Làm thơ đã nhiều ở Việt Nam, Luân Hoán qua tập thơ đầu tiên ở hải ngoại, sau hơn một năm thoát khỏi thiên đường Đỏ, đã ghi lại những sự kiện, trạng huống, thảm cảnh, cái cười ra nước mắt, niềm phẩn uất, sự tạm chấp nhận chờ thời... của những người kẹt vướng trong vòng lao lý thênh thang nơi quê nhà.
Là chứng nhân nói lên điều mắt thấy, bằng thơ, là người tố cáo tội trạng kẻ bôi đen đời sống dân tộc, bằng ngôn ngữ. Ông, người chép những sự kiện từ hai phiá: cầm quyền tham lam ngu muội và người dân chấp nhận oằn mình lại như con sâu để tự tồn. Mỗi hành vi, mỗi thái độ đều không qua khỏi mắt nhà thơ. Từ điều nhỏ nhặt xảy ra, đến điều lớn lao, biến chuyển trong tâm hồn con người. Phải có một cảm xúc mãnh liệt, phải có một cặp mắt quan sát tinh vi, Luân Hoán mới có được tập thơ, mà điều nói đến trải dài như vậy.
Những chứng nhân, cáo nhân, người chép sử ở mặt nào đó không phù hợp với tính cách thơ. Chữ nghĩa làm giảm đi cường độ của tội trạng, tội trạng xóa nhòe phần nào nét đẹp của thơ. Đó là hai đối nghịch, người Việt Nam nào cũng cảm nhận. Cảm nhận nhưng không thể làm ngơ, vì yếu tính của người thơ, là nói lên tiếng lòng phẩn uất, hay cảm khái trước sự thật. Người làm thơ còn là một cá nhân, có cường độ cảm thức bén nhạy trước sự kiện. Dòng thơ Việt hải ngoại bây giờ, đều trong những phạm trù đó, những dòng sông lớn đó, chỉ khác cách diễn tả, cách trình bày biểu tượng, và sự lựa chọn những gì cần diễn tả.
Sự kiện thực tế xảy ra tùy mỗi nhà thơ, tuy sự cảm nhận, điều được đưa vào thơ khác nhau phần nào đó, điều khác nhau này là bản sắc, là con đường riêng của mỗi cá nhân thi sĩ. Ngôn ngữ thi ca dĩ nhiên cũng góp phần trong việc tạo nên nhà thơ, nhưng đó là phần khác.
Ở Luân Hoán, những điều cần mô tả đã được ghi lại một cách trung trực, những bức tranh xã hội Việt Nam nghèo khó bây giờ thật đậm nét: trình diện học tập, thầy giáo không được dạy học, người dân nghèo khó tang thương, chán chường tuổi trẻ mất phương hướng đi vào đường lầm lạc, con người bị bắt buộc thực hiện những điều đau lòng... Tất cả mọi khía cạnh không chi tiết nào thoát khỏi cặp mắt chứng nhân, không hạt bụi nào lọt khỏi máy lọc cáo trạng... Những bài thơ tạo thành hơi thở hấp hối, ngất ngưởng khò khè, đứt đoạn của một nuớc Việt Nam bị vây hãm trong gông cùm chủ nghĩa, bị một sự đảo lộn trật tự đến khủng khiếp...
Nguyễn Chí Thiện đã làm điều Luân Hoán làm, Nguyễn Mạnh Trinh, Lâm Hảo Dũng đã đi bước trước Hơi Thở Việt Nam trong đầu thập niên 80... Điều riêng biệt ở Luân Hoán là những bật dậy, những đột kích, những phản kháng, những cú đánh trả thật bất ngờ của con người trước hoàn cảnh. Điều đó thôi, cho tôi ý nghĩ tim thi sĩ Luân Hoán vẫn đập nhịp trong thái độ cầm bút của người tố cáo. Hai đối nghịch Văn chương, Chính trị mà ai trong chúng ta cũng có lúc trực diện suy nghĩ. Tùy theo sự lựa chọn tự do của mọi cá nhân ta có nhà-thơ-diễn-tả-những-điều-liên-quan-đến-chính-kiến hay người-làm-chính-trị-trên-cái-xác-của-thi-ca.
Nói chung, loại thứ nhất ta thường thấy ở người Việt hải ngoại hay các nhà văn nhà thơ Miền Nam và loại thứ hai là các Văn nô Cộng, thân Cộng hay những tên chóp-bu-thơ kiểu Hồ Chí Minh., Sóng Hồng, Tố Hữu...
Tại sao tính chất thơ có nhiều ở Luân Hoán mặc dù đề tài của ông hầu hết đều là những bật dậy, những đột kích tràn đầy ý thơ trong hầu hết các bài trong tập.
Một sự đột kích rằng ta có tình nguời:
“Chúng tôi là súc vật
hôm nay học làm người
xin chân thành ‘đăng ký’
CHÚNG TÔI THỪA TRÁI TIM”
Chúng ta những người tôn trọng sự thật dầu gặp cảnh ngộ nào cũng không bẻ cong ngòi bút, viết không được cách này , chúng ta viềt bằng cách khác (bằng trí nhớ chẳng hạn):
“Xin cảm ơn cách mạng
tôi nguyện cầm bút hoài.”
Chúng ta không bỏ cuộc khi đã chọn nghiệp:
“Phổi chưa rách vẫn còn quyền quẫy lật
chữ Thánh Hiền không lẽ cũng mang gông.”
Coi thường mọi thứ khi tự do đã mất:
“ngủ ngồi trên gác tối
tự do như đêm dài
chết cần gì hấp hối
sống cần gì tương lai.”
Thương bằng tất cả tấm lòng một thế hệ đã đánh mất mình vì sự xảo trá của chế độ:
“ xin tặng em buổi sáng
mưa bụi mù hôm nay
xin tặng em nước mắt
tôi khóc bằng bàn tay.”
Chúng ta thua thiệt và chật vật bên ngoài, chúng ta mất mát những lòng tin, tình yêu, tình gia tộc; nếp sống văn hoá ta còn trong tim, chúng nó không thể nào hủy diệt được:
“ mẹ kính yêu, mẹ bao dung mầu nhiệm
hãy vui lòng về đậu giữa tim con
nấm mộ đó bạo quyền không san được
và nén hương con thắp cả tâm hồn.”
Những cú đánh trả thật bất ngờ như vậy ở trong hầu hết các bài thơ. Tính chất Thơ ở đó và tính chất dấn Thân cũng ở đó. Thơ Luân Hoán đáng hoan nghinh ở chỗ hòa điệu giữa hai đối nghịch này, mặc dù theo tôi sự hòa điệu đó chưa được cân xứng. Lắm khi vai trò chứng nhân quá nặng nề làm lệch đi tiếng thơ của thi sĩ. Nhưng biết sao ? Văn học hải ngoại cần nung sôi nhiệt huyết trong tâm hồn mọi người chúng ta mà cuộc sống ở đây với những hệ lụy của nó dễ dàng làm cho nguội lạnh đi.
Nguyễn Văn Sâm