logo
Men for what watch? Watch, watch and call. A tool that is used for timing on breitling replica the wrist. Men wear watches what kind, starting from the basic color and size, have their own right watches, you can follow the watch's color, shape, value, occasions to carefully match their own clothing. For the choice of rolex replica a watch, the first to look at and their identity are consistent with a rural old people wear watches, a bit unrealistic, even if there is, it would have been too ostentatious. A Multi Millionaire owner, wearing a few hundred dollars of high imitation table also lost their identity, and even make friends on their own business is not good. In the formal social occasions, watches are often regarded as jewelry, for usually only ring a jewelry can be worn by rolex replica uk men is respected. Some people even stressed that: "the watch is not only a man's jewelry, but also men's most important jewelry." In western countries, watches, pens, lighters was once known as adult men "three treasures", is every man even for a moment can not be away from the body.

Chào mừng các bạn! Mong bạn Đăng nhập. Xin lỗi bạn, tạm dừng việc đăng ký mới.►Nhấn hình ảnh nhỏ sẽ hiện ảnh lớn ‹(•¿•)›

Thông báo

Icon
Error

Tùy chọn
Xem bài viết cuối Go to first unread
song  
#1 Đã gửi : 20/01/2018 lúc 09:30:35(UTC)
song

Danh hiệu: Moderate

Nhóm: Registered
Gia nhập: 21-02-2012(UTC)
Bài viết: 24,685

Cảm ơn: 1 lần
Được cảm ơn: 2 lần trong 2 bài viết
Chuyện đại học Việt Nam lạm phát và yếu kém, tiến sĩ dỏm, tiến sĩ giả là đề tài mà mọi người từ dân đến quan đều biết, bị bêu rếu từ hàng chục năm nay. Nhưng gần đây, chuyện mấy ông bà tiến sĩ bỗng dưng nổi đình nổi đám khi ông tiến sĩ Bùi Hiền đề nghị sửa đổi tiếng Việt, phá hủy kho tàng ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam đã kết tụ từ mấy thế kỷ qua, sự việc đã dấy lên một làn sóng căm phẫn và nhục mạ giới tiến sĩ vừa ngu vừa điên, chưa kể luận cứ cho rằng loại tiến sĩ như Bùi Hiền chỉ là bọn thả bong bóng cho Trung Quốc trong sách lược Hán hóa tiếng Việt.


Trong bối cảnh của một cuộc phản đối tập thể như vậy, giới tiến sĩ Việt Nam bị đem lên giàn hỏa và nhiều nguồn tin, đúng và sai, nhiều lời nhục mạ, thanh và tục, tràn ngập trên các diễn đàn. Trước đây, chúng tôi có viết hai bài nhận định về giáo dục và đại học Việt Nam và tuy 10 năm đã qua rồi, giáo dục và đại học VN vẫn cứ trì trệ, chẳng những không cải thiện để đáp ứng nhu cầu của một quốc gia tự nhận là "tiên tiến" biểu hiện bởi các đầu tư của ngoại quốc với các tòa nhà chọc trời, các phố thị "hoành tráng", mà trái lại còn phát sinh thêm nhiều điều quái gở chẳng giống ai. Bài viết nầy cập nhật hóa và bổ túc cho hai bài trước.

Đại học lạm phát

Trên thế giới, không một quốc gia nào có số đại học mới thành lập chiếm kỷ lục trong một thời gian rất ngắn như ở Việt Nam. Năm 1997, VN có 123 trường đại học và cao đẳng, năm 2005, con số nầy tăng lên 276 và đến năm 2015 tăng lên đến 442 trường. Chỉ trong 18 năm (1997-2015), VN tăng thêm 319 cơ sở giáo dục và nghiên cứu đại học, chiếm tỷ lệ 260%. Gần đây nhứt, chỉ một năm, từ 2015 đến 2016, có thêm 12 đại học trong đó có đến 5 đại học tư thục. Ngoài con số thống kê chính thức của Bộ Giáo Dục Đào Tạo (GDĐT) như trên, còn phải kể thêm các học viện, các trường cao đẳng quốc phòng, cao đẳng công an, cao đẳng nghề trung cấp, tổng cộng các cơ sở đại học và cao đẳng vào năm 2016-2017 lên đến khoảng 641 trường (theo Wikipedia).

UserPostedImage


* Chú thích: Năm 2016-17, không có số thống kê trường cao đẳng. Con số 641 đếm theo danh sách các trường cao đẳng đăng trong Wikipedia


Nguồn:
- Moet.gouv.vn. Số liệu chung về đại học, cao đẳng
- Dossier du Campus-France, no 36, Avril 2017 


Ngày 7/6/2010, Bộ Trưởng GDĐT Nguyễn Thiện Nhân phát biểu trước Quốc Hội là trong số 270 trường mới thành lập, thực sự chỉ có 94 trường tân lập hoàn toàn, số còn lại là trường nâng cấp từ trường thấp hơn (trung cấp, cao đẳng, học viện trở thành đại học). Một vài thí dụ trong số hàng trăm "đại học nâng cấp", một sáng kiến ưu việt của các đỉnh cao trí tuệ bộ Giáo Dục: 


- Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội (ghi rõ: kiểm sát) trực thuộc Viện Kiểm Sát, nguyên là trường trung cấp đào tạo nhân viên cho Viện Kiểm sát nhân dân (1970) được nâng lên là Cao Đẳng (1982) rồi Đại học (2005). 


- Trường Đại học Nội Vụ Hà Nội trực thuộc Bộ Nội Vụ gốc là Trường Trung học Văn Thư Lưu Trữ Trung Ương (1971) được nâng cấp là trường Cao đẳng Văn Thư Lưu Trữ (2005) rồi Đại Học Nội Vụ (2011). 


- Trường Đại học Sao Đỏ, trực thuộc Bộ Công Thương, nâng cấp từ Trường Cao đẳng Công Nghiệp Sao Đỏ ở thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương. 


- Trường Đại học Việt-Hung: gốc là Trường Trung học hữu nghị Việt - Hung (Hung Gia Lợi) được nâng cấp thành Cao Đẳng Việt-Hung (2005) rồi Đại học Việt Hung (2010). 


Và cứ tiếp tục truy tìm lịch sử các trường Cao đẳng, Đại học, người đọc sẽ thấy Việt Nam hôm nay có khoảng 300 đại học nâng cấp kiểu nầy, và dĩ nhiên khi trường được nâng cấp, giáo sư cũng được nâng cấp theo học tại chức để có bằng Thạc Sĩ, Tiến Sĩ. Đó là một trong số những nguyên nhân khiến bằng tiến sĩ Việt Nam rẻ như bèo và sinh viên tốt nghiệp thiếu khả năng.


Một cách chi tiết, các cơ sở giáo dục đại học, cao đẳng niên khoá 2016-17 được phân chia như sau:


Trường Công lập: tổng cộng 550 


- Đại học và Học viện trực thuộc Bộ Giáo Dục Đào Tạo và/hay các Bộ, Ngành đào tạo, các tổ chức, đoàn thể gồm: 


+ 2 đại học quốc gia là Đại học Quốc Gia Hà Nội và ĐHQG Thành phố HCM, trực thuộc Bộ Giáo Dục Đào Tạo. 


+ 103 đại học, 29 học viện thực thuộc Bộ GDĐT hay các Bộ, Ngành chuyên môn, tổ chức, đoàn thể (tổng cộng: 132). 


Ngoài những đại học trực thuộc các Bô chuyên môn, VN còn có các đại học trực thuộc đoàn thể như Đại học Công Đoàn trực thuộc Bộ GDĐT và Tổng Liên Đoàn Lao Động VN. 


- Đại học và Trường đại học cấp vùng trực thuộc Bộ GDĐT và các Ủy Ban Nhân Dân tỉnh, thành phố nơi đặt trụ sở của trường. Có 8 đại học và trường đại học cấp vùng (ĐH Đông Bắc, Thái Nguyên, Vinh, Huế, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Tây Nguyên, Cần Thơ). 


- Đại học và trường Cao Đẳng, Học Viện Quân sự: 27, trực thuộc Bộ GDĐT và Bộ Quốc Phòng. 


- Đại học và trường Cao Đẳng, Công An: 11, trực thuộc Bộ Công An. 


- Đại học địa phương: 28, trực thuộc Ủy Ban Nhân Dân tỉnh, thành phố, thị xã. 


- Đại học, Dự Bị đại học Dân tộc: 4, dành cho người thiểu số. 


- Cao đẳng chuyên nghiệp: trực thuộc Bộ GDĐT, và/hay Bộ, Ủy Ban Nhân Dân các tỉnh, thành phố 


+ Trung Du và Miền Núi phía Bắc: 38 
+ Đồng bằng Sông Hồng: 49 
+ Bắc Trung Bộ: 15 
+ Duyên hải Nam Trung Bộ: 20 
+ Tây Nguyên: 10 
+ Đông Nam Bộ: 27 
+ Đồng Bằng Sông Cửu Long: 27 


Tổng cộng: 186 


- Cao đẳng Nghề (Cao đẳng Thực hành): trực thuộc Bộ, Ngành, Ủy Ban Nhân Dân 


+ Khu vực Hà Nội: 26 
+ Khu vực TPHCM : 14 
+ Khu vực phía Bắc (từ Hà Tỉnh trở ra): 76 
+ Khu vực phía Nam (từ Quảng Bình trở vào): 64 


Tổng cộng: 180

Trường Tư thục: tổng cộng 105


Từ sau khi có chánh sách mở cửa đầu thập niên 1990, các đại học tư thục (trước năm 2006 gọi là đại học dân lập) mọc lên nhanh chóng. Cho đến năm 2016-17, VN có 65 đại học và 40 trường cao đẳng tư thục. Thông thường, thành lập một đại học là một biến cố giáo dục quan trọng, đem lại niềm tự hào cho một quốc gia, nhưng với VN, mở thêm một đại học là xuất hiện thêm một tập đoàn kinh doanh, mở rộng thêm một vết rạn nứt của ngôi nhà đại học cổ lỗ rêu phong và đến nay ngôi nhà đã đến hồi sụp đổ. Tại nhiều quốc gia, các đại học thường là những tổ chức phi lợi nhuận, nhưng tại VN, lập một đại học là lập một công ty dùng giáo dục hỗ trợ cho công việc làm ăn...


Điển hình như bài giới thiệu Trường Đại học Tư Thục Quốc Tế Hồng Bàng đăng trên trang mạng của trường như sau: "Đại Học Quốc Tế HỒNG BÀNG (tên gọi tắt HIU) là trường đại học đào tạo đa ngành nghề với hơn 40 hướng chuyên sâu trong hầu hết các lĩnh vực quan trọng có nhu cầu xã hội cao. Tập đoàn Nguyễn Hoàng (NHG) là chủ đầu tư của trường ĐHQT Hồng Bàng. NHG sở hữu hệ thống giáo dục khép kín từ bậc Mầm non đến Tiến sĩ với các cơ sở trải dài rộng khắp trên lãnh thổ Việt Nam. Bên cạnh lĩnh vực đầu tư mũi nhọn là Giáo dục-Đào tạo, NHG cũng là chủ đầu tư các hệ thống Nhà hàng – Khách sạn, Bất động sản…". Bởi lẽ là một cơ sở tìm lợi nhuận, tiền học phí cứ gia tăng, thiếu cơ sở và phương tiện sư phạm, giảng viên thiếu khả năng, đại học tư thục là một thứ chợ trời. Tham nhũng và bè phái, bản chất căn bản của chế độ là nguyên nhân chính yếu của nạn lạm phát và đại học yếu kém. 


Trong bối cảnh lạc hậu và bát nháo của giáo dục đại học như vậy, du học là giấc mơ cho các sinh viên Việt Nam để hi vọng đổi đời. Đối với đám con ông cháu cha và con cháu các đại gia làm ăn với chế độ, họ mong đạt được một cấp bằng hay một chứng chỉ của bất cứ một đại học nào tại bất cứ một quốc gia nào ngoài VN để hợp thức hóa các ngôi vị của cha ông truyền lại. Đối với các sinh viên trung lưu không thân thế mong được du học để trở về tìm được một chỗ làm tốt trong các xí nghiệp ngoại quốc hay may mắn hơn thoát được vĩnh viễn cái quốc gia ngự trị bởi một chế độ độc tài. Người ít khá giả hơn, vì không có phương tiện du học đành tìm lối thoát bằng cách du học tại chỗ trong các trường đại học tư thục ngoại quốc tại Việt Nam, hoặc do ngoại quốc đầu tư vốn 100%, hoặc do ngoại quốc hợp tác về tài chánh và đào tạo với chánh phủ Việt Nam. 


Hiện nay, tại VN có ít nhứt 5 trường đại học và cao đẳng ngoại quốc: trường RMIT /Royal Melbourne Institute of Technology (Úc), trường Cao đẳng quốc tế Kent / Kent International College (Úc), Đại học Mỹ tại VN / American University in Vietnam, Đại học Y Khoa Tokyo, và Đại học Fulbright tại VN /Fulbright University in Vietnam. Ngoài ra còn có một số đai học hỗn hợp VN và ngoại quốc như Đại học Việt-Đức (Vietnamese-German University), Đại học Việt-Nhật (Vietnamese-Japan University), Đại học Việt-Pháp (tên gọi của Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội, University of Science and Technology Hanoi USTH) là những đại học công lập trực thuộc Bộ Giáo Dục Đào Tạo nhưng ban giám đốc hỗn hợp, ban giảng huấn là người ngoại quốc và ngôn ngữ giảng dạy là tiếng Anh. 


Mặc dù ra rả chửi đế quốc tư bản, nhưng Cộng sản rất "háo" tư bản. Có khoảng 20 trường đại học và cao đẳng tư thục gắn thêm trong bảng hiệu chữ quốc tế (như Đại học quốc tế Hồng Bàng) hay một địa danh ngoại quốc (như Cao đẳng Y-Dược ASEAN…). Đa số các trường nầy được xem trong số các đại học "ăn khách" ở Việt Nam và cấp bằng của các trường nầy là một bảo đảm, thực và hư, cho giới trẻ. Dĩ nhiên, học phí (và chi phí linh tinh) các loại trường nầy vượt khỏi khả năng của giới không quyền thế: từ 2000 đến 20 000 mỹ kim một năm, trong khi học phí các đại học, cao đẳng loại nâng cấp khoảng trên dưới 2000 MK, tương đương với lương đồng niên của một công nhân. Tốt nghiệp các trường nâng cấp nầy thì may lắm mới tìm được một việc làm của một cổ xanh. Thì ra trong thiên đường cộng sản, sau 70 năm, con quan thì lại làm quan, con sãi ở chùa thì vẫn quét lá đa.


Trái với đa số các đại học tư thục Việt Nam yếu kém vì chạy theo lợi nhuận, đa số các quốc gia Á Châu có một lịch sử lâu dài phát triển hệ thống đại học tư thục do các giới kỹ nghệ và hiệp hội phi lợi nhuận tài trợ cùng với sự đóng góp của nhân dân qua học phí. Với chánh sách nầy, các đại học tư thục đã phát triển theo nhu cầu phát triển kinh tế quốc gia, chính phủ dùng ngân quỹ công tài trợ cho giáo dục trung tiểu học miễn phí và những người tốt nghiệp đại học tiếp tục đóng góp cho các đại học mà họ đã tùng học. Tinh thần yêu nước của toàn dân và chánh phủ đã giúp nền giáo dục công và tư các nước nầy phát triển hài hòa với sự phát triển toàn diện của quốc gia. Với một quốc gia mà tham nhũng và bốc hốt ngân sách công và tư như Việt Nam, giáo dục từ tiểu học đến đại học mỗi ngày mỗi thêm lụn bại.


UserPostedImage
Nguồn: Unesco. Institute for Statistics. Higher Education in Asia, 2014, p.21


Còn nhớ trước 1975, không kể Nhật Bổn, các quốc gia như Hàn Quốc, Thái Lan, Phi Luật Tân, Singapore, Mã Lai là những quốc gia đồng đẳng hay kém hơn VN, nhưng đến nay, sau 42 năm cai trị, đảng Cộng sản VN đã đưa đất nước và giáo dục đến chỗ tụt hậu. 


Trong bảng xếp hạng QS World University Ranking 2018, khảo sát dữ kiện chuẩn hóa của 4388 đại học trên thế giới để xếp hạng 959 đại học tốt nhứt, nhiều đại học công và tư của các quốc gia vừa kể đã nằm trong top 50 các đại học thế giới. Đan kể: Singapore có hai đại học Nanyang Technological University (NTU) đứng hạng 11, National University of Singapore (NUS) hạng 13; Hong Kong có 4 đại học: University of Hong Kong hạng 26, HK University of Science & Technology hạng 30, Chinese University of HK hạng 46, và City University of HK hạng 49; Nhật Bổn có University of Tokyo hạng 28; Kyoto University hạng 36; Hàn Quốc có Seoul National University hạng 36 và KAIST University hạng 41. Trong bảng xếp hạng thế giới, không có Việt Nam.


Trong bảng xếp hạng các đại học ở Á Châu QS Asia University Ranking 2018, trong số 400 đại học, Việt Nam chỉ có hai đại học là ĐH Quốc Gia Hà Nội hạng 136, ĐH Quốc Gia TPHCM hạng 141 và 3 đại học: Hanoi University of Science &Technology trong nhóm hạng 291-300 và Đại học Huế, ĐH Cần Thơ trong nhóm 300-400. Tóm lại, trong tất cả các đaị học ở Á Chậu, Việt Nam chỉ hơn Miên và Lào. 


Quản trị đại học mánh mung


- Cơ cấu 


Tổ chức các đại học, như trên đã nói, đặt dưới quyền quản trị chồng chéo của nhiều cơ quan lãnh đạo khác nhau. Ngoài chính phủ trung ương gồm Bộ GDĐT và nhiều bộ chuyên môn khác, các đại học địa phương, công cũng như tư, còn phải chịu sự chi phối của chính quyền tỉnh hay thành phố. Chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân (UBND) tỉnh có quyền "bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, luân chuyển, cách chức, giáng chức vị trí người đứng đầu trường đại học, cao đẳng ở địa phương. Có quyền công nhận hay không công nhận hội đồng quản trị, hiệu trưởng các đại học tư trên địa bàn, giám sát chất lượng cơ sở đào tạo đại học đóng trên lãnh thổ…" (Tin mới VN, ngày 21/04/2010). 


VN hôm nay trở lại thời kỳ thuộc địa ngu dân thuở xưa bởi lẽ các cơ sở giáo dục cao cấp hay trung ương lại đặt dưới quyền sinh sát của các chủ tịch UBND tỉnh, mà đa số là những cán bộ ít học hay thất học, chỉ vì phe cánh hay trung kiên với đảng được cất nhắc làm lãnh chúa ở các địa phương, thì thử hỏi trong một hoàn cảnh như vậy, đại học VN bảo sao mà không lạc hậu?


Các địa phương tranh nhau mở trường, nhiều chương trình đào tạo giống nhau, các trường tranh chấp nhau, nhiều ngành học không xứng danh đặt trong học trình đại học, hay phát triển một cách đại qui mô ở khắp các địa phương. Có 27 đại học quân sự, 11 đại học công an, không kể các học viện có qui chế như trường đại học, cao đẳng, có quyền cấp văn bằng hậu đại học. Chuyên lạ trên thế giới, trường cao đẳng, đại học Công An đào tạo tiến sĩ và ngành công an ở Việt Nam có rất nhiều tiến sĩ.


Trên 63 tỉnh và thành phố của cả nước, mỗi nơi, ngay cho ở "vùng sâu, vùng xa" đều có ít nhất 2 trường đại học hay cao đẳng. Nhiều đại học có tên ngộ nghĩnh: Đại học Dân lập, Đại học Mở, Đại học FPT, Viện Đào Tạo Răng-Hàm-Mặt, Đại học Phòng cháy Chửa cháy, Đại học Công an nhân dân, Học viện Hậu Cần… Hãy đọc định nghĩa của vài đại học dưới thời Đảng cộng sản cầm quyền. Đại học Mở là cơ sở đào tạo từ xa, đào tạo tại chỗ, đào tạo tại các điểm vệ tinh, còn đại học tư thục gọi là đại học dân lập theo chủ trương xã hội hóa giáo dục của đảng và nhà nước VN.


- Tên gọi các trường lung tung 


Đại học đã lạm phát, mà danh xưng các cơ sở đại học cũng không rõ ràng, dễ nhầm lẫn. Theo tổ chức của Bộ GDĐT, một Đại học có nhiều trường đại học, khoa, viện trực thuộc. Thí dụ như Đại học Đà Nẵng có 11 cơ sở trực thuộc như Trường Đại học Bách Khoa, Trường Đại học Kinh tế…, Khoa Y Dược, Viện Nghiên Cứu Đào tạo Việt-Anh… Sử dụng các danh từ bất nhứt bằng các tên gọi như đại học, trường đại học, viện, học viện tạo ra những nhầm lẫn cho mọi giới, và phải chăng đó là sở trường đánh lận con đen của thế giới cộng sản. Thí dụ tại Hà Nội có ít nhứt 4 trường có tên gần giống nhau: Trường Đại học Quốc Gia Hà Nội, trường Đại học Hà Nội, trường Đại học Thủ đô Hà Nội, Viện Đại Học Mở Hà Nội. Chuyện tương tự như vậy tìm thấy tại nhiều địa phương khác, tại các trường chuyên ngành, cao đẳng. Thí dụ: Trường Đại Học Sư Phạm Thể Dục Thể Thao Thành Phố HCM, Trường Đại Học Thể Dục Thể Thao Thành Phố HCM (phải để ý từng chữ mới phân biệt được).


Về danh xưng Viện cũng không thống nhứt, có khi là một cơ sở độc lập tương đương với một đại học hay một trường đại học, có khi chỉ là một đơn vị trực thuộc. Thí dụ Viện Đại Học Mở Hà Nôi được xem quan trọng như Đại học Quốc Gia Hà Nội vì là đại học đã có quyền tự trị, có hơn 30 000 sinh viên hàng năm các ngành, hệ đào tạo như hệ chính qui, tại chức, từ xa, với một lực lượng ban giảng huấn hùng hậu : 29 Giáo sư, 123 Phó GS, 322 tiến sĩ, 487 thạc sĩ (theo Wikipedia) trong khi tại Đại Học Quốc Gia Hà Nội, Viện chỉ là một đơn vị phụ thuộc (có 7 viện nghiên cứu).


Danh xưng người chỉ huy cũng bất nhất: người đứng đầu hai đại học quốc gia được gọi là Giám đốc, đứng đầu đại học, trường đại học, phân khoa gọi là Hiệu trưởng; đứng đầu viện là Viện trưởng (nhưng viện trong đại học thì gọi là hiệu trưởng) và các học viện chuyên môn như Học Viện Biên Phòng, Học Viện Hậu Cần thì người điều khiển là Giám đốc.

- Giáo sư "rởm" tuyển chọn giáo sư "thật" 


Giảng viên là danh từ gọi chung các người dạy ở đại học. Chức danh giáo sư là một học hàm hay học vị chỉ dành cho các tiến sĩ hay thạc sĩ có thẻ đảng viên, như vậy một tiến sĩ không tất nhiên là giáo sư nếu không vô đảng và không lọt qua hội đồng tuyển chọn. Muốn có chức danh Giáo sư (GS), Phó Giáo sư (PGS) phải làm đơn xin ở Hội Đồng Chức Danh Giáo Sư Nhà Nước được thành lập từ năm 1976. Ngoài tiêu chuẩn về kiến thức, thành tích, muốn đạt được chức danh nầy phải có "lòng trung thành với tổ quốc và chủ nghĩa xã hội, tinh thần phục vụ nhân dân và thực hiện đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước" (quyết định 162/CH ngày 11/09/1976).


Trong lần phong chức đầu tiên (11/09/1976) chỉ có 29 nhà giáo, nhà khoa học được phong chức GS mà trong đó có nhiều vị chỉ có Tú Tài. Về Sử học có: Đào Duy Anh, Trần Văn Giàu, Nguyễn Văn Huyên, Phạm Huy Thông, Nguyễn Khánh Toàn; Về Văn học có: Đặng Thái Mai, Nguyễn Mạnh Tường, Trương Tửu, Hồ thị Phượng; Về Triết học có: Trần Đức Thảo; Về Toán học có: Tạ Quang Bửu, Lê Văn Thiêm, Hoàng Tụy, Trần Quang Nhật; Về Y học có Đặng Chung, Hồ Đắc Duy, Vũ Công Hòe, Đỗ Xuân Hợp, Đặng Vũ Hỹ, Nguyễn Xuân Nguyên, Phạm Ngọc Thạch, Trương công Trung, Đinh Văn Thắng, Hoàng Tích Trí, Tôn Thất Tùng, Trần hữu Tước; Về Cơ khí: Trần Đại Nghĩa…


Từ năm 1989 trở về sau, ngoài yếu tố văn bằng còn có thêm các yếu tố thông thạo hai ngoại ngữ, thời gian giảng dạy, số bài nghiên cứu đăng trong tạp chí quốc tế. 


Tính chung, từ năm 1980 đền 2015 có 11 619 GS và PGS (khoảng 1700 GS và 10 000 PGS), đặc biệt năm 2016 số người trình diện ở Nhà Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội chiếm kỷ lục: 65 GS và 638 PGS (theo Wikipedia và Tuổi Trẻ online ngày 26/12/2017). Điều lưu ý là trong số GS tiến sĩ nầy có những tiến sĩ giấy như Trần Đại Quang, Nguyễn Phú Trọng (Chính trị), Nguyễn Thị Đoan, Nguyễn Thiện Nhân (Kinh Tế) và vô số tiến sĩ, thạc sĩ có học vị GS và PGS trong các bộ kể cả Bộ Công An, Quốc Phòng và Ủy Ban Nhân Dân tỉnh, thành phố. Từ một học hàm, chức danh GS, PGS trở thành một phẩm hàm, một phần thưởng cho các người trung thành với đảng, với phe nhóm, và sau khi nhận được chức danh, nhiều GS, PGS xao lãng việc nghiên cứu, giảng dạy, lợi dụng chức danh để làm hoạt đầu chính trị, kinh doanh thương mại.


Thực ra, từ căn bản, chuyện tuyển chọn chức danh GS, PGS đã có nhiều điều bất cập mà giới trí thức có tâm và có tầm đã lên tiếng phản đối nhưng chỉ là chuyện đàn gảy tai trâu. Trước tiên là các thành viên trong Hội Đồng không đủ khả năng để tuyển chọn mà báo giới gọi là Giáo sư "rởm" xét ứng viên giáo sư "thật". Sau đó là những tiêu chuẩn máy móc, không minh bạch của Hội Đồng Tuyển Chọn dễ đưa đến quyết định chủ quan, thiên vị. Những tiêu chuẩn để chấm điểm là: bài báo + sách + hướng dẫn NCS + Số giờ giảng dạy + Thâm niên giảng dạy + Tỷ lệ phiếu yêu/ghét. Điều hi hữu chỉ có ở đại học Việt Nam: được gọi là công trình khoa học gồm cả thư mục tài liệu tham khảo, giáo trình, sách hướng dẫn nghiên cứu sinh và chấm điểm theo thang điểm: monography: 0-4 điểm, sách giáo khoa:0-3 điểm, bài báo; 0-1 điểm…


GS Hoàng Tụy, nhà toán học số một của VN, đã góp phần vào việc nghiên cứu thuyết Tối ưu toàn cục (Global optimization), được nhiều đại học quốc tế mời làm giám khảo trong các kỳ thi tiến sĩ về Toán, nhà giáo được cả nước kính nể, đã viết nhiều bài chỉ trích cái tệ nạn tham nhũng, bất tài của Hội đồng tuyển chọn. Ông viết: "…Oái oăm nhất là việc xét duyệt danh sách đề cử GS, PGS ở mấy cơ quan lớn như Bộ Giáo dục, Bộ Y tế, Viện Khoa học VN (ngày nay là Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ), đều do phòng tổ chức ở đấy quyết định mà phụ trách phòng này ở cả ba cơ quan không may đều là cán bộ chính trị trình độ học vấn chỉ đến cấp hai phổ thông… Ngay cả nhiều lãnh đạo cấp cao của hai ngành giáo dục, khoa học khi được trao quyền xét duyệt thì cũng tự cho mình hiểu biết hơn người, cho nên đặt ra nhiều tiêu chuẩn định lượng có vẻ chặt chẽ chính xác mà thật ra máy móc đến ấu trĩ. Đã thế Hội đồng xét duyệt lại bị lãnh đạo bởi những người chẳng những yếu kém chuyên môn mà còn thiếu cả công tâm.


Tôi nhớ có một trường hợp có bằng tiến sĩ ở Pháp, chuyên về Tối ưu, đã giảng dạy mấy năm ở đại học, có nhiều công bố quốc tế được các chuyên gia Tối ưu ở Viện Toán đánh giá cao, nên khi đưa ra xét để phong PGS thì toàn Hội đồng cơ sở nhất trí ủng hộ, thế mà đưa lên Hội đồng ngành thì bị bác chỉ vì một thành viên Hội đồng Chức danh Nhà nước nhất quyết chống lại, vì cho rằng chưa đạt một vài tiểu chuẩn vớ vẩn. Đó là xét PGS cho một trường hợp về Tối ưu, mà ý kiến ủng hộ của cả một tập thể gồm những chuyên gia Tối ưu hàng đầu cả nước vẫn không có giá trị gì trước ý kiến một cá nhân chẳng hiểu tí gì về Tối ưu. Chuyện phi lý bất công như vậy nhưng hệ thống cứng nhắc đến mức dù nhiều nhà khoa học hàng đầu có ý kiến vẫn không sao thay đổi được. …Có một thực tế đáng buồn là một số người, kể cả những người có chức có quyền cũng cố gắng "vo" cho mình một chức danh GS, PGS để cho "oai" và để đánh bóng cái lý lịch cá nhân…" (Hoàng Tụy. Tiêu chuẩn GS, PGS. Tiền Phong 24/04/2017) 


Nói tóm lại, chức danh giáo sư, trên nguyên tắc, chỉ dành cho những nhà nghiên cứu uyên thâm một lãnh vực, có công khám phá được những sự việc, học thuyết mới mà những sáng tạo nầy được truyền dạy cho môn sinh hay các giới thẩm quyền để ứng dụng cho công ích, thì trái lại, tại Việt Nam chức danh giáo sư, phó giáo sư là một tước phẩm được kèn cựa mua bán. Đó là lý do khiến đại học Việt Nam mục nát, dẫy đầy các tiến sĩ già nua, bất tài, bất xứng làm rào cản các tài năng trẻ, thành tâm phục vụ đất nước nhưng không chịu theo đảng để làm chuyện ruồi bu.


Cái háo danh GS, PGS-tiến sĩ tại Việt Nam hôm nay lại còn bành trướng trong các ngành nghề như GS-TS-Kỹ sư, đặc biệt trong Y giới. Có gì quái lạ, ngu xuẩn hơn khi ông bác sĩ thật lại đi mua bằng tiến sĩ giả để được xưng tụng và trong các nhà thương nhan nhản xuất hiện trên túi áo, trên danh thiếp những chữ tắt dài dòng kịch cỡm đại khái như: PGS-TS-BS Hồ Đại Ngu và dưới mắt dân gian, ông tiến sĩ - bác sĩ giỏi hơn ông bác sĩ không có tiến sĩ. Chế độ cộng sản dạy mọi người dân lường gạt, từ trên xuống dưới. Ông bác sĩ bỏ ra vài ngàn mỹ kim mua bằng tiến sĩ giả, ông chạy được chức PGS, ông kiếm được một chức vụ trong nhà thương hay trong một cơ quan, ông "chém" bịnh nhân gấp 5-7 lần hơn đồng nghiệp không có bằng tiến sĩ giả. Còn ông TS-KS có bằng tiến sĩ giả chạy được chức Trưởng ty Công chánh, ăn ciment xây cầu vừa khánh thành thì cầu sập. Cứ thế mà tiến sĩ ở VN đông như bọ xích.
Ai đang xem chủ đề này?
Guest
Di chuyển  
Bạn không thể tạo chủ đề mới trong diễn đàn này.
Bạn không thể trả lời chủ đề trong diễn đàn này.
Bạn không thể xóa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể sửa bài của bạn trong diễn đàn này.
Bạn không thể tạo bình chọn trong diễn đàn này.
Bạn không thể bỏ phiếu bình chọn trong diễn đàn này.

Powered by YAF.NET | YAF.NET © 2003-2025, Yet Another Forum.NET
Thời gian xử lý trang này hết 0.244 giây.