Hà Nội, tháng Hai, 1969- Thế giới lần đầu tiên nghe đến Giáp vào năm 1954 khi ông đánh bại người Pháp ở Điện Biên Phủ, rồi lần nữa tại Hà Nội, nơi ông đồng thời giữ các chức vụ Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang. Trong hệ thống tổ chức như giáo hội của thế giới cộng sản, Giáp thuộc hàng tổng giám mục, là người không ai được chạm đến và cũng không thể nào chạm đến.
Gặp được ông là đặc quyền hiếm có, và được nghe ông phát biểu lại càng hiếm hoi hơn. Trong những năm qua chỉ có ba hay bốn nhà báo được gặp ông, nhưng chẳng ai trong họ nghe ông nói điều gì quan trọng. Lý do là nếu ông có điều gì để nói thì ông viết ra. Sách ông “Chiến tranh Nhân dân, Quân đội Nhân dân” đang bán ngay tại Hoa Kỳ. Nhưng chủ yếu họ biết rất ít từ ông vì ông khôn khéo, vì ông là bậc thầy về cách trả lời lơ lửng. Chiếc bẫy duy nhất ông có thể mắc vào trong chốc lát là sự ngây thơ, đức tính mà ông chưa quen lắm.
Tôi tin chính vì vẻ ngây thơ của vài câu hỏi trong những câu hỏi tôi đặt ra cho ông cho nên ông mới tiết lộ bí mật tuy dù rất ít. Nhưng rồi ông rút lại tất cả những gì ông đã nói và trao cho tôi bản đánh máy hoàn toàn không có những lời ông đã nói. Bản đánh máy là bản sao giấy than trên ba tờ giấy mỏng. Khi Võ Thị Thế, hướng dẫn viên cho tôi, trao nó cho tôi ngay trước khi tôi rời Bắc Việt, chị giơ ngón tay lên báo cho biết trước: Đây là văn bản chính thức, được Giáp công nhận, và là văn bản duy nhất tôi có toàn quyền công bố.
Cho nên tôi nay công bố văn bản ấy, một bằng chứng đáng buồn về sự cắt xén chính thức sự thật, và cả bóp méo. Nhưng, dù tướng Giáp thích hay không thích thì tôi nay cũng công bố câu chuyện thật, cho dù như thế khiến tôi dường như thành kẻ vô ơn trước vinh hạnh được trò chuyện 45 phút. Vì đối với tôi sự thật là điều tôi nghe bằng chính tai mình và thấy bằng chính mắt mình.
Đây là nhật ký ghi lại việc tôi gặp Giáp.
Người Nga mù tịt
Sáng thứ Bảy-Hôm nay lúc 3 giờ tôi sẽ gặp ông. Sắp xếp được cuộc gặp này là cả kỳ công. Ông khó gặp như Hồ Chí Minh; từ năm 1967 đến nay ông không xuất hiện trước công chúng. Cho nên chẳng lạ gì người ta nói ông đã chết. Milan, phóng viên Tiệp Khắc, nói: "Tôi hầu như tin chắc như thế."
Boris Sumeep và Boris Chiumev, những người Nga ở thông tấn xã Novosti, nói giọng bất mãn. "Cả năm trời chúng tôi chờ đợi ở đấy mà chẳng thấy ông ta. Rõ ràng chúng tôi không quan trọng." Hóa ra, tôi đã thật sự làm được một chuyện phi thường, mặc dù tôi sẽ không gặp ông một mình, mà cùng với ba phụ nữ trong đoàn đại biểu cộng sản đến từ Ý. Carmen, Giulia và Marisa thảy đều náo nức. Đối với họ toàn những người Mác-xít thì gặp được ông giống như được yết kiến Đức Giáo Hoàng. Riêng tôi, thật sự tôi thấy hồi hộp. Tôi sắp sửa đưa tay ra chạm vào bóng ma, bóng ma khiến tôi lạnh cả xương sống vì rùng mình sợ hãi: sợ Việt cộng và Bắc Việt pháo kích; rùng mình trước cảnh những người lính miền Bắc chết-những người chết của ông-trong những chiến hào Đắc Tô, những người Mỹ chết trên phi đạo Khe Sanh, những người chết ở cả hai bên trong cuộc tấn công Tết mà mọi người nói: "Giáp đứng sau vụ tấn công này."
Tôi không biết tôi sẽ nghĩ gì khi tôi thực sự thấy ông, khi tôi bắt tay ông; ông thực sự là người như thế nào. Ngày hôm qua, tôi dành cả ngày đọc mọi thứ ông viết và người ta viết về ông; quả là cuộc đời phi thường.
Ông sinh ở An Xá tỉnh Quảng Bình vào ngày 1 tháng Chín, 1910, con điền chủ nghèo. Năm 14 tuổi ông đã là người cộng sản khích động quần chúng; năm 18 tuổi ở tù, nơi ông gặp người vợ tương lai, Minh Thái. Chánh sở mật thám bắt đầu thích ông đến độ sắp sếp cho ông vào học trường Quốc Học ở Huế và rồi vào Đại học Hà Nội, nơi đây ông học triết và học lấy bằng luật, đồng thời dạy sử ở trường trung học và qua đó truyền mối ám ảnh của ông về Napoleon đến học sinh.
Ông vẽ trên bảng đen những phác họa chi tiết về những trận đánh của Napoleon và bắt chước cách nói của Napoleon, nói những câu ngắn, và đầu cúi xuống còn ngón tay cái đút vào áo vét. Ngày nọ một thầy giáo hỏi ông: "Anh đang đóng vai Napoleon đấy à?" Ông đáp lại: "Tôi sẽ là Napoleon." Một con người dửng dưng, mặt không biểu lộ cảm xúc, có thể tức giận giữa những lúc im lặng lạnh lùng.
Tình cảm lãng mạn
Họ gọi ông là "núi lửa phủ tuyết". Sau đấy ông trở thành Ma Qủy, rồi cuối cùng là Giáp. Ông trở thành Giáp vào năm 1935, lúc ông kết hôn với Minh Thái và gia nhập Đảng Cộng Sản. Đảng là sự tận tụy suốt đời, nhưng ông chỉ ở với Minh Thái cho tới năm 1939, khi Đảng bị đặt ra ngoài vòng pháp luật và ông trốn sang Trung Quốc.
Minh Thái chấp nhận bị bắt để che giấu cho ông trốn thoát, và vào năm 1941 bà chết trong nhà tù vốn bị chuột hoành hành. Đây là điều lãng mạn nhất tôi thấy trong tiểu sử của Giáp. Hình như ông quả thật yêu bà, và cũng hình như từ khi bà chết ông trở nên căm thù và độc ác tàn bạo. Những ai biết ông rõ nhất nói ông trở thành Giáp của ngày hôm nay không phải vì tình cảm dân tộc hay niềm tin vào chủ nghĩa cộng sản, mà chỉ vì để trả thù cho Minh Thái.
Vào năm 1940, ông gia nhập Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội, về sau gọi là Việt Minh. Khi ông ở trong các hang động ở Diên An, chặng cuối cùng của cuộc trường chinh của Mao, thì người đứng đầu Việt Minh, Hồ Chí Minh, ra lệnh ông tập trung vào các vấn đề quân sự. Lúc này, ông gạt Napoleon qua một bên để học Bành Đức Hoài, mà mới cách đây không lâu còn là Bộ Trưởng Quốc Phòng của Bắc Kinh, song hiện giờ bị thất sủng.
Cùng với Bành ông soạn thảo ra cẩm nang kháng chiến và nghiên cứu các tác phẩm của Tôn Tử, nhà binh pháp và quân sử Trung Hoa sống trước Chúa Giê-Su 2.500 năm. Ông nói ông không nợ gì Mao như Mao và Bành Đức Hoài không nợ gì Tôn Tử. Ông chưa từng bao giờ là người rất hâm mộ Trung Quốc nên ông không ở lại đấy lâu hơn thời gian cần thiết.
Vào năm 1941 ông trở về nước, cùng với Phạm Văn Đồng, để tổ chức lực lượng du kích Việt Minh, và sống trong hang Pác Bó với Hồ Chí Minh:
"Hang đầy dây leo, rắn và nhện hay cắn. Chúng tôi thường dậy sớm; Bác Hồ đánh thức chúng tôi dậy. Chúng tôi tập thể dục một chút, rồi bắt đầu làm việc. Chúng tôi ăn rất ít, chủ yếu cơm với muối. Chúng tôi thường bị sốt rét rừng."
Ông có trái lựu đạn cầm tay giắt ở thắt lưng, trái lựu đạn bị lép nhưng ông vẫn giữ nó lại "vì không nên vất bỏ công cụ thuyết phục."
Ta thấy ông khóc trong một đoạn trong sách của ông. Ông ở núi Lam Sơn khi đồng chí Cáp đưa tin đến là Bác Hồ đã chết.
"Mọi thứ quay cuồng quanh tôi. Tôi bỏ đồ dùng của Bác vào giỏ mây mà Bác dùng như chiếc va-li rồi yêu cầu Phạm Văn Đồng đọc điếu văn. Trời rất lạnh, và muôn vàn vì sao soi sáng bầu trời bao la. Lòng tôi buồn vô hạn; tôi cảm thấy bị bỏ rơi và cô đơn. Mắt tôi rưng rưng khi tôi ngước nhìn các vì sao."
Phút sau, ta thấy Giáp cười. " Chúng tôi biết được Bác Hồ không chết lúc chúng tôi nhận được tờ báo từ Trung Hoa với nét chữ Bác ở bên lề trang báo: ' Gửi lời chào đến tất cả mọi người, và hãy giữ vững tinh thần cho công tác. Ở đây mọi sự đều tốt."
"Cáp chịu trách nhiệm về việc hiểu sai ngữ nghĩa. Khi anh hỏi nhà chức trách Trung Hoa tin tức về Bác, họ nói : 'Su lo, su lo." Nhấn mạnh vào chữ đầu tiên nghĩa là 'chết rồi', ngược lại nhấn mạnh vào chữ thứ hai nghĩa là 'khỏe mạnh'. Tôi là người đầu tiên bật cười."
Dùng người Nhật
Đương lúc Châu Âu diễn ra Đệ Nhị Thế Chiến thì người Nhật xâm lăng Việt Nam. Giáp với quân Việt Minh của ông đánh Nhật trong bốn năm, nhưng ông để dành những sĩ quan giỏi về chiến trận trong rừng, tin rằng họ sẽ hữu dụng sau này.
Khi Nhật đầu hàng vào tháng Tám năm 1945, ông nhanh chóng vào Hà Nội để giao thành phố cho Hồ. Người Pháp chậm trở lại do chấn động của cuộc chiến tranh họ đã thua ngay trên quê hương mình. Hồ Chí Minh tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và phong Giáp làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ.
Điều đầu tiên Giáp thực hiện là tàn sát những người Việt quốc gia không phải là đảng viên Đảng Cộng sản. Rồi ông đưa những hàng binh Nhật ra làm huấn luyện viên quân sự trong lúc ông lo đối phó với người Pháp đã quay trở lại và tuyên bố nước cộng hòa của Hồ Chí Minh là vô giá trị. Trong tám năm sau đấy, người Pháp không có kẻ thù nào tàn bạo hơn ông.
Từ năm 1945 đến 1954, ông đã thử kỹ tất cả những cạm bẫy mà hiện nay ông vẫn đang xử dụng. Những đàn ong vò vẽ độc, gai tẩm độc dưới chân, rắn trong những cái lỗ phủ đầy lá; mìn nhét trong xác chết để bên đường để chờ mang đi. Là bậc thầy phá hoại và khủng bố, Giáp tuyên bố thẳng thừng, " Chiến tranh du kích nhất định luôn luôn thắng chiến tranh hiện đại", mặc dù ông đánh bại người Pháp ở Điện Biên Phủ bằng hàng trăm đại bác 105 ly do người Trung Quốc đã mua từ người Mỹ và rồi viện trợ lại cho ông.
Đại bác được mang từng bộ phận một trên xe đạp hay trên vai trong những cuộc trường chinh bắt buộc của những người lính Việt Minh thiếu ăn được ông nuôi bằng nửa cân gạo một ngày cùng với những bài thơ dữ dội:"Đánh địch rồi chạy/ Dụ chúng vào nơi mai phục để giết/ Giết đế quốc bằng bất cứ phương tiện nào có sẳn/ Bất chấp bao hiểm nguy."
Hay câu nói tàn bạo của ông: "Trên thế giới mỗi phút có hàng trăm ngàn người chết. Sống và chết không quan trọng." Nếu ở Điện Biên Phủ 12.000 người Pháp chết thì người Việt chết gấp đôi. Nhưng chết đối với ông không quan trọng. Ông không ở ngoài mặt trận.
Ông sống trong biệt thự kiểu thuộc địa do Pháp xây cùng với đồ đạc Pháp trong nhà. Ông có thể ghét người Pháp, nhưng ông nói tiếng họ và nợ họ văn hóa căn bản của ông.
Ông lập gia đình lại cách đây nhiều năm với một cô gái trẻ hơn ông rất nhiều và có bốn hay năm người con với ông. Ông có ô tô do người Nga tặng, và tủ áo quần đầy các bộ quân phục, mà ông trân trọng giống như một sĩ quan Phổ vào trước năm 1914. Ở tuổi 58 hay lớn hơn, ông đã bắt đầu có vẻ hơi tư sản, hoàn toàn trái ngược với vẻ khổ hạnh của Hồ Chí Minh hay bầu không khí cuồng tín bao phủ trên miền Bắc Việt Nam.
Thực ra, ở Hà Nội người ta hoàn toàn không thích ông. Võ Thị Thế, người thường nói năng cần thận, đã sơ ý thốt lên: "Suốt đời tôi cũng không hiểu tại sao mấy người Tây lại muốn biết về Giáp. Chúng tôi thiếu gì các tướng trẻ tài giỏi. Ông ấy không phải là người duy nhất chỉ huy chiến tranh."
Có lẽ không, nhưng tôi quan tâm đến ông; tôi muốn biết ông nghĩ gì về người Mỹ, về Việt Cộng. Tình hình của Việt Cộng đã trở nên phức tạp gấp đôi kể từ khi Giáp lần đầu tiên đưa quân Bắc Việt đến giúp họ vào năm 1965. Ngay cả niềm tin cộng sản chung vẫn không thể nào hoàn toàn xóa sạch mối nghi ngờ đã có từ lâu giữa người Bắc và người Nam cộng sản.
Khi các sư đoàn của Giáp vào Nam, họ nắm quyền lãnh đạo và lên kế hoạch tất cả các cuộc tấn công chính, để Việt Cộng thực hiện công tác phá hoại hay do thám. Đắc Tô là cuộc tấn công của Bắc Việt, chứ không phải của Việt Cộng, và cũng như ở Khe Sanh, Huế và Đà Nẵng.
Năm ngoái khi tôi ở Đà Nẵng, trong thời gian diễn ra những trận đánh mà con rể của Tổng Thống Johnson tham chiến, một sĩ quan Mỹ bảo tôi:" Vào những ngày này, khi chúng tôi đếm xác, chỉ thấy toàn những lính chính quy Bắc Việt trong những bộ quân phục mới còn thẳng nếp ủi. Việt Cộng đã bị gạt qua một bên, như thể Hà Nội không tin tưởng chúng."
Tất nhiên, đây là điều Giáp không bao giờ thú nhận. Ông thậm chí không thú nhận những sư đoàn của ông đã thâm nhập vào miền Nam. Các đại biểu của Hà Nội ở bàn hội nghị hòa bình Paris cũng không thú nhận điều này cho dù ta có chỉ cho họ thấy hình ảnh những xác chết. Nhưng từ ông tôi có thể biết về vai trò ông có trong cuộc tấn công Tết, hay biết liệu ở đây tại miền Bắc này họ thật sự muốn hòa bình hay không muốn hòa bình.
Lúc này các hướng dẫn viên của tôi gõ cửa. Họ muốn đưa tôi đi xem chợ hoa Tết. Tối nay mới Tết, nhưng người ta đã bắt đầu vui xuân. Những lá cờ đỏ treo ở khắp mọi nhà, giáo đường và chùa chiền và mọi người bước đi loanh quanh trên tay cầm các bó hoa-thường là hoa nhựa. Họ rất mê hoa nhựa.
Nhỏ con không ngờ
Chiều thứ Bảy-Các sĩ quan tham mưu đang chờ chúng tôi ở bên ngoài cổng tòa nhà Bộ Quốc Phòng, họ mặc quân phục màu vàng lục được cắt khéo. Họ cúi đầu chào và mỉm cười, rồi đưa chúng tôi đi dọc theo hành lang dài đến một phòng lớn có ghế sofa ở giữa phòng và các ghế bành chung quanh. Giáp chờ ở đấy.
Ấn tượng đầu tiên của tôi là vóc người thấp bé của ông. Họ bảo ông cao chưa tới một mét rưỡi, nhưng ông trông còn thấp hơn, với tay ngắn chân ngắn còn cổ biến mất bên trong cổ áo. Người ông mập mạp nên trông ông lại càng thấp hơn.
Ông quả thực giống Napoleon, ngoại trừ khuôn mặt Á Châu. Khuôn mặt ông đặc biệt không ấn tượng. Một bộ mặt chưa hoàn chỉnh, hơi húp híp và đường nét không cân đối, như bộ mặt ta thấy ở những người bị bệnh thận, lại bị cắt ngang bởi cái mũi tròn nhỏ như mũi trẻ con. Nhưng đôi mắt ông thuộc về những đôi mắt thông minh nhất tôi từng thấy, nhưng cũng là đôi mắt gian trá nhất, đôi mắt độc ác nhất. Lẽ nào đôi mắt như thế đã từng có thể khóc vào một đêm nọ ở trên núi Lam Sơn?
Ông bước nhanh đến tôi, chìa tay ra với thái độ tự tin bặt thiệp. Ông hỏi tôi có biết nói tiếng Pháp không và tôi đáp, "Oui, Monsieur". Ông dường như chẳng khó chịu việc tôi gọi ông bằng monsieur; có lẽ cách xưng hô ấy gợi ông nhớ đến thời xưa và ông thậm chí còn thích được xưng hô như thế.
Rồi ông bắt đầu chú ý đến Marisa, Giulia và Carmen. Ông dường như rất thích Carmen, người cao hơn một mét tám, vì ông cứ nhìn chị chòng chọc và muốn chị ngồi bên ông. Nhưng Carmen giữ lời hứa với tôi nên nhường chỗ cho tôi.
Chào hỏi xong, chúng tôi ngồi xuống, ông và tôi ngồi ở giữa, Carmen ngồi ở ghế bành đầu tiên ở bên phải, kế tiếp là Marisa, Giulia, rồi các hướng dẫn viên của chúng tôi Thế, Huân, Hộ, người phiên dịch. Về bên trái là các sĩ quan tham mưu. Trong số sĩ quan này có một người không thoải mái với đôi giày nên bắt đầu tháo dây giày ra hết lỗ này đến lỗ khác cho đến lúc anh cảm thấy dễ chịu.
Trước mặt chúng tôi là chiếc bàn bày đủ loại món ngon: những thanh phó mát, cốm, hạnh nhân, bánh bích quy, các món khai vị khác nhau và những ly đầy rượu đỏ. Rõ ràng, mục đích là có bữa tiệc nhẹ, nhưng tôi cắt ngang câu chuyện để nói tôi muốn bắt đầu cuộc phỏng vấn.
Giáp không nhìn Carmen nữa mà mặt cau có nhìn đăm đăm chiếc máy ghi âm. Võ Thị Thế nói thầm vào tai tôi ông không muốn có máy ghi âm. "Xin Tướng Giáp cho phép." tôi nói, " Tôi dùng nó cho chính xác." và ông đáp: "Ca va, alors; comme vous voulez." Nhưng với ngay từ câu hỏi đầu tiên, ông đã đổi ý, nên cuối cùng tôi phải chấp nhận không dùng đến máy ghi âm, nhưng cuộc phỏng vấn không vì thế mà thiếu phần chính xác. Huân, Hộ và tôi đều ghi lại hết thảy tất cả mọi lời ông nói. Về sau chúng tôi so sánh với nhau rất kỹ các bản chép tay của chúng tôi.
Người Mỹ bị đánh bại
"Thưa Tướng Giáp," tôi bắt đầu, "trong nhiều tác phẩm của mình, ông hỏi câu hỏi này: 'Ai sẽ là người chiến thắng cuối cùng trong cuộc chiến tranh Việt Nam?' Tôi muốn hỏi ông ngay bây giờ. Trong những tháng đầu tiên năm 1969 này, liệu ông có thể nói người Mỹ đã thua trong cuộc chiến tranh này, về quân sự họ đã thất bại chăng?"
"Chính họ công nhận như thế," ông đáp. "Bây giờ tôi sẽ chứng minh cho chị thấy rằng người Mỹ đã bị đánh bại về quân sự lẫn chính trị. Để chứng minh họ thất bại về quân sự, tôi sẽ quay trở lại việc họ thất bại về chính trị, mà đấy chính là nền tảng của tất cả mọi sự.
"Người Mỹ đã phạm sai lầm nghiêm trọng khi chọn Miền Nam Việt Nam làm bãi chiến trường. Ngụy quyền Sài Gòn quá yếu-ngay cả Taylor và McNamara và Westmoreland đều biết điều ấy. Điều họ không biết là do quá yếu nên giới chóp bu Sài Gòn không thể nào xử dụng tốt viện trợ Mỹ.
"Vì mục đích xâm lược của Mỹ ở Việt Nam là gì? Để xây dựng thuộc địa kiểu mới dựa trên ngụy quyền. Nhưng để xây dựng thuộc địa như thế, ta cần chính quyền ổn định, nhưng ngụy quyền Sài Gòn cực kỳ không ổn định. Nó không ảnh hưởng gì đối với dân chúng; nhân dân không tin tưởng nó.
"Từ đấy hãy nhìn thấy người Mỹ đang lâm vào tình thế tiến thoái lưỡng nan. Cho dù họ muốn, họ cũng không thể nào rút ra khỏi Miền Nam Việt Nam, vì để rút lui họ sẽ phải để lại sau lưng tình hình chính trị ổn định. Nghĩa là, đám tay sai sẽ thay thế họ, nhưng tay sai phải vững vàng và mạnh mẽ, Nhưng ngụy quyền Sài Gòn chẳng mạnh mẽ và cũng chẳng vững chắc. Thậm chí cũng chẳng phải là loại tay sai giỏi giang gì. Nó không thể nào đứng vững nổi ngay cả khi được xe tăng chống đỡ.
"Vậy làm sao người Mỹ có thể rút lui được? Nhưng họ phải thoát ra. Họ không thể nào duy trì 600.000 quân ở Việt Nam thêm mười hay mười lăm năm nữa. Thất bại chính trị của họ là ở chỗ đấy: bất chấp tất cả bộ máy chiến tranh của mình họ vẫn không thể nào thắng về chính trị.
Đô la Mỹ
Ông nói như thầy giáo đang cố gắng nhồi nhét bài học vào đầu óc học sinh đần độn, và ta hầu như không thể nào ngắt lời ông. Mọi thứ khiến ta nản lòng trước ý muốn ngắt lời ông: ông nói tràng giang, tay ông vung vẫy trước mặt và ông rõ ràng thích thú nghe chính mình nói. Nhưng tôi thử ngắt lời ông.
"Thưa Tướng Giáp điều ấy không có nghĩa là về quân sự họ đã thua trong chiến tranh."
"Hãy kiên nhẫn; đừng ngắt lời tôi. Tất nhiên nó có nghĩa như vậy. Nếu họ không cảm thấy bị đánh bại thì Nhà Trắng sẽ không nói về hòa bình trong danh dự.
"Nhưng ta hãy trở lại thời Geneva và chính quyền Eisenhower. Người Mỹ đã bắt đầu ở Việt Nam như thế nào? Theo cách thường lệ của họ, tức viện trợ kinh tế và quân sự cho ngụy quyền. Tóm lại bằng đô la. Vì họ nghĩ họ có thể giải quyết bất kỳ chuyện gì bằng đô la.
"Họ nghĩ họ có thể dựng nên chính quyền độc lập và tự do bằng đô la và ngụy quân được trả bằng đô la; với 30.000 'cố vấn quân sự' cũng được trả như thế, và 'những ấp chiến lược' được lập ra bằng đô la.
"Nhưng nhân dân bắt đầu tham gia vào cuộc đấu tranh, thế là kế hoạch của Mỹ sụp đổ. Ấp chiến lược, 'cố vấn quân sự', ngụy quân hết thảy đều thất bại, cho nên người Mỹ bắt buộc phải can thiệp quân sự như Đại sứ Taylor đã đề nghị. Rồi bắt đầu giai đoạn thứ hai của cuộc xâm lược, tức 'chiến tranh đặc biệt'. Với 150.000 quân và 18 tỷ đô la, họ nghĩ họ có thể kết liễu chiến tranh vào cuối năm 1965, hay muộn nhất vào năm 1966. Nhưng đến năm 1966 chiến tranh vẫn hoàn toàn chưa kết thúc: họ liền gởi qua thêm 200.000 quân, và họ bắt đầu nói về giai đoạn thứ ba, tức 'chiến tranh cục bộ', Chương trình gọng kiềm của Westmoreland: một mặt thu phục được lòng dân, và một mặt tiêu diệt phong trào giải phóng.
"Nhưng hai gọng kiềm đã không kẹp chặc lại, thế là Westmoreland thua trong chiến tranh. Ông thua với tư cách vị tướng vào năm 1967 khi ông yêu cầu tăng thêm quân và Washington công bố báo cáo lạc quan rằng năm 1968 sẽ là năm tốt đẹp cho cuộc chiến ở Việt Nam, tốt đẹp đến độ Johnson sẽ tái đắc cử. Ở Washington, Wesrmoreland được đón tiếp như anh hùng, nhưng ông ta không thể nào không biết rằng chiến tranh càng lúc càng trở nên quá tốn kém, điều này thì Taylor đã biết ngay từ đầu.
"Mỹ đã chi ở TriềuTiên hai mươi tỷ đô la, còn ở Việt Nam họ đã chi ra hơn cả trăm tỷ. Năm mươi bốn ngàn người Mỹ chết ở Triều Tiên, ở Việt Nam số người Mỹ chết còn cao hơn nhiều..."
"Thưa Tướng Giáp, người Mỹ nói chỉ ba mươi bốn ngàn người Mỹ chết."
"Hừ... tôi cho là phải nhiều gấp đôi chứ. Người Mỹ luôn luôn nói thấp hơn sự thật; lúc họ trung thực nhất, thì chết năm họ nói ba. Họ không thể nào chỉ có 34.000 người chết thôi. Chúng tôi bắn hạ hơn 3.200 máy bay của họ! Cứ năm máy bay bị bắn hạ thì họ chỉ thú nhận có một thôi đấy nhé. Trong năm năm chiến tranh này tôi cho họ đã mất ít nhất 60.000 quân, có lẽ còn nhiều hơn nữa."
"Thưa Tướng Giáp, người Mỹ nói ông mất nửa triệu quân."
"Hoàn toàn chính xác."