kịp kể lại câu chuyện của họ, trước đây vẫn thế, sau này sẽ thế. Bất cứ một gia đình nào cũng vừa có
người thuộc phía miền Nam vừa có người thuộc phía miền Bắc, bất cứ một gia đình nào cũng có người thân dù gần hay xa bị Pháp tra tấn
hay bị Việt Minh chôn sống. Tội ác và dối trá của người Việt đối với nhau không bao giờ chịu kém hơn tội ác và dối trá của người ngoại quốc,
trong chiến tranh, sau chiến tranh.
Khi tôi cầm tay cha tôi chạy trên đoạn đường khỏi cầu Bến Đá, tôi không ngờ rằng tôi sẽ mất người. Những buổi chiều ngồi trên võng tôi la
đà đọc, nhẩn nha, theo dõi tâm sự của Kiều Phong, sự lầm lỡ của Nhạc Linh San, cuộc phiêu lưu của Tiêu Lĩnh Vu. Đang học ban B chuyên
toán, tôi bỏ bê, bài tập về nhà không chịu làm. Vì có thói quen học trước lớp vài chương nên bài vở của tôi chưa thay đổi, giáo sư không
biết, nhưng tôi biết. Tôi biết nguồn kiến thức của mình cạn dần vì nhiều tháng đem xài hết. Năng lượng của một đứa trẻ mới lớn đã dành theo
kịp những đoạn đường mạo hiểm ra Băng hải đảo của Trương Vô Kỵ, những thế võ của Mộ Dung Phục. Ngược lại tôi nhận được một thứ
năng lượng kỳ lạ không tên của trí tưởng tượng, của những ước mơ run rẩy, tuy chẳng có ích gì cho môn toán của tôi trước mắt, nhưng về
lâu dài cũng có thể đã gieo vào lòng thói quen suy nghĩ mông lung chẳng đâu vào đâu, đối với nhiều người là vô tích sự, đối với một số ít
khác là có thể dùng được.
Chẳng bao lâu bạn sẽ mất tất cả.
Nhưng bây giờ bạn có hết. Ngõ hẻm, chị chủ nhà đứng chờ sau tủ sách, nở nụ cười buồn rầu, cây bút chì trên tay chậm chạp ghi tên bạn lên
cuốn tập học trò. Người đàn bà ấy ghi thật chậm vừa chép vừa đánh vần, đôi khi đọc thành tiếng. Như vậy tôi có cả buổi chiều, cơn mưa đám
mây, bến đò ngồi đợi, chuyến đò cuối cùng ngày thứ Bảy, chiếc võng trước hiên nhà, dưới dàn thiên lý hoa thơm mà mẹ tôi hay nấu canh khá
ngon, và nếu may mắn, trong tủ bếp có một thứ gì đó để nhâm nhi mà các chị tôi thường để lại cho em trai út, kẹo bánh, đậu phụng, bắp
nướng. Tôi nằm trên võng, trong im lặng của vùng quê yên tĩnh, như có chiến tranh mà như không có chiến tranh. Một ngày tròn trịa như chú
gà non mới nở từ quả trứng, vừa nhảy ra kêu chim chíp trên sân. Rồi nó bỗng vươn cánh, xòe rộng, bay đi mất.
Tôi sống giữa những nhân vật phiêu lưu, và những nhân vật ấy, người tay đao tay kiếm, người súng lục rút nhanh như chớp. Một thiếu niên
khí phách dám xông vào sơn trang mà chủ nhân là kẻ tà đạo, tất nhiên. Trong cuộc diện kiến quanh bàn tiệc trên tầng tháp cao, khi mọi
người trổ tài khuất phục người khác, chàng chẳng làm được gì cả. Chàng ngồi đó, khiêm tốn và nhẫn nại, như lịch sử. Cho đến khi chẳng
đặng đừng, liền cầm tách trà bằng sứ lên thuận tay liệng ra cửa sổ. Thiếu nữ đem lòng yêu chàng, có mặt ở đó, lấy làm ngao ngán về môn
công phu quá ư tầm thường. Tôi cũng ngạc nhiên, thất vọng. Câu trả lời tất nhiên thuộc về tác giả, ở chương sau, trong một cuốn sách khác
hình như Sài Gòn chưa kịp in, hay chị chủ nhà cho thuê chưa kịp mua về. Tôi không biết, chỉ biết tôi đợi dài cổ xem chương tiếp, không ngớt
thắc mắc về số phận nhân vật.
Số phận của tách trà bị ném qua cửa sổ ở tầng tháp thứ mười ba.
Nhưng chương kế tiếp không bao giờ đến, trang sách bị xé rách, tan hoang. Tôi sống lẫn lộn giữa ký ức và tương lai, giữa bùn lầy nước
đọng của nghèo khổ và ánh điện, đèn chớp tắt xanh đỏ, giữa ảo tưởng của hiện tại và nỗi mơ hồ của tương lai, giữa cái đẹp và tội ác. Văn
học làm giàu trí tưởng tượng chừng nào càng làm chúng tôi xa rời sự thật chừng ấy, một thế hệ lớn lên mơ mơ hồ hồ, chẳng biết trong chiến
tranh đâu là đúng, đâu là sai. Cả một dân tộc, hay ít nhất một nửa, như mê đi, như khờ dại, một tâm trí văn hóa mù mờ lẫn lộn. Nhưng đó là
việc bây giờ nhìn lại, thời ấy chỉ thấy thanh bình, thấy đẹp. Những nhân vật kia, kẻ trọng nghĩa khinh tài, người đại gian ác, kẻ tu luyện nhiều
năm, người con nhà lành rơi vào đáy vực, những anh hùng thiếu niên, những kỳ nữ diễm lệ, ai cũng biết khóc cười như chúng ta. Có muôn
ngàn lý do để giải thích cuộc chiến tranh, biện hộ cho sự bắn giết, hủy hoại. Nhưng từ mấy chục năm nay, có bao giờ dân tộc chúng ta đi
chệch khỏi con đường dẫn nó xuống vực thẳm đâu?
Tờ mờ sáng hôm sau, đã yên tĩnh, tôi đi ngược về phía Bắc, giữa mùi thuốc súng, mùi bánh xe hơi và nhựa đường cháy khét, chạy lúp xúp
bên đường. Sắp tới ngã ba Long Hưng gần con đường rẽ ngược lên phía nhà thờ La Vang, tôi nhìn thấy một xác chết nằm ngay trên vệ cỏ,
khuất sau một chiếc xe đò bị bắn cháy. Vì chiếc xe chắn ngang mặt đường, tôi phải đi vòng ra sau một đám cỏ khá cao. Đó là một người phụ
nữ trông hãy còn trẻ, một tay vòng trên bụng, một tay xoải ra, bàn tay khuất trong cỏ như một người đang nằm ngủ. Hai ống quần rách tươm
để lộ bắp đùi. Tôi tới gần, nhận ra trong cỏ cao một bàn tay cháy xém, các ngón tay chỉ còn xương và gân xoè ra như một cánh bướm. Vì
sao người dân rùng rùng bỏ chạy, không ở lại với ruộng đồng phố thị của mình, người Gio linh bỏ khu phi quân sự chạy vào Đông hà, người
Đông hà chạy vào Quảng trị, người Quảng trị vào Huế? Một đặc điểm của du kích là chỉ tấn công các lực lượng quân sự, hầu hết không chủ
trương tàn sát dân lành hàng loạt, dễ hiểu là vì họ cần thu phục cảm tình của dân chúng; tuy nhiên, khi nào đám người ấy bị mắc kẹt giữa
các mục tiêu quân sự, thì họ cũng sẵn sàng hy sinh dân lành, có khi bất chấp mọi giá để giành chiến thắng. Trong hoàn cảnh thuận lợi, người
ta có tâm lý thận trọng, nhưng khi bối rối, lối hành xử bạt mạng như pháo kích bừa bãi dễ xảy ra. Có lẽ chiếc xe đò của chị đã trúng phải mìn
hay B40 và nhiều người chết vì sức ép, tôi chỉ đoán thế. Trên người không một vết thương nào khác. Khi sắp quay đi, tôi bỗng giật mình,
quay lại nhìn khuôn mặt một lần nữa. Tôi đau nhói như bị bắn vào ngực. Dáng người và khuôn mặt ấy, tôi không thể lầm được, đó là chị chủ
nhà tiệm cho thuê truyện mà tôi vẫn gặp hàng tuần.
Đêm trước, tôi thức dậy mấy lần vì tiếng mít rụng. Mọi việc trở nên mơ hồ lẫn lộn khiến tai tôi ù đi, mắt mờ. Nằm không xa tôi mấy, một
người đàn bà từ một thành phố sắp bị xóa sạch trên mặt đất. Khuôn mặt trong cát bỏng xao xác tỏa ra một thứ ánh sáng kỳ lạ như khi nguời
ta chiếu đèn từ xa bằng loại đèn pha cực mạnh trong tối.
Nghĩ đến chị, tôi lấy lại can đảm, lấy lại sức mạnh, vừa đi vừa chạy qua đoạn đường dài, băng qua thị xã, chạy qua trường Bồ đề, xuống bến
đò, bơi qua sông Thạch hãn, một dòng sông mà sau này tôi sẽ bơi ngược trở lại.
Gió mùa Quảng trị thổi nhiều giọng. Rú từng đợt khi qua đèo Lao Bảo, nỉ non trên Tân Sở, rì rào cuốn bụi đỏ từ Dốc Miếu, dịu dàng khi qua
nguồn nước Tích tường. Nếu bạn ngồi thật lâu cuối khu vườn có mít và ổi, như tôi ngày ấy, bạn có thể nghe được lời nhắn gởi của gió, giọng
của tiếc thương. Trong lớp học tiếc thương này, số học sinh hiện diện bao giờ cũng đông hơn học sinh trong giờ toán của tôi, giờ văn của anh
tôi, và bài giảng của nó sẽ được nhớ lâu dài. Vì vậy, hai mươi năm sau, khi đi tìm một tài liệu tiếng Việt cho công việc điều tra dân số của
chính phủ liên bang, có liên quan đến môn học toán thống kê của tôi, trong thư viện lớn nhất ở trung tâm Calgary, mùa hè năm 1992, tôi đã
tình cờ nhìn thấy cuốn sách kiếm hiệp của mình, cuốn kế tiếp, chương kế tiếp, hồi kế tiếp. Bạn nhớ không?
Tách trà uống cạn, rời tay chàng thiếu niên bay qua cửa sổ, sau một hồi nín thở chờ đợi, giữa ánh mắt châm biếm ngờ vực, cái tách ấy đã
bay vòng trở lại qua một cửa sổ khác, vào phòng. Và tất nhiên từ từ đáp xuống. Vậy là chiếc tách sứ ấy đã bay một khoảng thời gian lâu đến
nóng ruột bên ngoài tầng tháp cổ. Không phải một thời gian, nó bay một mạch hai mươi năm, từ vùng gió mặn đến xứ tuyết trắng.
Tôi đã bơi qua sông Thư Rơi, qua sông Thạch Hãn. Bơi một mình, lặng lẽ, không phải để dành tiền đò thuê truyện kiếm hiệp coi chơi, mà để
chạy trốn cái chết.
Đêm yên tĩnh lạ lùng. Mùi mít mật dâng lên từng đợt. Tôi ngửng đầu, sao băng chi chít. Có một ngôi sao sáng hơn cả, tôi bắt chước một
nhân vật tiểu thuyết, mở và gài cúc áo lại để cầu xin cho cha mẹ, cho quê hương, xin không ai còn chết vì súng đạn, hận thù. Ngôi sao băng
ấy có lẽ nghe được lời cầu nguyện của tôi nên vạch một đường thật dài, thật chậm, như linh hồn một người đàn bà đã bay lên rất cao còn
nhìn ngoái lại.
Nguyễn Đức Tùng