Chúng ta thường nghe ba chữ ‘the critical mass’ khi nói về một lực lượng quần chúng đông đảo cần phải có trước khi xã hội có những biến chuyển lớn lao thay đổi cả bộ mặt của đất nước hay thể chế. Như những gì đang xảy ra ở Miến Điện chẳng hạn.
Không phải tự nhiên vào một ngày đẹp trời nhà cầm quyền quân phiệt bỗng phát hiện là đất nước Miến Điện sẽ khá hơn nếu như họ chịu san sẻ quyền lực với Đảng Liên Minh Quốc Gia Dân Chủ (NLD) của bà Aung San Suu Kyi. Cũng không phải một sớm một chiều mà đảng NLD lại nhận được sự ủng hộ nồng nhiệt từ dân chúng. Từ anh tài xế lái taxi, chị tiếp viên trong khách sạn, cho đến các sinh viên, học sinh, giới trí thức mà tôi đã có dịp trò chuyện cùng vào năm ngoái ở Yangoon.
The critical mass – đám đông cần phải có này thật ra đã được, từng ngày một, thành hình trong suốt hơn 3 thập niên qua. Kể từ khi dân chúng xuống đường đòi hỏi chính phủ phải thực thi những quyền lợi dân chủ. Đưa đến sự trở về và dấn thân của bà Aung San Suu Kyi từ Anh Quốc vào đầu thập niên 90.
Và từ đó đến nay, không lúc nào đám đông này chịu ngưng nghỉ. Hay rã đám.
Họ đã xuống đường khi đảng NLD không được thành lập quốc hội, khi họ bị giải tán và ngay cả lúc bà Aung San Suu Kyi, người thường được họ trìu mến gọi là ‘The Lady’, bị giam chặt hay giam lỏng tại nhà riêng trong suốt hơn hai thập niên qua.
Nhiều người đã tử mạng ngay lúc họ đang xuống đường. Nhiều nhà sư đã bị giết, bị hành xác. Và theo thống kê của các tổ chức nhân quyền cho biết, đã có hàng ngàn ủng hộ viên, thành viên của đảng NLD bị tra tấn, thủ tiêu mà cho đến bây giờ vẫn chưa tìm được thấy xác.
Thế mới thấy để thay đổi một xã hội, vận chuyển nó từ sự độc tài sang một thể chế dân chủ đòi hỏi rất nhiều yếu tố: thời gian, sự lãnh đạo chuẩn mực của những tiếng nói đối lập và nhất là sự hy sinh của nhiều người, nhiều thành phần trong xã hội để hợp lại thành ‘the critical mass’.
Nói theo kiểu người xưa là phải có ‘nhân hòa’.
Nhìn về xã hội Việt Nam hiện nay tôi nhận thấy chúng ta chưa có những điều kiện này. Thứ nhất, khác với ý kiến của một số người, tôi cho là thành phần lãnh đạo ở Việt Nam đã và đang tiếp tục đi sau thành phần lãnh đạo ở Miến Điện. Ít nhất ra là trên phương diện chính trị. Chúng ta cần phải nhớ là vào đầu thập niên 1990, ở Miến Điện đã có và cho phép sự hoạt động của các đảng đối lập.
Hơn hai mươi năm sau, đây vẫn là điều cấm kỵ ở Việt Nam.
Thứ hai, hiện nay ở Việt Nam chúng ta vẫn chưa có một hình tượng, một cá nhân nào có thể so sánh với vị trí của bà Aung San Suu Kyi đối với người dân Miến Điện. Bà là người con duy nhất của nhà anh hùng dân tộc ông Aung San, người đã có công lật đổ chế độ thực dân mang đến sự độc lập của đất nước này sau nhiều thập niên bị đô hộ. Chúng ta không nên đánh giá thấp sự kiện này. Vì lịch sử cho thấy, dân chúng ở bất cứ nơi nào cũng đều luôn dành riêng một tình cảm quyến luyến sâu đậm cho những người con của các anh dùng dân tộc.
Hoặc những nhà lãnh đạo ái quốc bị ám sát lúc còn trẻ. Hai người con John và Caroline Kennedy của cố tổng thống Kennedy ở Mỹ. Đương kim tổng thống Aquino của Phi Luật Tân. Và bà Aung San Suu Kyi là những thí dụ điển hình.
Nói như thế không có nghĩa là tôi không công nhận tài năng và ngưỡng mộ tư cách của ‘The Lady’. Từ cách ăn nói chậm rãi, rõ ràng, sự trả lời thẳng thắn nhưng chừng mực cho đến thái độ trước sau như một đầy từ tâm nhưng rất cứng rắn của bà, tất cả đều thể hiện những gì tốt đẹp nhất, cao thượng nhất và cần phải có ở một chính trị gia. Không phải một chính trị gia hiểu theo nghĩa ‘a politician’. Mà là một nhà lãnh đạo quốc gia phải hiểu theo nghĩa của ‘a statesman’ mà trên thế giới chỉ có được một vài người. Ông Nelson Mandela của Nam Phi là một. Bà là người thứ hai.
Nhưng điều kiện thứ ba cũng là điều kiện quan trọng và cần thiết nhất mà đất nước của chúng ta chưa có là ‘the critical mass’. Nếu có dịp sang Miến Điện, các bạn sẽ thấy đất nước này vẫn còn rất nghèo nàn, sự thiếu thốn có thể thấy ngay ở cố đô Yangoon. Ở sự yên tĩnh không có đến những ngọn đèn đường ngay trên đại lộ chính. Cách ăn mặc vẫn còn rất đơn giản mang đậm bản chất địa phương. Và những chiếc xe đạp thô sơ, những chiếc xe taxi cũ như không thể nào cũ hơn được nữa.
Nếu so với dân Sài Gòn hay ở Hà Nội bây giờ thì họ không thể nào sánh bằng. Không điện thoại cầm tay iphone. Không xe Honda dream, những chiếc xe hơi hào nhoáng. Hoàn toàn vắng bóng hàng hiệu.
Nhưng ngược lại, với tinh thần yêu chuộng tự do, dân chủ, sẵn sàng đổi bằng sự nghèo khó, ngược đãi, tù tội hay xương máu của chính mình, tôi nghĩ dân tộc Miến Điện trong thời điểm này hơn hẳn dân tộc Việt Nam. Bởi lẽ sự toàn trị đã bao trùm cả đất nước từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mau gần 40 năm qua. Nhưng chưa có một cuộc xuống đường nào của người dân đòi hỏi Đảng Cộng Sản Việt Nam phải thực thi những quyền lợi dân chủ. Những gì lẽ ra phải thuộc về họ.
Tôi vẫn còn nhớ như in câu nói của Luật Sư Lê Thị Công Nhân khi chị vừa ra khỏi tù. Khi được hỏi chị nghĩ gì về việc chị bị tù đày, bị mất mát quá nhiều nhưng vẫn chưa đạt được điều chị luôn miệt mài tranh đấu, chị đã trả lời rằng có thể chị chưa thành công. Nhưng chị chỉ có thể làm hết sức của mình chứ không thể nào làm thế cho cả 90 triệu người dân Việt Nam còn lại.
Nói tóm lại ở Việt Nam chưa có ‘the critical mass’.
Thế còn đối với cộng đồng hơn 3 triệu người Việt ở hải ngoại thì sao? Đám đông thầm lặng này là ai? Họ đã làm được gì và sẽ làm được gì cho đất nước, cho dân tộc?
Thật ra nếu nói người Việt Nam chưa bao giờ dám xuống đường biểu tình để đòi chính phủ thực thi những quyền hạn tự do, dân chủ thì cũng không hẳn chính xác cho lắm. Vì trên thực tế, vào ngày này năm ngoái, đã có hàng ngàn người Việt từ già đến trẻ xuống đường biểu tình ở Sài Gòn và Hà Nội. Và tuy mục tiêu chính của những buổi xuống đường này là để chống đối sự tham lam quá độ của Trung Quốc trong vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa, nhưng chúng ta ai cũng có thể đồng ý rằng những buổi xuống đường ấy là một cách gián tiếp mà người dân muốn phản đối các chính sách của nhà cầm quyền Hà Nội.
Dĩ nhiên nếu so với những cuộc biểu tình rầm rộ ở Yangon thì chúng ta không thể nào sánh bằng. Kể cả ở số lượng lẫn chất lượng. Tuy nhiên có còn hơn không. Và nếu như ở Việt nam hiện nay có nhiều phụ nữ như chị Bùi Thị Minh Hằng, Lê Thị Công Nhân, Phạm Thanh Nghiên, v.v…thì chắc còn lâu Đảng Cộng Sản Việt Nam mới còn dịp nắm toàn quyền sinh sát.
Nhưng mà thôi. Đấy là chuyện ở trong nước. Hôm nay tôi đã bảo là tôi sẽ nói về cộng đồng người Việt ở hải ngoại mà lị.
Nhìn chung tôi thấy thế này. Đó là ở bất cứ nơi nào có nhiều người Việt cư ngụ cũng có nhiều hội đoàn, đoàn thể được thành lập. Từ các cộng đồng được bầu ra ở địa phương, các cấp tiểu bang hay liên bang như ở Úc, Canada. Cho đến các hội cựu quân nhân, hội giúp người nghèo, nhà thờ, chùa, những tổ chức phi chính phủ, bất vụ lợi như VOICE được thành lập để tranh đấu quyền lợi cho những người tỵ nạn. Tất cả đều tạo nên một bức tranh xã hội rất sống động đặc trưng cho một xã hội dân sự lành mạnh nơi mà tất cả mọi người – đám đông thầm lặng – được trực tiếp tham gia vào những hoạt động xã hội hay chính trị mà mình yêu thích.
Chị thích tham gia vào các hoạt động từ thiện xóa đói giảm nghèo? Đó là một điều rất tốt. Anh chỉ mơ được góp công, góp của để tranh đấu cho tự do, dân chủ ở Việt Nam? Quả là một việc rất đáng làm. Riêng chúng tôi không thích tham gia vào bất cứ hoạt động nào. Chỉ biết sáng đi làm, tối về nghỉ, cuối tuần ở nhà lo cho vợ, lo cho con? That’s OK too!
Nói tóm lại sự xuất hiện của nhiều hội đoàn, đoàn thể, cá nhân phản ảnh trực tiếp sự suy nghĩ và giá trị của ‘the critical mass’. Đôi lúc nó sẽ ất ồn ào, có nhiều va chạm và nhất là mang đến những tai tiếng không tốt đối với những người luôn thích ‘ăn cơm nhà, vác ngà voi’. Tuy nhiên nếu thiếu nó thì chắc chắn một điều đấy không phải là một xã hội dân sự thật sự nơi mà mọi người đều có thể lên tiếng. Kể cả những tiếng nói phản cảm, đầy ác ý.
Đã sống trong một xã hội dân chủ là phải biết chấp nhận sự chỉ trích. Phải biết là sẽ không bao giờ bạn nhận được sự ủng hộ 100% hay 80% hay thậm chí là 60% từ đa số thầm lặng này. Ngay cả ở những nước dân chủ nhất, văn minh nhất như Úc, Mỹ…chuyện tổng thống hay thủ tướng chỉ thắng được 52% hay 53% phiếu bầu là chuyện thường tình ở huyện. Thắng kiểu hơn 90% hay ‘hoàn toàn nhất trí’ trong các cuộc bầu cử ở Việt Nam mới là có vấn đề.
Vì ai cũng biết chín người, mười ý. Ngoại trừ khi ý ấy không được phép lộ ra.
Đó cũng là lý do tại sao ở hải ngoại trong các cộng đồng người Việt và đối với một số vấn đề trong xã hội nó đều trông có vẻ như hơi bát nháo, có quá nhiều cuộc tranh cãi, ỳ xèo. Y như thời của Việt Nam Cộng Hòa trước năm 1975.
Nhưng đó là lẽ tất nhiên luôn có mặt trong bất kỳ sinh hoạt dân chủ phôi thai nào. Từ Á Châu sang đến Phi Châu. Phải có những buổi tranh luận nảy lửa đến độ đã có những nhà dân biểu phải thượng cẳng hạ chân tay ngay giữa phòng họp quốc hội, ở Nam Hàn, Đài Loan vào những thập niên trước, thì sau này, sau quá trình thanh lọc tự nhiên, họ mới xây dựng được những nền dân chủ thật sự.
Trở lại với cộng đồng người Việt ở hải ngoại, có tranh cãi đến đâu thì chúng ta cũng phải công nhận ít nhất ba điều này.
Thứ nhất, số tiền mà cộng đồng người Việt cùng nhau gom góp gửi về Việt Nam để giúp gia đình, giúp những người nghèo khó hàng năm có thể lên đến ít nhất vài trăm triệu đô. Đây là một con số rất lớn và đã giúp được rất nhiều người.
Thứ hai, nếu như không có mặt của cộng đồng người Việt ở hải ngoại, không có tiếng nói của họ về những vấn đề to lớn của đất nước thì chắc chắn một điều là cộng đồng quốc tế sẽ không thể nào biết rõ để kịp thời can thiệp.
Và thứ ba, rõ đúng là ‘the critical mass’ ở hải ngoại đã và đang thực hiện những quyền lợi căn bản mà họ phải bỏ nước ra đi mới đạt được. Tôi nghĩ chúng ta không nên xem thường vấn đề này. Vì khác với những người Việt trong nước, chúng ta được nói và sống theo đúng lương tâm của mình. Đây là điều mà chúng ta luôn nên trân trọng. Để nhận thức được rằng chúng ta đã may mắn hơn rất nhiều những người con khác của Việt Nam.
Nói như thế không có nghĩa là ở Việt Nam không có những người dám nói, dám làm. Đôi khi tôi thấy họ còn dám làm, dám nghĩ hơn hẳn chúng ta. Mặc dù họ phải mất hơn rất nhiều. Và phải chịu đựng hơn tất cả những gì mà chúng ta có thể tưởng tượng được trong hoàn cảnh hiện tại của đất nước.
Đó là lý do tại sao tôi rất cảm phục họ. Rất trân trọng họ. Và chỉ ước mong sao trong một ngày gần đây tôi thể làm được một chút gì đó cho tương lai dân tộc
© Luật sư Trịnh Hội