logo
Men for what watch? Watch, watch and call. A tool that is used for timing on breitling replica the wrist. Men wear watches what kind, starting from the basic color and size, have their own right watches, you can follow the watch's color, shape, value, occasions to carefully match their own clothing. For the choice of rolex replica a watch, the first to look at and their identity are consistent with a rural old people wear watches, a bit unrealistic, even if there is, it would have been too ostentatious. A Multi Millionaire owner, wearing a few hundred dollars of high imitation table also lost their identity, and even make friends on their own business is not good. In the formal social occasions, watches are often regarded as jewelry, for usually only ring a jewelry can be worn by rolex replica uk men is respected. Some people even stressed that: "the watch is not only a man's jewelry, but also men's most important jewelry." In western countries, watches, pens, lighters was once known as adult men "three treasures", is every man even for a moment can not be away from the body.

Chào mừng các bạn! Mong bạn Đăng nhập. Xin lỗi bạn, tạm dừng việc đăng ký mới.►Nhấn hình ảnh nhỏ sẽ hiện ảnh lớn ‹(•¿•)›

Thông báo

Icon
Error

Tùy chọn
Xem bài viết cuối Go to first unread
song  
#1 Đã gửi : 03/09/2016 lúc 06:46:31(UTC)
song

Danh hiệu: Moderate

Nhóm: Registered
Gia nhập: 21-02-2012(UTC)
Bài viết: 24,167

Cảm ơn: 1 lần
Được cảm ơn: 2 lần trong 2 bài viết
UserPostedImage
Ảnh minh họa “Hội chức Stockholm”. Nguồn: internet


Thơ năm chữ, còn gọi là thơ Ngũ Ngôn, một dạng biến thể của thơ Đường luật, gồm có Ngũ ngôn Tứ cú (5 chữ, 4 câu), Ngũ ngôn Bát cú (5 chữ, 8 câu) và Ngũ ngôn Trường thiên (5 chữ, dài hơn 16 câu). Đại diện cho thể thơ Ngũ ngôn Trường thiên được nhiều người biết đến là nhà thơ Thái Bá Tân với những bài thơ diễn tả thực trạng chế độ, xã hội Việt Nam dưới sự cai trị của đảng CS. Ngoài những bài thơ ngắn, nhà thơ Thái Bá Tân có một bài thơ 5 chữ, dài 392 câu, đăng trên trang mạng Tinh Hoa, có tựa đề: “Thơ 5 chữ” Thái Bá Tân và mong muốn xã hội Việt Nam nhìn lại chính mình. Nội dung bài thơ chê văn hóa Tầu, đề cao văn hóa phương tây, đặc biệt là Mỹ.

Những bài thơ này nhanh chóng lan truyền trong nước cũng như hải ngoại vì dễ đọc, dễ nhớ, lại diễn tả đúng tình trạng suy đồi văn hóa, kinh tế, an ninh, xã hội, cũng như về ngoại giao, quốc phòng ở Việt Nam. Có lẽ vì thế mà nhà thơ Thái Bá Tân nổi tiếng trong giới tranh đấu, trở thành một nhà thơ phản kháng chế độ.

Có một điểm đặc biêt nhiều người không nhận ra, có thể do không để ý, đó là những bài thơ của Thái Bá Tân dù phê phán, chỉ trích chế độ cai trị, chỉ trích đảng CSVN nặng nề, nhưng tác giả không hề bị công an hăm dọa, thẩm vấn hay giam giữ, điều tra…, chỉ có một số dư luận viên hoặc bồi bút của chế độ viết bài đã kích, chửi bới, vu khống.

So sánh mức độ đã kích, phê bình trong các bài thơ của Thái Bá Tân với bài thơ Đất Nước Mình Ngộ Quá Phải Không Anh, của cô giáo Trần Thị Lam, trường Trung học PT Hà Tĩnh, thơ của Thái Bá Tân có lời lẽ mạnh mẽ hơn, tác động rõ ràng đến tư duy người khác nhiều hơn, ảnh hưởng qua đó cũng nghiêm trọng hơn nhưng Thái Bá Tân chưa hề bị công an bắt giữ, điều tra hay bị côn đồ hành hung, hăm dọa, trong lúc Trần Thị Lam bị công an mời lên thẩm vấn, đe dọa, suýt bị mất việc.

Cho đến khi Thái Bá Tân bất ngờ phổ biến trên facebook một bài thơ ca tụng đảng, ca tụng chế độ, lãnh đạo liêm khiết… có tựa Đôi Lời. Bài thơ gần như gián tiếp phủ nhận tất cả những gì Thái Bá Tân đã viết, phổ biến, làm nhiều người chưng hửng, ngơ ngác, không tin đó là thơ Thái Bá Tân.

Có lẽ cảm thấy bài thơ Đôi Lời chưa đủ sức phá vỡ ấn tượng của cộng đồng mạng, Thái Bá Tân bắn thêm một viên đạn … đại bác 130 ly nữa bằng bài thơ Ghi Nhận. Đúng với tựa dề, nội dung bài thơ này “ghi nhận công ơn” của ĐCSVN đã đem đến cho Thái Bá Tân cùng gia đình hạnh phúc đang có.

Nhiều người cho rằng Thái Bá Tân bị áp lực của công an hay ban tuyên giáo nên phải làm 2 bài thơ nói trên. Tuy nhiên sau đó, Thái Bá Tân phủ nhận chuyện bị công an đe dọa hay sách nhiễu bằng một bài viết cải chính: Thông Điệp Hôm Nay.

Chuyện Thái Bá Tân đột ngột đổi hướng 180° thật ra không lạ, nếu mọi người hiểu được đó chỉ là hội chứng Stockholm (Stockholm syndrome). Hội chứng Stockholm là gì?

Khái niệm về Hội chứng Stockholme (Stockholm syndrome) được hiểu như một trạng thái tâm lý, không phải là một căn bệnh về tinh thần hay thể chất rõ rệt với những triệu chứng khác thường. Hội chứng này lần đầu tiên được biết đến vào năm 1973, nơi xẩy ra vụ bắt giữ con tin tại một nhà băng chuyên về tín dụng (Credit Bank) ở thủ đô Stockholm, Thụy Điển.

Sự việc bắt đầu khi Jan Erik Olsson, một tù nhân đang trốn thoát đã xâm nhập vào nhà băng Norrmalmstorg ở Stockholm, Thụy Điển. Cảnh sát được gọi tới và sau một cuôc chạm súng ngắn ngủi, một trong hai cảnh sát chạy đến đầu tiên đã bị thương. Sau đó, Olsson bắt giữ 4 con tin là Birgitta Lundblad, Elisabeth Oldgren, Kristin Enmark và Sven Säfström và đưa ra những yêu cầu như sau:

Chính phủ Thụy Điển phải thả tội phạm đang bị giam trong nhà tù nổi tiếng là Clark Olofsson, đưa đến nhà băng gặp Olsson.
Trả cho Olsson 3.000.000 Krone (300.000 USD)
Đem đến 2 khẩu súng, áo giáp chống đạn, nón an toàn và một xe hơi để di chuyển.

Sau khi Clark Olofsson được đưa đến nhà băng thì Olsson cùng với Olofsson lập một hàng rào phòng thủ với 4 con tin trong tay.

Vụ bắt giữ con tin kéo dài 5 ngày, từ 23 tới 28.08.1973. Trong lúc điều đình câu giờ, cảnh sát khoan được một lỗ trên mái của nhà băng, đưa camera đến theo dõi được mọi diễn tiến bên trong vào ngày 26.08. Sau đó họ quyết định dùng hơi ngạt làm bất tỉnh 2 tên tội phạm, và đưa con tin qua lỗ hổng khoan trên mái.

Việc giải thoát con tin chấm dứt một cách êm thắm, không có thiệt hại nhân mạng. Olsson bị kết án 10 năm tù, nhưng chỉ ở tù 8 năm thì được ân xá. Clark Olofsson lúc đầu bị kết án 6 năm nhưng sau đó tha bổng vì hoàn toàn thụ động trong vụ bắt giữ tù nhân ngoài ý muốn.

Điều cần nói ở đây là thái độ của con tin trong thời gian 5 ngày bị bắt giữ. Qua những giao tiếp với kẻ bắt giữ mình như xin phép đi vệ sinh, tiếp tế thực phẩm, ăn uống… các con tin đã không sợ hãi Olsson và Olofsson bằng sợ cảnh sát tấn công vào nhà băng giải thoát cho họ.

Những giao tiếp gần gũi đã khiến cho các con tin sau đó đã bày tỏ nhiều thiện cảm với kẻ bắt giữ. Họ cám ơn Olsson và Olofsson đã buông tha họ, đến thăm hai người này trong nhà giam, kêu gọi chính quyền khoan dung 2 tội phạm này…

Nhưng sự thật như thế nào? Phải chăng vì thời gian án binh bất động, kéo dài thương thuyết, đã khiến cho những nhượng bộ nhỏ nhoi của kẻ bắt giữ đối với con tin như nới lỏng dây trói, cho đi làm vệ sinh, cho thêm một ít thức ăn, nước uống… trở thành những ân huệ to lớn, đáng quý, khiến cho các con tin cảm thấy gần gũi, thân cận với kẻ bắt giữ hơn là với cảnh sát?

Lý do nào các con tin quên đi sự hành hạ thể xác, kềm kẹp tinh thần, không khí trấn áp trong những ngày bị giam giữ để trở nên thân thiện với kẻ bắt giữ mình?

Các nhà tâm lý học đã gọi đó là hội chứng Stockholm. Thay vì cám ơn cảnh sát đã làm đủ mọi cách để giải cứu họ, các con tin đã cám ơn, bày tỏ cảm tình với kẻ bắt giữ, đầy đọa mình hơn 5 ngày.

Có thể nói không sợ sai lầm rằng, đa số người Việt Nam có nguồn gốc là khách thợ, du sinh ở các nước Đông Âu cũ, ra đi từ miền Bắc XHCN, sau khi bức tường Berlin sụp đổ, được chính phủ Đức, Ba Lan, Tiệp… cho ở lại đều mắc phải hội chứng Stockholm. Nói thế không có nghĩa là tất cả những người miền Bắc đều mắc hội chứng Stockholm hoặc người miền Nam thì được miễn nhiễm.

Sinh ra, lớn lên và được đào tạo trong môi trường xã hội chủ nghĩa, những người này có thể là dân vượt biên Hải Phòng, dân đi lao động bên Đông Đức, Tiệp-Khắc, Liên xô cũ… nay được ở lại làm ăn, sinh sống luôn nơi xứ người, có đời sống yên ổn, khá giả hơn nhiều người dân khốn khổ trong nước.

Nhiều người trong số này, dù hiện nay được sống trong chế độ dân chủ tự do như ở Đức, Ba Lan, Tiệp-Khắc (nay chia thành 2 nước Tiệp – Czech và Khắc – Slovakia)… nhưng suy nghĩ của họ về đảng cộng sản VN, về chế độ xã hội chủ nghĩa không hề thay đổi.

Sống một thời gian dài mấy chục năm trong một chế độ sắt máu, lấy tuyên truyền dối trá và bạo lực làm phương tiện cai trị, tinh thần bị kềm kẹp, lèo lái… đầu óc họ trì trệ trong suy nghĩ, phán đoán, trẻ cũng như già, có học cũng như ít học.

Họ không tìm hiểu, suy nghĩ nguyên nhân nào họ phải xa xứ, phải chạy chọt, luồn lọt, xin xỏ, tốn kém, mắc nợ… để được ra nước ngoài làm việc, rồi khi bức tường Berlin sụp đổ họ đã khốn đốn trong một thời gian dài, nhiều người cả chục năm không có nghề nghiệp, việc làm, nơi cư trú ổn định, sống lây lất, chùm đụp với nhau trong những căn hộ chung cư tối tăm, chật hẹp nằm trong các chúng cư…

Chính phủ Đức (*), Ba Lan, Tiệp-Khắc… với những quyết định sáng suốt, khôn ngoan, những chính sách đúng đắn, kịp thời đã giúp họ có lại cuộc sống bình yên. Trong số những người đó, có nhiều người khá giả, đời sống vật chất hầu hết đã ổn định, không còn thiếu thốn, khốn khổ, nhọc nhằn như ở quê nhà, không còn sự quấy nhiễu, vòi vĩnh quà cáp, tiền bạc, được tự do bày tỏ tư tưởng, chính kiến mà không sợ bị trả thù, trù ẻo, bầm dập.

Qua tiếp xúc, nói chuyện với họ, người ta có thể thấy ngay, thay vì cám ơn chính phủ và người dân Đức, Ba Lan, Tiệp… họ chỉ cám ơn chế độ Hà Nội và đảng cộng sản Việt Nam đã cho họ cuộc đời hôm nay qua chính sách cho ra nước ngoài làm lao động thuê.

Hơn 25 năm sau, hội chứng Stockholm ở những người này chẳng những không hề thuyên giảm mà còn có triệu chứng nặng hơn. Họ vẫn tiếp tục ca tụng đảng cộng sản, ca tụng ông Hồ chí Minh, vẫn ước mong sự tồn tại, lãnh đạo của đảng CSVN kéo dài vĩnh viễn cho dù mỗi khi cần đến giấy tờ hộ tịch, hoặc có việc liên quan đến tòa đại sứ, phải đến lãnh sự quán cộng sản Việt Nam, họ vẫn gặp khó khăn, phiền phức, bị hạch hỏi, làm khó dễ hay phải trả nhiều khoản tiền lệ phí quái đản cho những dịch vụ ma quỷ. Mỗi khi về Việt Nam họ lại bị xét hỏi, phải quà cáp cho công an, bị theo dõi ngấm ngầm…

Cho rằng đó là thói quen, do tuyên truyền đã ăn sâu vào trong tiềm thức, tim óc của họ là không đúng, bởi thế giới ngày hôm nay với thông tin bùng nổ qua internet, smartphone… ai cũng có thể truy cập, tìm hiểu, kiểm chứng thông tin một cách dễ dàng.

Người viết bài này cũng đã gặp nhiều người miền Bắc có bằng kỹ sư, tiến sĩ (thật sự) tốt nghiệp ở nước ngoài. Mỗi khi nói về Việt Nam, họ gân cổ lên, tìm mọi cách bênh vực cuộc chiến tranh xâm chiếm miền Nam do ông Hồ Chí Minh và đảng cộng sản VN khởi xướng, đồng thời lên án Mỹ là đế quốc thực dân mới.

Nói đến tình trạng tụt hậu, sự tham nhũng, hối lộ, rút ruột công trình, bán đất, bán biển, sự tàn ác, hoành hành của công an, sự hèn hạ của lãnh đạo trước thái độ hung hăng, hiếu chiến của Tầu cộng… họ luôn có đầy đủ lý lẽ để bào chữa. Khi đưa ra những dữ kiện, những bài báo, hình ảnh, tin tức quốc tế không thể chối cãi được, thì họ chế nhạo, cho rằng báo chí truyền thông phương tây cũng nói láo như báo chí Việt Nam.

Hiểu được nguyên nhân hội chứng này thì sẽ đánh giá thái độ của Thái Bá Tân là bình thường, nó chỉ khác các nạn nhân ở nhà băng Norrmalmstorg một điều: Thái Bá Tân lúc đầu ra vẻ lên án, chán ngán chế độ CS để thu hút người đọc trong một thời gian dài, sau đó mới thay đổi thái độ.

Để kết luận, cách hành xử của Thái Bá Tân chỉ nằm ở một trong hai trường hợp sau:

Thái Bá Tân thật sư bị hội chứng Stockholm nhưng khôn ngoan hơn người khác. Cố gắng tạo cho mình thương hiệu, một vùng ảnh hưởng với những bài thơ phản kháng, sau đó mới quyết định phản công. Đây là một thủ đoạn cực kỳ thâm độc, có tính toán kỹ lưỡng từng bước.
Thái Bá Tân bị công an hăm dọa hành hung, giết, hay gia đình sẽ bị hãm hại từ lâu nhưng không dám nói ra. Đến thời điểm này vì sức ép quá mạnh nên buộc lòng phủ nhận tất cả những gì mình đã viết, đồng thời tỏ vẻ ăn năn, hối lổi, đoái công chuộc tội bằng hai bài thơ Đôi Lời, Ghi Nhận và cuối cùng chấm dứt nghiệp thơ ngũ ngôn của mình bằng bài viết Thông Điệp Hôm Nay.

Dù nằm ở trường hợp nào thì Thái Bá Tân cũng đã tự mình phủ nhận tư cách, nhân phẩm cũng như chỗ đứng của mình trong lòng dân tộc đã xây dựng trong nhiều năm qua. Bởi khi đã dấn thân, lên tiếng phản đối chế độ thì phải chấp nhận hi sinh, chấp nhận hậu quả xẩy đến cho mình hoặc cho gia đình. Còn nếu vừa đé…o vừa run thì nên im lặng từ đầu.

Hơn thế nữa, nếu chỉ nhận định hời hợt, sẽ không thấy được sự tác hại trong hành động của Thái Bá Tân, và nếu chịu khó suy nghĩ sâu xa, người ta sẽ thấy ảnh hưởng trong vụ Thái Bá Tân sẽ lan rất rộng. Những người tranh đấu cho tự do, dân chủ, cho dân oan, công đoàn độc lập…, nói chung là các phong trào xã hội dân sự sẽ dấy lên những sự nghi ngờ, đố kị lẫn nhau. Nhiều người sẽ đặt câu hỏi: Ai là người thật tâm trong tranh đấu? Những người đang có những phát biểu nẩy lửa, những hành động, lời nói mạnh mẽ đối lập với chế độ CS, bao giờ sẽ trở cờ? Từ đó đưa đến thái độ nghị kị, dè chừng, đề phòng lẫn nhau, làm giảm đi sức mạnh của phong trào, tổ chức.

Đó mới là điều đáng nói và đáng sợ.
Thạch Đạt Lang

Theo anhbasam.wordpress.com
Cơ quan ngôn luận của THÔNG TẤN XÃ VỈA HÈ

——–

(*) Năm 1990, sau khi nước Đức thống nhất, chính phủ Đức đã ký với CSVN một hiệp ước, giao trả lại cho chế dộ CS Hà Nội 60.000 khách thợ ở Đông Đức cũ, đồng thời viện trợ 200.000.000 Đức Mã (Deutsche Mark), tương đương hơn 100.000.000 EUR để tái định cư những người này. Một nửa số tiền đó (100.000.000 DM) được chuyển cho chế độ CSVN trước khi các chuyến bay đầu tiên trao trả 400 người cất cánh. Ngoài ra, những người được trao trả, mỗi người được cấp 4.000 DM để ổn định cuộc sống mới ở VN.

Tuy nhiên khi 400 người này về đến VN, CS Hà Nội không nhận với lý do tên không đúng với danh sách hai bên đã thiết lập. Chính quyền Đức biết ngay trò lật lọng, tráo trở của CSVN sau khi nhận tiền, nên lập tức hủy bỏ hiệp ước, lập kế hoạch tái định cư 60.000 người này ở Đức. Hầu hết 60.000 người nay đã có cuộc sống ổn định, nhiều người trong họ đã nhập quốc tịch, bảo lãnh được gia đình vợ con qua đoàn tụ.

_____

Mời xem lại: Thái Bá Tân: Thông Điệp Hôm Nay (BS). – ĐÔI LỜI CÙNG BÁC THÁI BÁ TÂN (Võ Văn Tạo/ BS). – Về “Đôi Lời” của ông Thái Bá Tân (Nguyên Đại/ BS). – Hiện tượng Thái Bá Tân (RFA/ BS). – Người Việt và xu hướng khen ngợi nồng nhiệt hay thất vọng thái quá (Blog RFA/ BS).
chung  
#2 Đã gửi : 04/09/2016 lúc 11:05:26(UTC)
chung

Danh hiệu: Moderate

Nhóm: Registered
Gia nhập: 16-07-2013(UTC)
Bài viết: 1,773

Thái Bá Tân, không thể sống trong im lặng...
Có thể nói, kể từ ngày lập quốc, chưa có chế độ xã hội nào thối nát, con người vô cảm như hiện nay. Sự vô cảm ấy, làm con người trở nên yếu đuối,

và đê hèn. Cả ngàn người viết, hàng vạn người mang danh học hành, bằng cấp, nhưng khó tìm ra một nhà văn, một trí thức đích thực. Vâng! Một đất

nước có hồn khí như vậy, chắc chắn đang bước tới hố sâu, và ngõ cụt. Từ đó có thể thấy, thịnh suy dẫn đến sự đổ nát, suy tàn của một triều đại là

điều khó tránh khỏi. Đó cũng là qui luật tất yếu của lịch sử. Bởi, cái cũ chắc chắn sẽ được thay bằng cái mới phù hợp với sự phát triển văn hóa, khoa

học cũng như khát vọng của con người. Tuy nhiên, để làm được điều đó, cần phải có nhiều yếu tố. Thơ văn và nhận thức tư tưởng thi sĩ nói riêng và

của con người nói chung là một trong những ngòi dẫn, yếu tố quan trọng.

Và trong cái gật gù, u mê ấy, nếu được phép chọn ra những nhà văn, thi sĩ ở trong nướcgạt bỏ được tạp niệm, bùa chú đó, với tôi, người đầu tiên

phải là Thái Bá Tân, Nguyễn Quang Lập, Bành Thanh Bần...

Từ trách nhiệm công dân đến chuyển biến tư tưởng

Nói đến Thái Bá Tân, có lẽ rất nhiều người biết, ông là một nghệ sĩ đa tài. Ngoài tài năng văn thơ, đàn ca sáo nhị, ông còn là dịch giả, một người

thày đầy lòng nhân ái.

Thái Bá Tân sinh năm 1949 tại Diễn Châu, Nghệ An, trong một gia đình truyền thống khoa bảng. Ông tốt nghiệp trường Đại học ngoại ngữ Moskau,

rồi về giảng dạy tại trường Đại học sư phạm ngoại ngữ Hà Nội, và Ủy viên đối ngoại của Hội nhà văn VN sau này. Có thể nói, ông là một trí thức, con

cưng của chế độ CS, được đào cơ bản từ trong cho đến ngoài nước, hiện đang sống và làm việc tại Hà Nội.

Khởi đầu Thái Bá Tân đến với văn chương bằng dịch thuật, rồi truyện ngắn và thơ lục ngôn, bát ngôn... Tuy nhiên, những năm gần đây, ông được mọi

người biết đến và yêu mến nhiều hơn với mảng thơ thế sự, xã hội theo thể ngũ ngôn. Thơ thời sự là mảng thơ khó nhằn, khó viết, cho nên rất ít

người dám đi đến tận cùng. Bởi, ngoài tài năng, nó cần sự dũng khí, cũng như mất mát, hy sinh không chỉ riêng bản thân người viết, mà cho cả gia

đình, dòng họ.

Khi đọc và nghiên cứu Thái Bá Tân, tôi thực sự khâm phục sự lòng dũng cảm, can trường của ông. Thơ ông gắn liền với thân phận đất nước và con

người, cũng như phơi bày sự thối nát của chế độ xã hội đương thời. Để có những vần thơ, trang viết này, tôi nghĩ, ngoài tình yêu đất nước, lẽ phải,

công bằng, Thái Bá Tân còn được đi nhiều, và hầu hết khắp các châu lục, nhất là các nước tự do dân chủ. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến nhận thức, tư

tưởng của ông. Ta có thể thấy, sự chuyển biến nhận thức, tư tưởng của ông thật rõ ràng về chân tướng cũng như sự lưu manh hóa của chủ nghĩa CS

qua bài thơ Cộng Sản:

“...Elsin, ai cũng biết,
Trùm cộng sản Nga Xô:
Cộng sản không thể sửa,
Mà phải chôn xuống mồ.

Rồi ông Gorbachev:
Tôi bỏ nửa đời người
Theo lý tưởng cộng sản,
Tưởng nó đẹp nhất đời.

Thế mà giờ chua xót,
Phải tuyên bố điều này:
Cộng sản chỉ dối trá,
Luôn dối trá xưa nay.

Tiếp đến, một trùm nữa,
Ông Putin, người hùng:
Ngu mới tin cộng sản.
Theo cộng sản là khùng.

Từng sống với cộng sản,
Bà Merkel ngày nay
Là thủ tướng nước Đức
Thì phát biểu thế này:

Cộng sản thật đáng sợ,
Làm tha hóa con người,
Biến họ thành dối trá,
Thờ ơ và lõi đời.

Một người rất đáng kính,
Đức Dalai Lạt Ma
Của nước xưa Tây Tạng
Thì nói với chúng ta:

Công sản là cỏ dại
Trên đổ nát chiến tranh.
Nó là loài trùng độc
Trên rác đời hôi tanh...”

Đọc nhiều, đi nhiều đã cho Thái Bá Tân sự hiểu biết, để có thời gian nhìn lại mình, và nhận ra giá trị thật sự của đất nước, con người dưới chế độ

cộng sản, mà bấy lâu nay từng được tô hồng, che đậy. Qua bài Tự Bạch, ta không chỉ thấy được sự thật nhục nhã ấy, mà còn thấy được tính khẳng

khái, lòng dũng cảm của ông:

“...Chứ nói chung là nhục.
Nhục phải làm thằng dân
Một nước giỏi nói phét,
Lãnh đạo thì ngu đần.

Riêng hai chữ “cộng sản”
Đã đủ nói phần nào.
Làm thằng dân cộng sản
Có gì mà tự hào?

Mà tự hào sao được
Khi mấy triệu dân ta
Vượt biên, thà chết biển
Hơn phải chết ở nhà!

Tự hào là yêu nước.
Yêu nước phải biểu tình.
Mà biểu tình nó oánh.
Quân ta oánh quân mình.”

Nếu không có nhận thức và biến chuyển tư tưởng, thì có lẽ, thơ Thái Bá Tân không thể có cái đau cùng nỗi đau của dân tộc và đồng loại. Khóc là

một bài thơ như vậy. Ngoài sự phơi bày tội ác đày đọa, giết người hàng loạt, một cách dã man của chủ nghĩa CS, nó còn cho người đọc thấy được

diễn biến tâm lý của nhà thơ: “Vứt mẹ cái khẩu hiệu / Còn đảng là còn mình./ Thế mai kia đảng chết / Không lẽ mày quyên sinh?” Và từ diễn biến nội

tâm ấy, đã đẩy tâm trạng từ ngạc nhiên lên đến sự phẫn uất căm hờn. Có thể nói, nhận thức tư tưởng của nhà thơ đi từ thấp đến cao, và nó đã hoàn

toàn tháo bỏ được chiếc ách cộng sản quàng chặt trên mình từ bấy nay:

“Mười mấy năm về trước
Tôi đọc cuốn “Sách Đen
Về chủ nghĩa cộng sản”,
Rồi ngồi thừ, ngạc nhiên.

Sách đen nhưng giấy trắng,
Nói về chủ nghĩa này,
Về số triệu người chết,
Và người bị đọa đầy.

Khi đọc đến con số
Người Việt Nam, than ôi,
Đã phải chết vì nó,
Tôi khóc cho nước tôi.

Con số là nhiều triệu,
Nhiều triệu những mạng người.
Rất có thể, ai biết,
Thêm người nữa là tôi.

Gần mười năm sau đó,
Tôi đến Washington,
Và rồi tôi lại khóc,
Khi phẫn uất, căm hờn

Tôi đứng bên bức tượng
Nạn nhân chủ nghĩa này.
Một trăm triệu người chết.
Một trăm triệu xưa nay...” (Khóc)

Tuy nhiên, cũng cần phải nói thêm, Thái Bá Tân hay Bành Thanh Bần, Nguyễn Quang Lập... họ chỉ là những nhà thơ, nhà văn bình thường, và làm

đúng nghĩa vụ công dân. Họ viết và nói lên những sự thật đang diễn ra hàng ngày, khi hàng ngàn nhà văn, trí thức khác lặng im, ngậm miệng ăn tiền.

Chúng ta (người đọc) không nên nghĩ, ghép họ với những nhà dân chủ, hay phản kháng xổ toẹt Mác, ly khai cộng sản như các nhà văn: Võ Thị Hảo,

Dương Thu Hương, Phạm Thành... để rồi đến lúc thất vọng, buông ra những lời nói, từ ngữ xúc phạm không đáng có, như thời gian vừa qua.

Có điều kỳ lạ, nhiều người không biết sống ở trong nước hay nước ngoài, tên đểu hay tên thật, luôn lớn tiếng cho tự do dân chủ. Thế nhưng chỉ cần

một ý kiến, một bài viết khác ý, họ sẵn sàng mạt sát bằng những từ ngữ chợ búa. Tôi không rành về chính trị, nhưng thiết nghĩ, chính quyền rơi vào

tay những người này, có lẽ họ còn sắt máu hơn cả CS Mao- Polpot.

Và với tôi, chỉ cần một nửa nhà văn VN, viết và có tư tưởng nhận thức như thi sĩ Thái Bá Tân, Nguyễn Quang Lập, Bành Thanh Bần... thì đất nước,

con người có lẽ đã khác đi rất nhiều. Sự thối nát, độc quyền tư tưởng, độc quyền chân lý, độc quyền lãnh đạo của Đảng CS sẽ bị phơi bày. Nó góp

phần không nhỏ cho sự nghiệp dân chủ hóa đất nước.

Vâng! Đang sống dưới chế độ CS, làm được như vậy, đã là điều đáng kính, đáng khâm phục lắm rồi. Điều đó, không phải ai cũng làm được.

Nghệ thuật sử dụng con chữ trong ngũ ngôn thơ

Có thể nói, tôi đã đọc Thái Bá Tân khá nhiều. Thơ cũng như văn của ông từ ngữ mộc mạc, dễ hiểu. Truyện ngắn gây cho tôi nhiều ấn tượng, bởi nó

gần với đạo giáo, cùng với lòng nhân đạo cao cả. Đôi khi nó chỉ là những câu chuyện vặt hàng ngày, nhưng mang thông điệp lớn, buộc người đọc

phải suy nghĩ. Với tôi, Chuyện Làng Và Người Làng là một trong những truyện ngắn hay nhất của ông, và cũng là truyện ngắn hay của văn học Việt,

trong thời gian gần đây. Có điều lạ, dường như Thái Bá Tân ít quan tâm đến đặt tên (tựa đề) cho truyện của mình. Chuyện Làng Và Người Làng là

một ví dụ. Tuy chuyện kể về làng và người làng, nhưng hồn cốt là quá trình diễn biến nội tâm dẫn đến sự sám hối (tội lỗi) của một con người, hay của

cả thế hệ... Do vậy, với cái tựa đề sơ sài trên, khó có thể là cái hom, cái giỏ chứa đựng hết hàm ý nội dung, ý đồ chuyển tải của tác giả.

Và những năm gần đây tôi được đọc, biết đến thơ thế sự, xã hội của Thái Bá Tân, viết dưới thể ngũ ngôn. Phải nói, nó đã gây cho tôi ấn tượng và

cảm xúc mạnh. Bởi, ông không chỉ thổi hồn, mà còn làm mới ngũ ngôn thơ bằng nghệ thuật sử dụng từ ngữ, cũng như kỹ thuật vắt dòng, hay bắc

cầu. Giống như lục bát, thơ ngũ ngôn dễ làm, nhưng khó hay, nếu nhà thơ không có tài. Theo dòng văn học sử, ta có thể thấy, ngoài Ông Đồ của Vũ

Đình Liên, Em Đi Chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp, Tiếng Thu của Lưu Trọng Lư, Khi Chưa Có Mùa Thu của Trần Mạnh Hảo... thơ ngũ ngôn để

lại cho đời không nhiều.

Có một điều thú vị, cả hai tác giả đương đại đưa khẩu ngữ vào văn và thơ đều xuất thân từ miền Trung (Quảng Bình, Nghệ an). Nếu khẩu văn Nguyễn

Quang Lập gần gũi hài tính, gây cười, thì khẩu thơ của Thái Bá Tân là lời tự sự, truy vấn làm cho người đọc chìm vào nỗi đau của đất nước, con

người, cũng như thế thái nhân tình.

Thái Bá Tân viết nhiều thể loại, dịch nhiều sách, tuy được nhiều người biết đến, kể cả độc giả ngoại quốc. Nhưng chỉ đến khi ông dùng ngũ ngôn thơ

chọc thẳng vào ung nhọt của xã hội, nóng hổi tính thời sự thì tên tuổi ông mới đóng đinh vào lòng người đọc trong và ngoài nước. Và chính nó đã làm

nên chân dung nhà thơ, nhà văn vạm vỡ Thái Bá Tân được nhiều người yêu mến của ngày hôm nay.

Có thể nói ngay, thơ Thái Bá Tân hay trước nhất ở cái tứ. Và dường như bài nào cũng vậy. Đến với ngũ ngôn thơ ta thấy ông đã thay đổi hoàn toàn

cách viết, từ ngôn ngữ cho đến cách gieo vần. Tuy lời thơ dân dã, nhưng ông đã sử dụng kỹ thuật ngắt nhịp, vắt dòng làm cho bài thơ hay đến lạ

lùng. Những Người Ở Lại là bài thơ điển hình như vậy. Nó không chỉ cho ta thấy sự ngơ ngác, mất niềm tin đi đến bế tắc của người dân lương thiện,

mà còn thấy được sự lưu manh hóa của những ông quan cách mạng, dưới cái chủ thuyết xã hội không tưởng. Chúng ta đọc lại lời kể, hay của một

lời than dưới đây để thấy rõ điều đó:

“...Quan, những người cách mạng,
Lặng lẽ tích đô-la
Để thành công dân Mỹ,
Tây Âu, Canada...

Ta, những người ở lại,
Đang thử hỏi còn gì?
Còn lại một núi nợ,
Một xã hội trái chiều.
Những câu khẩu hiệu đỏ
Và một mớ giáo điều.

Một môi trường hủy diệt.
Một đất nước, người dân
Mất niềm tin, ngơ ngác,
Đành tin vào thánh thần.

Một dân tộc bất lực
Nhìn cái ác lên ngôi.
Bất lực chịu ngang trái
Và đạo đức suy đồi.”

Tôi đã đọc, và viết khá nhiều về chân dung các nhà thơ, nhà văn đang sống trong cũng như ở ngoài đất Việt. Hai nhà thơ Luân Hoán và Thái Bá Tân

để lại trong tôi ấn tượng khá đặc biệt, bởi cái lối kể chuyện bằng thơ. Luân Hoán hiện đang cư ngụ tại Canada, là nhà thơ miền Nam, thuộc thế hệ đi

trước. Nếu thơ của Luân Hoán là câu chuyện tình, chuyện đời, thì thơ ngũ ngôn Thái Bá Tân mang nặng tính thời sự, với những câu chuyện nóng hổi

vừa xảy ra. Nó bám chặt lấy cuộc sống, bám chặt lấy những thăng trầm của đất nước, và con người. Đọc, nghiên cứu, ta cảm giác, Thái Bá Tân làm

thơ cứ như đùa, như chơi vậy. Mộc mạc, thô ráp là thế, nhưng cái dí dỏm ấy sắc nhọn như mũi dao chích vào lòng người.

Thật vậy, đọc bài Lại Phim Hăm Mốt Tỉ, ông viết cách nay không lâu, cho ta thấy, dù có đốt đến tiền tỉ, hút kiệt máu và nước mắt của nhân dân, cũng

không thể che đậy được cái giả dối, bầy đàn, một cách kịch cỡm của những kẻ xu thời, nịnh thế:

“...Một bộ phim hoành tráng,
Tốn hăm mốt tỉ đồng
Để ca ngợi tướng Giáp.
Thế mà rạp trống không.

_________________

Là con người, ông Giáp
Chết, tất nhiên tôi thương.
Là lãnh đạo, thú thật,
Tôi thấy cũng bình thường.

Chí ít không vật vã
Gào khóc như lên đồng.

________________

Lạ, những người khóc ấy
Sao bây giờ lặng thinh?
Không xem phim ca ngợi
Người anh hùng của mình?

Mà trước đấy tướng Giáp
Bị làm nhục nhiều năm,
Rồi ốm nặng, sao họ
Không một lần đến thăm?

Bao giờ dân Đại Việt,
Vốn văn minh, khôn ngoan
Mới chợt tỉnh để thoát
Cái tâm lý bầy đàn?”

Ngược dòng văn học sử, ta có thể thấy từ thuở chưa có chữ viết, ông cha ta đã sáng tác, đúc kết truyền miệng những câu hoặc bài thơ châm ngôn

về đạo đức và lối sống. Trải qua bao thăng trầm, nhiều câu, nhiều bài còn nguyên giá trị đến ngày hôm nay. Tuy nhiên, những năm gần đây, cùng với

văn học dân gian, thơ châm ngôn ít được nhà chức trách và giới sáng tác, nghiên cứu quan tâm. Người sáng tác chuyên tâm, chuyên nghiệp dường

như không có. Có lẽ, nó đòi hỏi một sự khắt khe chăng? Bởi, người viết thơ châm ngôn, ngoài tài năng, nhân cách, dứt khoát phải có kiến thức, vốn

sống và từng trải về nhiều lãnh vực.

Thế nhưng, khi đi vào nghiên cứu Thái Bá Tân, ta có thể thấy, riêng thơ châm ngôn của ông không dừng lại con số bảy tập. Đây là con số nói lên sức

viết, khả năng sáng tạo đáng kính phục, bởi một người cùng lúc làm nhiều công việc như Thái Bá Tân. Và không đi theo thể lục bát truyền thống, thơ

châm ngôn năm chữ (ngũ ngôn) của ông vẫn thủ thỉ, mang đậm tính triết lý của cuộc sống:

“Ta hay quá sốt sắng
Quan tâm đến mọi người,
Mà quên ta là người
Đáng được quan tâm nhất.

Ta thường tìm hạnh phúc
Ở đâu đó rất xa,
Mà quên rằng hạnh phúc
Ở ngay chính trong ta.

Nghe, ai mà chả thích
Nghe những điều ngọt ngào.
Vì mặt trời chói mắt,
Ta thích ngắm trời sao.

Nhưng làm nên sự sống
Lại chính là mặt trời,
Không phải sao lấp lánh,
Mờ ảo và xa vời.”

Ngũ ngôn là thể thơ có nhịp cũng như ngôn từ gần gũi với câu nói thường nhật, nên dễ nhớ, dễ thuộc đi vào lòng người, kể cả những đề tài khô khan

như thời sự, xã hội. Tuy nhiên, do những đặc điểm như vậy, nên giữa thơ và vè luôn có khoảng cách rất mong manh, nếu nhà thơ thật sự không có

tài. Và đọc Thái Bá Tân ta có thể thấy, dù là nhà thơ tài năng, luôn tìm tòi, sáng tạo, nhưng thơ ngũ ngôn của ông cũng còn một số câu, bài dở, nhất

là mảng thơ châm ngôn. Có lẽ, do ông viết nhanh và nhiều chăng? Âu đó cũng là điều rất bình thường của bất cứ nhà thơ, nhà văn nào.

Bộ mặt thật của chế độ, và sự nhu nhược của con người

Hơn một lần tôi đã viết, Thái Bá Tân và Bành Thanh Bần là hai thi sĩ đang sống ở trong nước, viết về mảng thế sự, xã hội, mang lại nhiều xúc cảm

cho người đọc. Tuy bút pháp, cũng như thể loại thơ hoàn toàn khác biệt, nhưng không ai có thể phủ nhận dũng khí của hai thi sĩ Thái Bá Tân và Bành

Thanh Bần. Có lẽ, đây là hai cây bút hàng đầu của thi ca đất Việt dám đi đến tận cùng những vấn đề gai góc, nhức nhối nhất của đất nước, con

người trong thời gian gần đây. Nếu Bành Thanh Bần, chỉ có vốn liếng của một gã thợ cày, với những câu lục bát dân dã, đã lật ngược bộ mặt thật

của chế độ, thì Thái Bá Tân, một trí thức được đào tạo cơ bản từ trong đến ngoài nước, dùng “Ngũ ngôn thơ” chọc thẳng vào những ung nhọt của xã

hội.

Thật vậy, Thái Bá Tân luôn trăn trở cùng quốc gia, dân tộc. Mỗi biến cố, sự kiện dù lớn hay nhỏ, thơ ông đều ghi lại cùng với những câu hỏi, truy vấn

làm quặn thắt lòng người. Dẫu biết rằng, câu hỏi ấy, ai cũng biết và có thể trả lời. Xin Nhường Cho Chính Quyền, tuy chưa phải là bài thơ hay nhất

của Thái Bá Tân, nhưng tôi thích, không phải vì tiếng cười thích thú, hân hoan của dân chúng trước sự bắn giết nhau của đám quan tham, mà bởi

tiếng súng ấy, đã báo hiệu ngày cận kề sụp đổ, đền tội của một chế độ đã mục nát:

“Dường như đang bung vỡ
Khối ung nhọt lâu nay.
Bí thư đảng Yên Bái
Bị bắn giữa ban ngày…

Thủ phạm, cũng quan lớn –
Trưởng chi cục kiểm lâm.

Còn một nạn nhân nữa,
Một quan ban phát quyền,
Là trưởng ban tổ chức,
Mà chức là có tiền.

Mạng người nào cũng quí,
Cả dân và cả quan.
Sao nhiều người không xót,
Thậm chí còn hân hoan?...”

Không chỉ quay ngược bút, chọc vào đám văn nô cùng trong Hội: “những Lũ văn nô, đĩ bút/ Mới là bọn bất lương/ Khóc mướn quan tham nhũng/ Lên

mặt dạy dân thường.” mà Thái Bá Tân còn vạch trần bộ mặt ngu xuẩn, lộn ngược gia phong của những tên quan tuyên huấn: “Chắc có thằng tuyên

huấn/ Vừa ngu dốt vừa lười/ Xưa tớn lên, chấp bút/ Đặt đảng ngang với trời.” Bởi, với chúng, chỉ có nấp sau đảng, sau cái thứ quyền lực đổi trác,

bán mua ấy mới có thể đục khoét, làm giầu một cách bất lương:

“...Biệt thự tám mươi tỉ
Bên túp lều xác xơ
Là bất lương tột đỉnh
Đất nước ta bây giờ

Quan xứ núi đã thế,
Quan thủ đô thì sao?
Chúng, quan của mọi xứ,
Đang hút máu đồng bào...”

Không dừng lại mức độ đục khoét tham nhũng, mà bọn cường hào thống trị mới còn tàn nhẫn, man rợ hơn nữa. Thật vậy, chúng không từ bất cứ một

thủ đoạn nào đối với đất nước, đồng bào, đồng đội. Hình ảnh những người lính gục ngã, bởi bị bán mua ngay nơi chiến trường là bức tranh thu nhỏ

của đất nước hôm nay:

“...Chuyện kể rằng, lần ấy,
Khi đánh nhau với Tàu,
Quân ta và quân địch
Cách nhau một chiếc cầu.

Bỗng từ trên có lệnh
Một đại đội xung phong
Vượt qua cây cầu ấy,
Sang bờ bên kia sông.

Thế mà lạ, sau đó,
Hai bên đang đánh nhau,
Có lệnh từ trên xuống.
Lần này lệnh phá cầu!...” (Ballad về một đại đội bị bỏ rơi)

Võ Nguyên Giáp cũng là một bài thơ hay của Thái Bá Tân. Ông có một cái nhìn trung thực, và đánh giá một cách khách quan về một nhân vật của

lịch sử. Bài thơ ra đời, có lẽ ông bị áp lực từ nhiều phía, nhất là những kẻ có hai bộ mặt trong một con người. Đọc bài thơ này, dường như có một

sự đồng cảm nào đó, làm tôi nghĩ ngay đến một bài viết của mình, ngay sau ngày tang lễ cụ Võ Nguyên Giáp:

“...Sau cái chết và lễ tang cụ Võ Nguyên Giáp, một nhóm, trong đó có cả một số nhà thơ tên tuổi, phát động, cùng nhau làm thơ, viết thơ về cụ Giáp.

Tôi vui, buồn lẫn lộn, nhưng ông bạn nghiên cứu triết của tôi bảo, thơ ca gì, đọc lên sao thấy nó giống như dàn kèn tụng ca vua chúa thời phong kiến

vậy… Và không hiểu sao, dạo này các bác hay đùa dai đến thế: Cứ bảo, cụ Giáp về với dân. Về với dân có nghĩa là như các bậc tiền nhân, sau khi

hoàn thành nhiệm vụ, dám từ bỏ quyền lực, trở về ngôi nhà cũ của gia đình dòng họ và làm lại đúng cái nghề gõ đầu trẻ của mình. Chứ ai lại về với

dân, mà sau khi thắng giặc, cụ ngự Villa to vật vã giữa lòng thủ đô. Không phải ai muốn gặp cụ cũng được. Khi mất, lăng mộ cụ lại ngự nơi được cho

có phong thủy đẹp, lưng là núi mặt tiền là biển và dường như có cả lính túc trực ngày đêm? Vậy là xa dân, chứ làm sao có thể nói, cụ gần dân, về

với dân. Thôi thì, cụ cứ nằm chung với các đồng chí của mình giữa thủ đô, có người chăm sóc luôn thể, có khi lại giản dị, đỡ tốn kém hơn.

Vâng! Người có công với chế độ như cụ Giáp, được hưởng thụ ở mức “đại Nhà Thờ, đại Tôn Đản“ là điều đương nhiên, khỏi bàn cãi. Nhưng các bác

cứ cố gò ép, cụ về với dân, quả thật nó vênh, tội và oan cho dân lắm.

Có lẽ, do quá yêu quí cụ, nên nhiều người, trong đó có cả những nhà văn, trí thức cho rằng, cụ Giáp không vướng vào những sai lầm cải cải cách

ruộng đất, nhân văn giai phẩm...v..v… Dù là người dốt về chánh trị, cũng có thể nhận ra, chủ trương dẫn đến những sai lầm này, của cả bộ chính trị,

không phải chỉ có riêng các cụ Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Hồ Viết Thắng gánh chịu, mà phải tính từ cụ Hồ trở xuống. Cụ Giáp lúc đó là ủy viên

bộ chính trị, uy tín, tiếng tăm đang lẫy lừng, quyền hạn cao chót vót, nên không thoát khỏi trách nhiệm này...” (đoạn trích trong bài Sám Hối)

Và chúng ta hãy đọc lại bài Võ Nguyên Giáp để thấy rõ bộ mặt thật đê hèn, mà bấy lâu nay tưởng chừng cao đạo của giới chóp bu CS:

“Nhẫn nhục mưu việc lớn
Là việc rất đáng khen.
Nhẫn nhục để khỏi chết
Là thứ nhẫn nhục hèn.

_________________
Tôi không yêu, không ghét
Ông tướng cộng sản này.
Kính trọng cũng không nốt,
Vì ba điều sau đây.
Một, thua xa Trần Độ,
Đến trăm tuổi, mà rồi
Vẫn nghĩ cộng sản tốt,
Không hối hận, theo tôi,
Đó là sự mù quáng,
Là giáo điều nặng nề.
Riêng việc ấy cho thấy
Đầu óc có vấn đề.
Hai, người ta nhẫn nhục
Để phục quốc cứu người.
Ông thì hèn, chịu nhục
Để được sống hết đời.
Ba, tài năng quân sự.
Tôi không là chuyên gia.
Nghe đồn cái tài ấy
Là của người Trung Hoa.
Ông, như nhiều tướng khác,
Chiến tranh thì nhân dân,
Mà trận nào cũng thế,
Nổi tiếng nướng nhiều quân...”

Gần đây, nghe nói, Thái Bá Tân đã tìm đến Phật Pháp. Và có lẽ, đó là nơi trú ngụ hồn ông lúc về chiều. Và càng đi sâu vào Phật pháp mênh mông,

dường như thơ của Thái Bá Tân đến gần hơn với luật báo ứng, nhân quả. Dân Đại Bái Chơi Đẹp là một bài thơ như vậy. Tuy chỉ là những thống kê

qua lời kể, nhưng những cái chết đó như một lời cảnh tỉnh, đầy lòng nhân ái của người thi sĩ gửi đến những kẻ đang cỡi lên đầu, lên cổ người dân

lương thiện:

“...Nghe nói đâu tháng trước
Cả gia đình sáu người
Của một quan địa chính
Từng vang bóng một thời

Đã phải chết thảm khốc
Vì tai nạn giao thông.
Phải chăng là nhân quả?
Dẫu sao cũng đau lòng.

Lại nữa, một cán bộ
Cũng liên quan đất đai,
Đã bị dân chém chết
Đâu đó ở Gia Lai.

Chuyện như thế nhiều lắm.
Chuyện ân oán giang hồ.
Chắc quan tham cũng biết
Và chắc cũng đang lo.”

Đọc thơ ngũ ngôn Thái Bá Tân, cho tôi cảm giác mỗi bài là một trang sử ký, mà ông đã cần mẫn ghi lại. Với tôi, đó là những trang thơ, trang sách

sống. Và tôi tin, dù còn phải sống trong một xã hội mịt mù, u ám, cùng với nó, trái tim người nghệ sĩ đích thực Thái Bá Tân vẫn sống cùng thời gian.

Leipzig ngày 4-9-2015

Đỗ Trường
Ai đang xem chủ đề này?
Guest
Di chuyển  
Bạn không thể tạo chủ đề mới trong diễn đàn này.
Bạn không thể trả lời chủ đề trong diễn đàn này.
Bạn không thể xóa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể sửa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể tạo bình chọn trong diễn đàn này.
Bạn không thể bỏ phiếu bình chọn trong diễn đàn này.

Powered by YAF.NET | YAF.NET © 2003-2024, Yet Another Forum.NET
Thời gian xử lý trang này hết 0.900 giây.