logo
Men for what watch? Watch, watch and call. A tool that is used for timing on breitling replica the wrist. Men wear watches what kind, starting from the basic color and size, have their own right watches, you can follow the watch's color, shape, value, occasions to carefully match their own clothing. For the choice of rolex replica a watch, the first to look at and their identity are consistent with a rural old people wear watches, a bit unrealistic, even if there is, it would have been too ostentatious. A Multi Millionaire owner, wearing a few hundred dollars of high imitation table also lost their identity, and even make friends on their own business is not good. In the formal social occasions, watches are often regarded as jewelry, for usually only ring a jewelry can be worn by rolex replica uk men is respected. Some people even stressed that: "the watch is not only a man's jewelry, but also men's most important jewelry." In western countries, watches, pens, lighters was once known as adult men "three treasures", is every man even for a moment can not be away from the body.

Chào mừng các bạn! Mong bạn Đăng nhập. Xin lỗi bạn, tạm dừng việc đăng ký mới.►Nhấn hình ảnh nhỏ sẽ hiện ảnh lớn ‹(•¿•)›

Thông báo

Icon
Error

Tùy chọn
Xem bài viết cuối Go to first unread
song  
#1 Đã gửi : 06/09/2017 lúc 08:55:21(UTC)
song

Danh hiệu: Moderate

Nhóm: Registered
Gia nhập: 21-02-2012(UTC)
Bài viết: 24,173

Cảm ơn: 1 lần
Được cảm ơn: 2 lần trong 2 bài viết
Nói đến CHUYỆN ĐỜI XƯA của Trương Vĩnh Ký (1837-1898), tôi nhớ ngay tới thời kỳ đầu học Trung học về môn Việt văn cách nay chừng nửa thế kỷ. Khi đó, những anh chị em học lớp Đệ lục (tương đương lớp 7 bây giờ) như tôi đều có học qua một số đoạn trích giảng lấy từ CHUYỆN ĐỜI XƯA, mà một số bài đáng ghi nhớ nhất đã ghi sâu vào ký ức của tuổi thanh xuân làm cho nhớ mãi tới bây giờ, như “Chàng rể bắt chước cha vợ”, “Bụng làm dạ chịu”, “Ba anh dốt làm thơ”, “Học phép hà tiện”, “Hữu dõng vô mưu”, “Làm ơn mắc oán”… Tôi đoán, muốn chê thơ ai quá dở, người ta dùng cụm từ “thơ con cóc”, có lẽ xuất phát đầu tiên là từ chuyện “Ba anh dốt làm thơ”, chứ không phải từ điển tích gì khác… 
Sở dĩ nhớ lâu, vì chuyện nào cũng ngắn gọn (chừng nửa trang giấy), đọc vô thấy đơn giản dễ hiểu mà rất dễ tức cười. Có cái cười ngặt ngoẽo bể bụng không nín được, nhưng cũng có cái cười thấm thía tế nhị, từ đó không chỉ hiểu được một cách sinh động tâm tính hồn nhiên của người Việt bình dân cách nay trên dưới một thế kỷ, mà còn rút ra được nhiều bài học và kinh nghiệm sống bổ ích. Khía cạnh bổ ích này, tác giả Nguyễn Văn Sâm đã có phân tích lược qua ở “Lời đầu sách” nên tại đây thiết tưởng không cần lặp lại thêm rườm.
            Nói là chuyện đời xưa, nhưng thật ra toàn những câu chuyện khôi hài thích hợp để đọc vui xả hơi sau ngày làm việc mệt nhọc cho cả người lớn lẫn trẻ em từ lứa tuổi biết đọc trở đi. Ngoài ra, người nào chú ý tìm hiểu/ nghiên cứu ngôn ngữ-văn chương Nam Bộ, hoặc biên soạn từ điển tiếng Việt, cũng phải cần đọc nó, vì bên trong chứa đựng rất nhiều tiếng địa phương độc đáo của miền Nam nước Việt, một thứ văn liệu quý hiếm xác thực để làm việc.   
            Duy có điều hơi khó hiểu là tại sao một cuốn sách hay ho thú vị như vậy mà đến nay rất ít khi được tái bản? Trước năm 1975, ở miền Nam, còn nhớ có một bản do nhà xuất bản Khai Trí ấn hành, ngoài bìa vẽ màu cảnh đồng quê với hình ảnh người dân quê trông rất dễ thương. Từ đó về sau không thấy nữa. Tôi có nhắc lại tên sách với vài bạn trẻ đã học qua bậc đại học nhưng hầu như không em nào biết. Gần đây, trong cuốn PETRUS KÝ NỖI OAN THẾ KỶ (Nguyễn Đình Đầu chủ biên, Tri Thức, 2016) thấy có in lại nguyên văn CHUYỆN ĐỜI XƯA gồm 74 truyện, dựa theo bản in năm 1927, với tên gọi đầy đủ mà cũng rất dễ thương theo nguyên gốc: Chuyện đời xưa lựa nhón lấy những chuyện hay và có ích.
            Nay nhà giáo-nhà nghiên cứu kỳ cựu Nguyễn Văn Sâm không chỉ cho tái bản CHUYỆN ĐỜI XƯA dựa theo bản in quý hiếm xưa cũ nhất (1914) mà còn gia công chú giải từ ngữ, giúp người đọc hiện nay dễ dàng hiểu tường tận văn bản nhờ nắm vững được những từ ngữ địa phương tuy trước đây tầm thường nhưng bây giờ đã trở nên xa lạ với không ít người, nhất là đối với giới trẻ trong cũng như ngoài nước.

            Riêng tôi lại còn tưởng tượng thêm, đồng bào nam phụ lão ấu ở hải ngoại mà có được cuốn sách này trong tay, họ sẽ quý nó như vàng. Bởi không chỉ để đọc cho vui giết thì giờ rảnh rỗi, tiếp nhận được những bài học cuộc sống không bao giờ lạc hậu, mà còn tìm thấy trong nội dung cuốn sách mỏng khiêm tốn này cái hồn của dân tộc Việt, từ đó thêm một chút tình hoài hương thắm thiết của những người xa xứ không quên quê cha đất tổ. Vì thế, tôi xin trân trọng, vừa cám ơn tác giả, vừa muốn giới thiệu CHUYỆN ĐỜI XƯA có chú giải này của nhà giáo Nguyễn Văn Sâm đến đông đảo bạn đọc.
 3.5.2017
TRẦN VĂN CHÁNH
_______________                                                                                                                
Ghi chú Văn nghệ:
 Nhà văn Nguyễn Văn Sâm sẽ ra mắt sách quyển:
Chuyện Đời Xưa của Trương Vĩnh Ký với lời chú giải:
Ngày Thứ Bảy 9 tháng 9 ở San Jose, lúc 2:00 do Văn Đàn Lạc Việt của nhà văn Chinh Nguyên (D/t 669-225-6043) tổ chức tại CLB/Mây Bốn Phương 730 South 2nd St. San Jose Ca 95112.
Ngày Chúa Nhựt  24 tháng 9 lúc 10:00 ở Nam CA tại Thư Viện Việt Nam Toàn Cầu 14550 Magnolia #205 Westminster, CA 92683, do Nha Sĩ Cao Minh Hưng (714-332-9086) và CLB Tình Nghệ Sĩ tổ chức.
 
phai  
#2 Đã gửi : 07/09/2017 lúc 09:37:46(UTC)
phai

Danh hiệu: Moderate

Nhóm: Registered
Gia nhập: 21-02-2012(UTC)
Bài viết: 13,123

Cảm ơn: 4 lần
Được cảm ơn: 3 lần trong 3 bài viết
Chuyện Đời Xưa, thể hiện sự giữ lửa của tiếng nói Miền Nam Kỳ Lục Tỉnh
 
 Quyển Chuyện Đời Xưa của Trương Vĩnh Ký là quyển sách bán chạy nhứt và đi vào lòng dân chúng nhiều nhứt trong số hàng trăm tác phẩm của nhà văn nầy. In tới lui nhiều lần, năm 1914 đã in tới ngàn thứ chín trong một quốc gia lúc đó dân số chưa đầy 15 triệu với đường xá lưu thông không thuận tiện, sách báo in ở Sàigòn lưu hành ra Trung và Bắc không phải là chuyện sanh lợi… Khi chữ quốc ngữ phát triển đã vững vàng thì quyển sách nầy lại là món hàng được các nhà xuất bản ưa chuộng. Những lần in không đề tái bản lần thứ mấy và in với số lượng bao nhiêu thì phải nói là cơ man dầu rất ít người biết.
Tại sao quyển truyện khổ nhỏ mỏng chưa tới 100 trang, nội dung thì chẳng có gì gọi là hấp dẫn lại có sức thu hút như vậy?
Chính là nhờ ông Trương khi viết đã nhằm vào hai mục tiêu căn bản rất hợp lý. Và ông đã đạt được gần như trọn vẹn điều mình đưa ra:
1. Giáo dục về luân lý. Cho người đọc thấy những bài học tốt dùng trong cách ở đời của cả nam lẫn nữ, các ứng xử phải đạo vào trạng huống cần thiết, đề phòng kẻ xấu, chớ cả tin, chớ cho rằng mình hay giỏi vì trên đời còn nhiểu kẻ giỏi hơn mình…
2. Dùng tiếng Annam (Việt Nam) ròng. Trong toàn quyển chuyện không sự kiện cố gắng làm văn chương một cách kịch cỡm, mặc dầu tô điểm văn chương không hẳn là xấu, ông chỉ sử dụng tiếng Việt thường nhựt, với những từ ngữ của giới bình dân (lo đái ra cây, tưởng đã xong đời, dồi quách, lẽo đẽo theo quấy, đút trây, trơ trơ mặt địa, đói xơ mép…). Người đọc đón nhận nồng nhiệt cũng vì lẽ đó. Nó gần gũi với người đọc trong từng câu chuyện đã đành, nó còn không cách xa về ngôn từ để kén chọn độc giả như là những tác phẩm bác học kiểu Đoạn Trường Tân Thanh, Chinh Phụ Ngâm, Cung Oán Ngâm Khúc, Tần Cung Nữ Oán Bái Công, Lưu Nữ Tướng, Dương Từ Hà Mậu, Kim Thạch Kỳ Duyên, Lôi Phong Tháp, Tây Du Diễn Truyện…. Nó cũng dễ bắt ta tiếp tục đọc cho tới hết quyển, trái với những tác phẩm lớp trung lưu mà những nhà làm văn học sử gọi là tác phẩm bình dân như Trần Đại Lang, Trinh Thử, Trê Cóc, Thoại Khanh Châu Tuấn, Lý Công, Nữ Tú Tài, Nhị Độ Mai, Phan Trần…
Đó là nói về lời văn. Ở mặt sự kiện trong truyện, tác giả còn khéo léo cho thấy sinh hoạt của dân chúng, hầu hết là vào đầu thế kỷ 19, nên đây là nguồn tư liệu dồi dào về những chi tiết của cuộc sống dân ta mà gần như ngày nay không thể  thấy được, không thể hiểu được cho tường tận do sự thay đổi của xã hội (ăn ong, ăn bánh lớ, cái chày mổ, đèn ló của ăn trộm, mõ ống, sư làm đám, hầm bắt cọp, bắt chồn, tục mai dong, tục ở rể, thách cưới, ăn chè trưa, thầy pháp trừ tà, ăn cướp trên sông …).
Sách viết hơn trăm năm trước, bằng tiếng dùng hằng ngày của dân miền cực Nam nên chắc chắn là khó hiểu với phần đông người đọc hiện giờ. Sự giải thích những từ nầy là cần thiết nên quyển sách Chuyện Đời Xưa của Trương Vĩnh Ký: Người giữ lửa cho tiếng nói miền Nam có lý do để ra đời. Bản đánh máy được cẩn thận dò theo bản in năm 1914 được phóng lớn để tránh sơ sót và có thể đính chánh một vài trường hợp in sai của bản in 1914.
Trong sự chú giải chúng tôi chú trọng trên những từ địa phương Miền Nam vốn càng ngày càng xa lạ với người Trung, Bắc. Những cách nói địa phương của thời tác phẩm xuất hiện (1873) cũng được lý giải, nếu bỏ qua người đọc sẽ khó hiểu. Một vài cách nói nay đã thay đổi, những trường hợp chữ dùng nay đã biến mất chúng tôi cũng ghi nhận mặc dầu có vẻ như hơi xa mục đích của sự chú giải một bản văn.
Về phần nội dung thì đại khái nhân vật được nói đến gồm hai loại, Người và thú vật.
Chuyện thú vật tương đối ít, chỉ có 13 chuyện trên tổng số 74 như: Con chồn với con cọp-c1, Con cóc tía với con cọp và con khỉ-c3, Cọp bị đá-c25, Cọp mắc đuôi trong buội dừa nước-c26, Ăn trộn và Cọp rình nhà-c27, Con chó và con gà-c31, Cọp mắc bẫy không ai thèm cứu-c53, Ruồi, muỗi chim sắc với con rùa-c54, Con cóc với chuột-c55, Hữu dõng vô mưu-c56, Mưu trí hơn là sức mạnh-c62, Con thỏ gạt con cù-c65, Cọp mắc mưu thỏ-c66, Chó sói và chồn-c71.
Với tỷ số 13/74 truyện loài vật, quá ít so với truyện con người nên ông Trương Vĩnh Ký có lý khi đặt tên quyển sách của mình là Chuyện Đời Xưa mà không phải là Chuyện Ngụ Ngôn. Nhìn chung hầu hết là chuyện về con cọp, với chuyện con cù phụ thêm: mạnh nhưng không khôn, thường bị chúng gạt đẩy vô thế phải gánh nạn cũng như bị lợi dụng. Chắc chắn rằng ông Trương có dụng ý gì đó - Dụng ý kiểu nầy ta còn thấy trong Bài Hịch Con Quạ. Xem Bài Hịch Con Quạ, Giải thích và chú giải, Nguyễn Văn Sâm -.ngoài sự dạy khôn người đời, chẳng hạn như sức mạnh của thực dân Pháp không lợi hại bằng trí khôn của chồn, của thỏ, của người nông phu tượng trưng cho dân Việt. Điều nầy có thể tin được nếu ta để ý đến nhiều yếu tố khác ngoài đời của tác giả. Chúng ta phải ghi nhận rằng Trương Vĩnh Ký không có chức quyền gì trong hệ thống hành chánh của Pháp ngoài những vai trò liên quan đến giáo dục, không vô Pháp tịch để được ưu đãi, hay hành động can trường của ông khi cho đăng bài Vè Nằm Dỏ trên tạp chí Miscellannées số 4 năm 1889 có những câu rất chống Pháp:
Từ ngày có giặc Lang Sa, Muôn dân thiên hạ nhà nhà đảo điên. Dân tình ai nấy ưu phiền, Sưu cao thuế nặng quan truyền vô đây. Ngày thì bồi lội đông tây, Tối thì ra dỏ, roi dây hẳn hòi…
Truyện loài vật chiếm 13, nhưng chuyện cọp gần cả chục, lý do vì thời Trương Vĩnh Ký cọp quá nhiều ở Đồng Nai và vùng lân cận, sách Đại Nam Nhứt Thống Chí, Lục Tỉnh Nam Việt biên thuật trước đó vài chục năm ghi nhận nhiều chuyện cọp về tới sát nách chỗ dân cư.
Chuyện về người tương đối nhiều 61/74 kể đủ thứ: Người khờ khạo, người ‘đi bạn’ khùng, anh sợ vợ, tên nói láo gạt người, gã hà tiện tới chết không chừa, kẻ ba xạo để kiếm chút cơm, người tham ăn với con với dâu với vợ, ông thầy dốt chữ tham ăn, ông thầy pháp sợ ma, quan lại ăn hối lộ bị nói xâm chưởi xéo, con gái ham chồng làm quan lớn…. Đủ hết bức tranh xã hội về mặt tiêu cực của mọi thời. Chọn mặt tiêu cực nhiều vì như ông đã nói trong phần Ý Sách Chuyện Đời Xưa: ‘… ta bày ra để mà khen sự tốt, chê sự xấu cho người ta sửa cách ăn nết ở cho tử tế.’
Đây không phải là Chuyện Giải Buồn, cũng không phải là Chuyện Tiếu Lâm, đây là những chuyện có tính cách luân lý, khác với những chuyện của Thọ An Phạm Duy Tốn (Tiếu Lâm An Nam, Ích Ký, Hanoi, 1924) khác xa với những chuyện của Trần Phong Sắc và Huỳnh Khắc Thuận (Tân Tiếu Lâm, J. Viet, Saigon, 1918).
Tiện đây cũng xin chép lại phần quan trọng trong lời tựa quyển sách của Trần Phong Sắc: ‘Phàm chuyện Tiếu lâm, Khôi hài, là chê sự xấu, biếm kẻ lỗi, làm cho người có tịch ấy biết mất cở mà sửa mình, chớ không phải coi cho nực cười mà thôi. Bởi cớ ấy, nên các nước đều có sách Tiếu lâm, chuyện Khôi hài. Một là sửa phong tục hai là giúp sự vui cho mấy vị trưởng lão, có tuổi tác không đi chơi bời đặng thì nghe con cháu đọc chuyện ấy mà cười cho vui.’
Trương Vĩnh Ký chỉ chú ý đến mặt luân lý sửa đời, Phạm Duy Tốn cũng như Trần Phong Sắc thêm yếu tố làm cho người ta nực cười nên sự châm chọc mạnh bạo hơn, tính chất dung tục nhiều khi cũng đậm đà trong khi đó sự châm chọc bao biếm ở Trương Vĩnh Ký nhẹ nhàng và yếu tố tục không có….
Bản in nầy cũng nhằm đáp ứng lời yêu cầu của một vài cựu học sinh trường Petrus Ký khi họ tỏ ra tiếc rằng mình không hiểu nhiều chỗ khi đọc quyển Chuyện Đời Xưa hay thậm chí không tìm thấy quyển sách quí nầy để đọc.
Nhân kỳ in nầy chúng tôi cũng xin cúi đầu tạ ơn nhà văn hóa Vương Hồng Sển, vị thầy cũ của tôi ở trường Đại Học Văn Khoa Sàigòn ngày trước, nhờ ông trân trọng giữ gìn bản in quí năm 1914 nên chúng tôi mới có cơ hội sửa đúng lại theo nguyên văn một bản tương đối là xưa cũ, mặc dầu Trương Vĩnh Ký xuất bản quyển Chuyện Đời Xưa nầy trước đó cũng mấy mươi năm  (1873).

 Victorville, CA, tháng 11, 2016
Nguyễn Văn Sâm
Nguyên Giảng Sư trường Đại Học Văn Khoa Sàigòn trước năm 1975.
_____________ 
Ghi chú Văn nghệ:
Nhà văn Nguyễn Văn Sâm sẽ ra mắt sách quyển:
Chuyện Đời Xưa của Trương Vĩnh Ký với lời chú giải:
Ngày Thứ Bảy 9 tháng 9 ở San Jose, lúc 2:00 do Văn Đàn Lạc Việt của nhà văn Chinh Nguyên (D/t 669-225-6043) tổ chức tại CLB/Mây Bốn Phương 730 South 2nd St. San Jose Ca 95112.
Ngày Chúa Nhựt 24 tháng 9 lúc 10:00 ở Nam CA tại Thư Viện Việt Nam Toàn Cầu 14550 Magnolia #205 Westminster, CA 92683, do Nha Sĩ Cao Minh Hưng (714-332-9086) và CLB Tình Nghệ Sĩ tổ chức.
xuong  
#3 Đã gửi : 08/09/2017 lúc 09:02:15(UTC)
xuong

Danh hiệu: Moderate

Nhóm: Registered
Gia nhập: 21-02-2012(UTC)
Bài viết: 8,813

Cảm ơn: 1 lần
Được cảm ơn: 3 lần trong 3 bài viết
Đọc “Chuyện Đời Xưa” của Trương Vĩnh Ký
  
Nghĩ gì về Chuyện Đời Xưa của Trương Vĩnh Ký? Trước tiên là “chuyện” và “truyện”… Tôi nghĩ, khi tác giả Trương Vĩnh Ký đặt nhan đề sách là “Chuyện Đời Xưa,” có lẽ muốn nói rằng đây là chuyện kể, xuất sinh từ văn học truyền khẩu, khác với chữ “truyện” là một tác phẩm văn học có kết cấu, bố cục, nhiều nhân vật trải qua một số diễn tiến. Tự cách đặt tựa, tác giả đã xác minh một thể văn riêng cho cách viết.
Thêm nữa, thời của cụ Trương trước đó đã có những tác phẩm dài, kết cấu phức tạp, như “Truyện Kiều” hay ngay như Nam Kỳ Lục Tỉnh đã có tác phẩm “Lục Vân Tiên,” và mở đầu một bản chữ Nôm Lục Vân Tiên viết tay đã có dòng chữ: “Lục Vân Tiên truyện, Ất Sửu niên Pháp Quang hòa thượng bút đề.” Nghĩa là, Trương Vĩnh Ký lựa chọn cách viết khác hơn. Hoàn toàn khác nếp xưa: đó là một dấu mốc văn học.
Tại sao Trương Vĩnh Ký lựa chọn thể văn viết như nói? Để gần với đời thường? Hay vì là chuyện kể cho nên phải ngắn?
Có lẽ, để phục vụ cho nghề báo lúc đó, và như thế nghĩa là, phục vụ nhu cầu đọc của độc giả lúc đó.
Theo tiểu sử trên Wikipedia, ông mưu sinh trải qua nhiều nghề bận rộn: thông ngôn, giáo sư ngôn ngữ, Tổng biên tập Gia Định Báo, tri huyện, Đốc học (Giám đốc) trường Sư phạm, Ủy viên Hội đồng cai trị Sài Gòn, Cơ Mật Viện Tham Tá, Thị giảng học sĩ, từng được chính phủ Pháp ban tặng huy chương Đệ Ngũ Đẳng Bắc Đẩu Bội Tinh. Có lúc, lương của Trương Vĩnh Ký đứng cao hàng thứ ba toàn quốc, chỉ sau hai viên chức cao cấp nhất người Pháp. Nghĩa là rất bận rộn. Cùng lúc, ông để lại hơn 100 tác phẩm về văn học, lịch sử, địa lý, từ điển và dịch thuật,...
Như thế, chúng ta có thể hiểu được, tác phẩm "Chuyện Đời Xưa" cần viết ngắn, gọn, nhanh… Không thể viết công phu như kiểu “Truyện Kiều” của cụ Nguyễn Du, hay “Cô Gái Đồ Long” của Kim Dung.
Nhưng ưu thắng là, cách viết của Trương Vĩnh Ký phù hợp với cả hoàn cảnh xã hội lúc đó: nền văn học chữ Nôm đang lụi tàn, trước đà trổi dậy nền văn học chữ quốc ngữ, tức là vần abc. Nhà bác học họ Trương đã chọn cách đơn giản là kể chuyện đời xưa.
Tại sao kể chuyện?
Câu trả lời dễ hiểu: bởi vì ông đã có nhiều tác phẩm biên khảo, và kể chuyện đời xưa là để tiếp cận một lĩnh vực văn học khác, thích nghi với quần chúng hơn. Hãy hình dung rằng, lúc đó không có bao nhiêu người biết chữ tại Nam Kỳ Lục Tỉnh. Và trong những người biết chữ, cũng không bao nhiêu người uyên bác.
Thêm nữa, có thể tin rằng Trương Vĩnh Ký ưa thích các chuyện kể này, và ông muốn viết ra cho các kỳ báo in. Nghĩa là, các chuỵện kể này gần gũi tới mức, như là chuyện của ông bà kể lại cho con cháu, hay của bạn bè kể cho nhau khi uống trà, khi đánh cờ… Đó là những chuyện kể từ đời này sang đời kia, từ thế hệ này sang thế hệ kia… trước tiên là mang tính giải trí, sau nữa là ẩn kín những hồn dân tộc trong đó. Vì nếu truyện không hay, sẽ bị loại bỏ ở một thế hệ nào đó. Và chuyện kể lúc nào cũng một cách tự nhiên ẩn kín những mảng hồn dân tộc.
Thời này của chúng ta khác thời của tác giả Trương Vĩnh Ký. Và không thể lấy cái nhìn bây giờ để xét thời ngày xưa. Truyện kể của chúng ta cũng phức tạp hơn, không chỉ là ngôn ngữ truyện, mà còn là phim, là kịch, là bản tin, cả tin thật và tin giả…
Chúng ta cũng ưa phản ứng theo thành kiến: thí dụ khi đọc bản tin gửi qua email về Tổng Thống Donald Trump hay tin về bà Hillary Clinton, sẽ có phân nửa người tin và phân nửa người chống. Nếu chúng ta đọc thấy chuyện con cáo hay con cọp, hay anh nói láo, sẽ suy diễn là ám chỉ người này hay người kia.
Nhưng thời cụ Trương Vĩnh Ký, chuyện chỉ là chuyện, không ai suy diễn nhiều hơn. Lúc đó, nghệ thuật kể truyện của dân tộc Việt Nam đã tới mức phức tạp, có đầy đủ sức quyến rũ của sự gay cấn và thơ mộng. Thí dụ, truyện về 18 đời Hùng Vương, truyện về mối tình Âu Cơ và Lạc Long Quân, truyện về An Tiêm, truyện về Trọng Thủy và nàng Mỵ Châu, và vân vân.
Trong khi đó, người Miền Nam có tâm hồn đơn sơ, tiếng quốc ngữ còn sơ khai, và lựa chọn thể văn để viết cuốn “Chuyện Đời Xưa” là thích nghi. Nhưng trước tiên, có thể thấy Trương Vĩnh Ký viết vì ưa thích, cho nên ông viết lại chuyện về Cống Quỳnh, tức là chuyện gần như ai cũng từng nghe kể. Và trong khi nhiều chuyện kể lại trong “Chuyện Đời Xưa” chỉ ngắn có nửa trang, chuyện về Cống Quỳnh dài tới gần 10 trang.
Nghĩa là, Trương Vĩnh Ký viết tác phẩm này lấy vui là chính, lấy sự ưa thích làm ưu tiên, sau mới tới tính cách luân lý, răn đời.
Mỗi tác giả, khi kể truyện đều mang theo một bầu không khí văn học và xã hội.

Khi chúng ta đọc Truyện Ngàn Lẻ Một Đêm, cả một thế giới Ả Rập cổ hiện ra trước mắt chúng ta, từ những tên cướp phóng ngựa nơi sa mạc, tới các điệu múa cung đình của các cung nữ Ba Tư… Những chiếc thảm bay hay cái đèn thần đã hiển lộ giấc mơ của người thời xưa muốn vượt các giới hạn vật lý trong cõi người.
Khi chúng ta đọc truyện cổ tích thời Hùng Vương, hình ảnh núi rừng sông biển được hình tượng hóa thành các vị thần để giải thích các hiện tượng khí hậu, hay cây tre trăm đốt để nói lên ước mơ siêu vượt, hay như bánh chưng để nói về một triết lý nhân sinh…
Trong tác phẩm “Chuyện Đời Xưa” không có nhiều phức tạp, và khi được viết bởi một học giả phức tạp như Trương Vĩnh Ký, các truyện như dường chỉ phục vụ mục tiêu ngắn hạn lúc đó: để làm đầy các trang báo… và rồi nhiều thời gian sau, được gom lại để in thành sách.
Nghĩa là, trong khi chúng ta hình dung được một ông Nguyễn Du ngồi viết trong nhiều năm, rồi mới ấn hành Truyện Kiều… chúng ta dễ dàng hình dung về một ông Trương Vĩnh Ký mỗi kỳ báo viết một bài, hay hai bài, để rồi lâu về sau sẽ gom vào, in thành sách. Nhưng như thế, “Chuyện Đời Xưa” mới đa dạng. Có thể là, lúc nhớ ra chuyện này, chuyện kia thì viết.
Đó cũng là điểm khác biệt với hầu hết người đương thời. Các cụ thời đó, thường chỉ làm thơ. Lúc đó là tiện, vì thơ 4 câu, thơ 8 câu… Nhưng Trương Vĩnh Ký thay vì làm thơ, đã viết chuyện đời xưa, một kiểu đứng riêng một cõi.
Một điểm xuyên suốt và nổi bật là: văn viết bằng chữ quốc ngữ, ghi lại tiếng nói người Miền Nam. Và rất hấp dẫn, rất khác lạ. Nói theo kiểu văn học bây giờ, đó là cách tân nghệ thuật. Và cũng là điểm thành công của tác giả, vì quyển Chuyện Đời Xưa của Trương Vĩnh Ký là quyển sách bán chạy nhứt của nhà văn nầy. Sách in nhiều lần, năm 1914 đã in tới ngàn thứ chín.
GS Nguyễn Văn Sâm ghi rằng, “Những lần in không đề tái bản lần thứ mấy và in bao nhiêu thì phải nói là cơ man.”
Nghĩa là, đây là một cuộc bỏ phiếu cho chữ quốc ngữ. Khi bỏ tiền ra mua sách này, nghĩa là chấp nhận rằng nền kinh tế thị trường đã chọn ngòi bút Trương Vĩnh Ký, và một cách lặng lẽ, độc giả Miền Nam đẩy dần văn học chữ Nôm vào quá khứ.
Văn học chữ Nôm đã hệt như hình ảnh chiếc xe thổ mộ, những con ngựa lọc cọc kéo cỗ xe trên các đường lộ Sài Gòn biến mất dần, để xe đạp và xe gắn máy xuất hiện.
Như thế, Chuyện Đời Xưa của Trương Vĩnh Ký giúp khởi đầu cho một nền văn học chữ quốc ngữ. Và riêng tác phẩm này, ngoài giá trị lịch sử, xã hội, còn có một vị trí văn học lớn, như là dấu mốc để dòng văn học Việt Nam chuyển mình.
Có thể Trương Vĩnh Ký không ngờ tới ảnh hưởng của cuốn “Chuyện Đời Xưa”… trong khi không có bao nhiêu độc giả nhớ tới 99 tác phẩm khác của ông. Dòng chảy văn học dân tộc đã cuốn trôi 99 tác phẩm kia của ông, trong khi cuốn “Chuyện Đời Xưa” đã trở thành một tượng đài văn học, bất kể những sơ khai và vội vã trong nghề làm báo lúc đó.

Phan Tấn Hải
__________
Ghi chú Văn nghệ:
Nhà văn Nguyễn Văn Sâm sẽ ra mắt sách quyển:
Chuyện Đời Xưa của Trương Vĩnh Ký với lời chú giải:
- Ngày Thứ Bảy 9 tháng 9 ở San Jose, lúc 2:00 do Văn Đàn Lạc Việt của nhà văn Chinh Nguyên (D/t 669-225-6043) tổ chức tại CLB/Mây Bốn Phương 730 South 2nd St. San Jose Ca 95112.
- Ngày Chúa Nhựt 24 tháng 9 lúc 10:00 ở Nam CA tại Thư Viện Việt Nam Toàn Cầu 14550 Magnolia #205 Westminster, CA 92683, do Nha Sĩ Cao Minh Hưng (714-332-9086) và CLB Tình Nghệ Sĩ tổ chức.

Sửa bởi người viết 08/09/2017 lúc 09:04:28(UTC)  | Lý do: Chưa rõ

Ai đang xem chủ đề này?
Guest
Di chuyển  
Bạn không thể tạo chủ đề mới trong diễn đàn này.
Bạn không thể trả lời chủ đề trong diễn đàn này.
Bạn không thể xóa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể sửa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể tạo bình chọn trong diễn đàn này.
Bạn không thể bỏ phiếu bình chọn trong diễn đàn này.

Powered by YAF.NET | YAF.NET © 2003-2024, Yet Another Forum.NET
Thời gian xử lý trang này hết 0.133 giây.