3. Hạnh phúc qua tôn giáo:Sư hiểu biết của tôi chỉ dựa vào sách vở và tài liệu, và không phải do thực hành tôn giáo. Do đó, phần trình bày có thể thiếu sót. Rất mong độc giả thứ lỗi.
Các tài liệu gốc về Ki-tô giáo và Phật giáo thường được viết bằng ngôn ngữ lúc hai tôn giáo này được truyền bá lúc bấy giờ. Kinh thánh trong Ki-tô giáo được dịch từ tiếng Hebrew và qua nhiều ngôn ngữ khác như Hy lạp. Việc chuyển dịch một số từ ngữ sang tiếng Anh và tiếng Việt nhiều khi không được chính xác và không lột rõ hoàn toàn ý nghĩa. Thí dụ, "compassion" có nhiều nghĩa và có thể được dịch sang tiếng Việt là lòng thương người, nhân ái, từ bi, cảm thông, trắc ẩn. Thực ra, "compassion" cũng không hẳn chính xác khi được dịch từ tiếng Phạn Sankrit hoặc Nam Phạn Pali (Karuṇā) trong Phật giáo (Wikipedia 2018e) hoặc tiếng Hebrew (hamal, rachuwm) hoặc Hy Lạp (splanchnisomai) trong Ki tô giáo (Xem, Bible Study Tools). Trong bài này, tôi sẽ dùng lòng trắc ẩn và cảm thông (Ki-tô giáo), lòng từ bi và cảm thông (Phật giáo) cho compassion.
Hầu như tôn giáo nào cũng nhắm vào hạnh phúc con người, tuy từ ngữ "hạnh phúc" đôi khi không nêu ra rõ rệt. Vì giới hạn chiều dài bài, tôi không thể thảo luận mọi tôn giáo, mà chỉ có thể đề cập đến Ki-tô giáo và Phật giáo.
a) Ki tô giáo:
Khi những tín đồ Ki-tô giáo muốn học hỏi về hạnh phúc, họ đọc Kinh thánh, nhất là các sách Phúc âm (Wadell 2016, 2). Nhiều học giả và những nhà nghiên cứu thần học, kể cả Đức Giáo Hoàng Francis, Đức Giáo Hoàng thứ 266 của Công giáo, diễn giải rằng hạnh phúc được nhắc nhở và gói ghém đầy rẫy qua lời của Đức Chúa Trời và Chúa Giê-su với nhiều từ ngữ liên hệ đến hạnh phúc.
Đại khái, hạnh phúc có thể được diễn tả bằng sự hân hoan, mừng rỡ, vui thích, khoái cảm, và hưởng phước lành. Alcorn (2015, 38-44), linh mục và tác giả về Kinh thánh và thần học, tin rằng nỗi hân hoan (joy), từ ngữ dùng nhiều trong Kinh thánh, có cùng ý nghĩa với niềm hạnh phúc (happiness) mặc dù nhiều học giả khác diễn giải ngược lại và còn coi niềm hạnh phúc tệ hơn hân hoan. Ngoài ra, hưởng phước lành (blessed) cũng đồng nghĩa với hạnh phúc (Alcorn 2015, 185-195; Pope 2017, 41).
Theo nhiều học giả, Kinh thánh cho thấy Đức Chúa Trời muốn chúng ta hạnh phúc. "Đức Chúa Trời cho thấy rõ rằng tìm hạnh phúc - hoặc niềm vui, thích thú, thú vui - qua tội lỗi thì sai lầm và vô ích. Nhưng tìm hạnh phúc trong Ngài thì tốt đẹp và đúng" (Alcorn 2015, 19). Saint Augustine (354-430) coi hạnh phúc là niềm hân hoan về chân lý. Augustine tin hạnh phúc không nằm với con người. Tìm kiếm Đức Chúa Trời là con đường đi đến hạnh phúc (Wadell 2016, 7-16). C.S. Lewis (1898-1963), một học giả gốc Ái Nhĩ Lan nổi tiếng, viết, "Nếu bạn sống cho chính bạn, trong dài hạn, bạn sẽ chỉ thấy hận thù, nỗi cô đơn, tuyệt vọng, cơn giận dữ, sự suy đồi, và mục nát. Nếu bạn đi tìm Đức Chúa Trời và bạn sẽ thấy được Ngài, và với Ngài. bạn đều hưởng được mọi việc" (Muehlenberg 2014).
Nhưng thế nào là đi tìm Đức Chúa Trời? Ai cũng hiểu từ ngữ "đi tìm Đức Chúa Trời" là một ẩn dụ cho việc thực hành theo ý Đức Chúa Trời qua lời giảng dạy của Chúa Giê-su, hoặc noi gương Chúa Giê-su. Augustine tin rằng "[y]êu kính Đức Chúa Trời hết lòng và trung thành là cuộc đời hạnh phúc vì Đức Chúa Trời là sự hoàn hảo và là điều thiện cao quý và tuyệt diệu nhất" (Wadell 2016, 12). Thomas Aquinas (1225-1274) tuyên bố rằng người hạnh phúc là người có được sự tốt đẹp cao quý nhất, và sự tốt đẹp đó chỉ có thể tìm thấy được ở Đức Chúa Trời (tlđd., 20). Aquinas "kết nối hạnh phúc với cuộc sống môn đệ, cuộc sống đi theo, học hỏi từ, và noi theo gương Chúa Giê-su" (tlđd.,, 24).
Đức Giáo Hoàng Francis (Pope 2017, 41) giảng dạy, "Chữ 'hưởng phước lành,' có nghĩa 'hạnh phúc,' xuất hiện chín lần trong Bài Giảng Trên Núi của Chúa Giê-Su, bài giảng vĩ đại đầu tiên của Người (Matthews 5:1-12). Chữ đó như là một điệp khúc nhắc nhở chúng ta về lời kêu gọi của Đức Chúa Trời đi tới trước cùng với Người trên con đường dẫn đến hạnh phúc, cho dù có nhiều thử thách." Bài Giảng Trên Núi của Chúa Giê-su (Matthew 5:1-12), do đó, gói ghém "kim chỉ nam" cho việc tìm hạnh phúc. Theo đó, chúng ta phải có thái độ ôn hòa, khao khát cho công chính, có lòng thương xót con người, chấp nhận mọi ngược đãi gây ra vì việc làm công chính của mình. "Chúng ta phải chịu nghèo, tang tóc, ngược đãi, và những nỗi khổ đau tương tự, thì chúng ta mới thấy được Đức Chúa Trời và hạnh phúc. Như Chúa Giê-su nói nhiều lần, chúng ta phải tự chối bỏ chính mình" (Muehlenberg 2014).
Nhưng không phải lúc nào chúng ta cũng than khóc, chịu nghèo túng, chấp nhận sỉ nhục. Đức Chúa Trời muốn chúng ta hưởng hạnh phúc qua những hành động hoặc thực hiện những công việc tốt đẹp như hôn nhân, ăn mừng, tiệc tùng, cười đùa, nhảy múa, ca hát, và hưởng các thú vui (Alcorn 2015, 225-232; 295-303). Kinh thánh đầy rẫy những hình ảnh vui thú, tiệc tùng, nhảy múa. Thí dụ như, "Và David nhảy múa trước Đức Chúa Trời" (2 Samuel 6:12-14), "Bò hoặc cừu hoặc rượu mạnh, bất cứ gì con thèm. Và con sẽ ăn trước Đức Chúa Trời và hoan hỉ" (Deuteronomy 14:24-26), "Bánh mì tạo ra cho tiếng cười, và rượu khiến đời vui lên" (Ecclesiastes 10:19), "Mọi người hãy vỗ tay! La hét với những ca khúc hân hoan náo nhiệt tới Đức Chúa Trời" (Psalm 47:1).
Đi tìm hạnh phúc là một cuộc hành trình phát huy những đức hạnh và tiêu diệt tội lỗi. "Cuộc đời tín đồ Ki-tô giáo là một cuộc hành hương, một cuộc tìm kiếm khám phá dần dần với nơi đến là sự gần gũi thiêng liêng mãi mãi với Đức Chúa Trời" (Wadell 2016, 86). Để hoàn tất cuộc hành trình, chúng ta phải có được những đức hạnh. "Chúng ta ai cũng có khuynh hướng thiện, nhưng có khuynh hướng thiện không đủ vì nó không bảo đảm chúng ta sẽ thực sự làm việc thiện, nhất là khi việc đó tốn kém hoặc khó khăn" (tlđd., 94-95). Chúng ta phải hành xử thiện theo một cách nào đó qua thời gian, khiến việc đó trở thành một thói quen (tlđd.),
Những đức hạnh nào cần thiết cho cuộc hành trình đi tìm Đức Chúa Trời? Có nhiều đức hạnh, nhưng sau đây là những đức hạnh quan trọng nhất: lòng cao thượng (magnanimity), lòng can đảm (courage), lòng trắc ẩn và cảm thông (compassion) (tlđd., 99-110). Một người cao thượng là người có tinh thần cho các hành vi cao quý, thí dụ như yêu thương, phục vụ, trung thành, hy sinh, và rộng rãi (tlđd., 99-100). Lòng can đảm không để nỗi sợ hãi điều khiển mình, và cho chúng ta sức mạnh để làm liều cho dù tự đặt mình vào nguy hiểm cho những việc thực sự quan trọng (tlđd.,, 102-103). Lòng trắc ẩn và cảm thông giúp chúng ta hiểu được nỗi đau khổ của người khác. "Đối với tín đồ Ki-tô giáo, lòng trắc ẩn và cảm thông không phải là một đức hạnh không bắt buộc mà là một cách hoàn hảo để noi gương Đức Chúa Trời" (tlđd., 109).
Ngoài những đức hạnh chính yếu trên, Kinh thánh vạch ra thực hành những đức hạnh khác. Thí dụ, tự kềm chế (Proverbs 25:28; 2 Peter 1:5-6); dâng hiến cuộc đời cho hạnh phúc người khác (Luke 6:31; Isaiah 58:10-11; Philippians 2:3-4); thí dụ "Đừng làm việc gì vì ưa tranh cãi hay vì tự cao, nhưng hãy khiêm nhường xem người khác cao hơn mình. Đừng chỉ quan tâm đến lợi ích của riêng mình, mà cũng quan tâm đến lợi ích của người khác nữa" (Philippians 2:3-4); bày tỏ lòng biết ơn; thí dụ, "cám ơn trong mọi trường hợp" (1 Thessalonians 5:18).
Một điểm chắc chắn là chỉ có chúng ta, với nỗ lực bản thân trong việc đi tìm hạnh phúc qua việc đi theo Đức Chúa Trời, mới có thể có hạnh phúc. Chúng ta không thể có hạnh phúc qua những phương tiện vật chất. "Hạnh phúc không thể mua được." (Pope 2017, 18). Ngoài ra, trong việc "đi tìm Đức Chúa Trời," chúng ta không nên trì hoãn. Chúng ta phải có can đảm hành động ngay tức khắc."Hôm nay là thời gian cho hành động và thời gian cho lòng can đảm" (Pope 2017. 15).
b) Phật giáo:
Nhiều học giả coi Phật giáo không phải là một tôn giáo, và là một ngành triết lý sâu xa về con người và cuộc đời. Phật giáo khuyến khích con người không dựa duy nhất vào niềm tin và không đòi hỏi tin vào Thượng Đế (Hanson và Mendius 2009, 8). "Ý tưởng về Thượng Đế và ý tưởng về linh hồn là dấu hiệu của ngu si. Các ý tưởng này sai lầm và rỗng tuếch" (Dalai Lama và Carrière 2001, 58).
Phật giáo nói đến hạnh phúc một cách rõ rệt và vạch ra những phương pháp để đạt hạnh phúc (Dalai Lama và Chodron 2017, 4-5). Một tiền đề của Phật Giáo về hạnh phúc là "mục đích của sự hiện hữu con người là đi tìm hạnh phúc" (Dalai Lama và Cutler 2009, 16, 62). "Hạnh phúc thực sự đến từ sự thanh thản của tâm trí. Cách duy nhất để đạt được hạnh phúc là có lòng vị tha và từ bi" (Dalai Lama và Chan 2014, 229).
Hạnh phúc thực ra là trạng thái trí tuệ (state of mind). Nói cách khác, chính trí óc, không phải các yếu tố bên ngoài, tạo ra hạnh phúc (Dalai Lama và Cutler 2009, 20; Haidt 2006, 87). Thí dụ, tiền bạc, một yếu tố bên ngoài, tự nó không đem lại hạnh phúc. Chỉ vì trí óc con người nghĩ đến việc dùng tiền bạc để giải quyết các vấn đề khó khăn (thí dụ, trả tiền nhà, chi phí y tế, mua xe) hoặc để thỏa mãn những ham muốn vật chất (thí dụ, nhà cao cửa rộng, ăn ngon mặc đẹp) nên con người tưởng rằng tiền bạc đem lại hạnh phúc. Một thí dụ khác, một lực sĩ điền kinh luyện tập cực khổ cho Thế Vận Hội. Chương trình luyện tập rất khó khăn, thường khiến người lực sĩ đau đớn thể xác, nhưng anh ta vẫn cảm thấy hạnh phúc. Cái cảm nhận hạnh phúc đó đến từ trí óc, và hoàn toàn không dính líu gì đến các yếu tố bên ngoài như tiền bạc, chức vị, thể xác.
Do đó, để đạt hạnh phúc, nghĩa là đạt mục đích sống, chúng ta chỉ cần biết vận dụng trí óc. Con người có thể huấn luyện trí tuệ cho hạnh phúc. Tiến trình này có ba giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất là học hỏi (learning) (Dalai Lama và Cutler 2009, 38, 220). Giai đoạn thứ hai là phát huy niềm tin (conviction) và kiên trì (determination). Giai đoạn thứ ba là hành động (action) qua nỗ lực (effort) (tlđd., 220). Để thực hiện tiến trình này, chúng ta phải có ý muốn mạnh mẽ. Ngoài ra, trí tuệ con người có khả năng tiếp nhận các quan điểm để đối phó nhiều vấn đề khác nhau. Thiền định là cách đối thoại tinh thần trong việc tiếp nhận các quan điểm cho nhiều trường hợp (tlđd., 234).
Một khái niệm căn bản trong Phật giáo là mọi việc trên đời đều có liên hệ lẫn nhau. Việc gì cũng có nguyên do ("nhân") và hậu quả ("quả"). Mọi việc trong vũ trụ đều có liên hệ và tùy thuộc lẫn nhau. Không có gì tự dưng mà thành hoặc tự dưng biến mất (Ricard 2007, 63-64). Vì vậy, nỗi đau khổ của con người có lý do. Muốn đạt hạnh phúc, con người phải tiêu diệt nỗi khổ. Tứ diệu đế, hoặc bốn chân lý cao quý, là 4 chân lý về nỗi khổ và gồm có: Khổ đế (chân lý về các nỗi khổ), Tập đế (chân lý về nguồn gốc các nỗi khổ), Diệt đế (chân lý về diệt khổ), và Đạo đế (chân lý về con đường dẫn đến diệt khổ) (Batchelor 2015, 68; Dalai Lama và Chodron 2014, 39-59; Dalai Lama và Chodron 2017, 27-30; Keown 2013, 48-60; Wikipedia 2018f). Để đối phó với những nỗi khổ sẽ xảy ra (thí dụ, bệnh hoạn, chết), con người phải tập luyện và chuẩn bị dùng nhiều phương pháp. Thí dụ, dùng hình ảnh tâm trí, phát huy lòng yêu thương và lòng từ bi và cảm thông, và phát triển sức mạnh bên trong (Ricard 2007, 73).
Hạnh phúc và lòng từ bi và cảm thông (compassion) là hai khái niệm liên hệ chặt chẽ (Dalai Lama và Cutler 2009, xxvii). Với lòng từ bi và cảm thông, con người có thể phát huy những tình cảm tích cực như lòng tử tế, thương người, và thông cảm, và tiêu hủy hoặc làm suy yếu những trạng thái tiêu cực như giận dữ, hận thù, lo lắng, sợ hãi (Dalai Lama và Cutler 2009, 243). Những tình cảm tích cực phù hợp với bản chất con người, đem lại sức khỏe tinh thần và vật chất, và do đó đem lại hạnh phúc. Ngược lại, những phản ứng tiêu cực có thể phá hoại sức khỏe, và do đó làm suy giảm hạnh phúc (tlđd., 53-54, 242). Ta thấy về khía cạnh này, tâm lý học tích cực, Ki-tô giáo, và Phật giáo, trình bày ở trên, có nhiều điểm tương đồng.
Một cách phát huy lòng từ bi và cảm thông là hiểu được nỗi đau khổ của người khác. Ráng đặt mình vào vị trí người khác để cảm nhận nỗi đau khổ của người đó (tlđd., 88-89). Việc đó không dễ dàng nhưng bằng cách tập luyện qua suy tưởng dựa vào tính chất tương đồng của con người giữa mình và người đó, ta có thể thông cảm người khác (tlđd., 90). Ngoài ra, hạnh phúc và lòng vị tha (altruism) liên hệ mật thiết. Lòng ích kỷ là lý do chính yếu của sự đau khổ trong khi tình thương yêu vị tha là thành phần thiết yếu cho hạnh phúc thực sự (Ricard 2007, 203). Lòng từ bi và cảm thông còn giúp phát huy những đức tính khác như lòng can đảm, tự tin, hy vọng (Dalai Lama và Chodron 2017, 64-65)
Bên cạnh việc phát huy lòng từ bi và cảm thông, chúng ta cần phải tiêu diệt những nỗi khổ tạo ra bởi những cảm xúc tiêu cực. Nỗi khổ của con người thường do bởi tam độc (three poisons) gồm có: tham (attachment, greed, desire), sân (aversion, hatred), và si (delusion, ignorance) (Dalai Lama và Chodron 2017, 46-48; Tsering 2006, 45-54). Tham hoặc ham muốn thường do bởi những kỳ vọng thiếu thực tế (Dalai Lama và Chodron 2017, 47). Ham muốn phóng đại phẩm chất của vật ham muốn và do đó dễ gây ra bất mãn, nhất là sau khi đã đoạt được vật đó. Cứ thế, ta cứ luẩn quẩn trong bất mãn và ham muốn càng gia tăng (Tsering 2006, 53). Sân (giận dữ và thù ghét) là lực cản trở nhiều nhất trong việc phát huy lòng từ bi và chúng phá hủy sự phẳng lặng trí tuệ (Dalai Lama và Cutler 2009, 248; Tsering 2006, 65-80). Giận dữ có thể tích cực khi nó được thúc đẩy bởi ý thức trách nhiệm, nhưng thù ghét chẳng có lợi gì cả và luôn luôn tiêu cực. Chúng ta cần phải phát huy liều thuốc trị thù ghét. Hai liều thuốc đó là kiên nhẫn (patience) và chịu đựng hoặc nhẫn nhịn (tolerance) (Dalai Lama và Cutler 2009, 249). Si hiện hữu dưới nhiều hình thức như ngu dốt, nghi ngờ, đau buồn, khủng hoảng tinh thần, nghiện ngập, kiêu hãnh, tự cao, coi trọng bản ngã, sợ hãi và lo lắng (Tsering 2006, 60-62; Ricard 2007, 211). Đặc biệt, sợ hãi và lo lắng là hai cảm xúc tiêu cực và cần được khống chế. Để khống chế hoặc làm suy giảm chúng, ta cần có động cơ thích đáng và lòng chân thành. Một khi chúng ta phát triển động cơ tinh khiết và chân thành qua lòng tử tế, từ bi, thì chúng ta chẳng còn biết sợ hãi hoặc lo âu (Dalai Lama và Cutler 2009, 272-273).
Ngoài ra, một yếu tố quan trọng trong việc phát huy ý muốn mạnh mẽ là ý thức khẩn cấp (sense of urgency) (tlđd., 221). Chính cái ý thức khẩn cấp đó cho chúng ta một năng lực vĩ đại để chống lại mọi cản trở. Chúng ta thấy khái niệm khẩn cấp này cũng hiện diện trong lý thuyết Ki-tô giáo.
Nói tóm lại, Phật giáo chủ trương con người có thể đạt được hạnh phúc bằng cách tận dụng trí tuệ, trau giồi và phát huy các cảm xúc tích cực và tốt đẹp (thí dụ, lòng từ bi, cảm thông, vị tha, khiêm tốn) và khống chế, tiêu diệt các cảm xúc tiêu cực xấu xa (thí dụ, ham muốn, giận dữ, thù ghét, kiêu hãnh, ích kỷ, sợ hãi, lo lắng). Giống như ngành tâm lý học tích cực và một số lý thuyết triết học về đức hạnh, và Ki-tô giáo, Phật giáo thúc đẩy con người hướng thiện bằng cách thực hiện việc này với ý thức sâu xa và mạnh mẽ, và luyện tập trí tuệ trong một tiến trình có kỷ luật.
4. Thực hành việc tìm hạnh phúc trong xã hội:Các quan điểm triết lý, khoa học, và tôn giáo về hạnh phúc trình bày ở trên có khá nhiều điểm tương đồng. Chúng cho chúng ta một khái niệm khá rõ ràng về hạnh phúc và phương pháp đạt hạnh phúc. Có hai khía cạnh trong việc áp dụng các học thuyết này: cá nhân và xã hội.
a) Cá nhân:
Về phương diện cá nhân, chúng ta có thể áp dụng phương pháp nào thích hợp nhất với mình trong việc gia tăng hạnh phúc. Sự lựa chọn tùy vào xã hội chúng ta đang sống. Các phương pháp giúp phát huy hạnh phúc có vài chú trọng khác nhau, nhưng tựu trung cổ võ việc luyện tập trí tuệ. Luyện tập trí tuệ để phát huy các cảm xúc tích cực hoặc đức hạnh không phải là việc dễ. Tuy nhiên, chúng ta không cần sửa đổi thật nhiều trong thời gian ngắn. Chúng ta có thể tự đặt ra những bước nhỏ, rèn luyện với thời gian, và gia tăng cường độ dần dần.
Chúng ta cần biết rằng phát huy các cảm xúc tích cực hoặc đức hạnh không có nghĩa khiến chúng ta trở nên quá hiền lành, bạc nhược, hoặc hèn hạ. Ngược lại nữa là khác. Khi chúng ta luyện tập để có trí tuệ minh mẫn, mở lòng từ bi và cảm thông, diệt trừ sợ hãi, gần gũi với tâm linh siêu việt, chúng ta phát huy một ý chí mạnh mẽ và sức mạnh tinh thần. Lòng can đảm và chí khí được nung nấu, vì chúng ta biết lẽ phải thuộc về mình, và không có một bạo lực bất chánh nào có thể làm lung lay mình được.
b) Xã hội:
Các lý thuyết về hạnh phúc không đặt nặng vào hạnh phúc của một cộng đồng, xã hội, dân tộc, hoặc quốc gia, và đều dựa vào một giả thiết căn bản: Cá nhân đang tìm hạnh phúc đó là người sống trong một xã hội ổn định, thanh bình, và trong một quốc gia có chính phủ thực sự lo lắng cho cuộc sống người dân, và cá nhân đó không phải lo âu về các tự do căn bản và quyền con người.
Tuy nhiên, khi xã hội hỗn loạn, suy đồi, và chính phủ tham nhũng, cướp bóc dân, và công dân trong nước không có các tự do căn bản và quyền con người, thì cá nhân khó có thể theo đuổi mưu cầu hạnh phúc cho mình được. Thí dụ, dưới nền giáo dục nhồi sọ, dối trá lịch sử, tin tức bưng bít, truyền thông kiểm duyệt, bạn không thể nào thoả mãn kiến thức, theo đuổi những hoạt động văn chương nghệ thuật một cách tự do. Trong một xã hội không có công lý, luật lệ tuỳ nghi áp dụng, bắt bớ dựa vào những điều luật mơ hồ, bạn không thể nào theo đuổi công lý. Trong một môi trường ô nhiễm, sông ngòi dơ bẩn, đất đai đầy rẫy chất thải, cá chết khắp nơi, bạn không thể thưởng thức thiên nhiên trong sạch. Hàng ngày, bạn phải đối phó với biết bao nhiêu phiền toái, đường phố ồn ào, náo nhiệt, xe cộ kẹt cứng, cướp giựt, cảnh sát giao thông hạch hỏi vô cớ, lo tiền đóng lộ phí, v.v... và bạn sẽ không còn thì giờ và sức lực để theo đuổi những hoạt động tích cực, thanh nhã.
Việt Nam hiện nay là một quốc gia có xã hội bi đát như trên và do đó người dân rất khó theo đuổi hạnh phúc một cách tự do và theo ý muốn cá nhân được. Sẽ có người không đồng ý và cho rằng ảnh hưởng của hoàn cảnh hay tỉnh trạng chỉ đóng góp 10% cho hạnh phúc dựa vào công thức về hạnh phúc trong ngành tâm lý học tích cực. Do đó, cho dù NCQCS Việt Nam có những lỗi lầm trên, dân Việt chỉ bị mất đi 10% mà thôi. Ngoài ra, những người này có thể lý luận sự kiện dân Việt Nam xếp hạng 94 trong số 155 quốc gia, theo bảng xếp hạng SDSN, hoặc 74 trong số 158 quốc gia, theo bảng xếp hạng RV, cho thấy người dân có hưởng phần nào hạnh phúc tuy xếp hạng dưới trung bình.
Các lý luận này hoàn toàn sai lầm vì NCQCS không những lấy đi 10% do hoàn cảnh và tình trạng, mà còn triệt tiêu cả 40% do các hoạt động cá nhân cố tình, và có thể tạo nên những hậu quả tiêu cực khiến phần di truyền 50% còn bị suy kém nhiều. Việc xếp hạng 94/155 hoặc 74/158 là nhờ bản chất lạc quan và/hoặc sức chịu đựng của dân Việt là tính chất di truyền đóng góp vào mức độ cảm nhận hạnh phúc. Nếu không nhờ bản chất lạc quan và/hoặc sức chịu đựng này, dân Việt còn xếp hạng thấp hơn nữa.
Tuy nhiên, tình trạng không đến nỗi tuyệt vọng. Người dân Việt Nam, nhất là giới trẻ, nên cố tìm hạnh phúc cho chính mình được phần nào hay phần nấy, và chuẩn bị cho cuộc nổi dậy để khôi phục lại chính nghĩa và những gì tốt đẹp của đất nước. Chỉ khi nào chế độ cộng sản sụp đổ, người dân Việt Nam mới có thể đạt được hạnh phúc hoàn toàn.
Việt Nam vẫn còn có nhiều cơ hội giúp tuổi trẻ phát huy những cảm xúc tích cực và tiêu diệt những cảm xúc tiêu cực. Thí dụ, với lòng trắc ẩn từ bi và cảm thông, tuổi trẻ có thể nung nấu lòng can đảm, rèn luyện ý chí tự tin, và hủy diệt sợ hãi và hèn nhát. Tuổi trẻ cần phải tìm hiểu sự thật về lịch sử, về bản chất lừa đảo và tàn bạo của chế độ cộng sản, và trân trọng những hy sinh cao quý của dân tộc, kể cả cuộc chiến đấu oai dũng của miền Nam và thể chế Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), trong cuộc chiến chống lại sự xâm lăng của cộng sản miền Bắc với sự hợp tác của cộng sản miền Nam, theo lệnh Nga Tàu. Hãy lắng tai nghe những bài hát thời VNCH, tìm hiểu lời ca ý nhạc và so sánh với những ca khúc cộng sản. Hãy đọc các tài liệu về tội ác cộng sản, về cuộc cải cách ruộng đất trong thập niên 1950, cuộc thảm sát Tết Mậu Thân tại Huế. Hãy quan sát những tệ trạng xã hội hiện nay, tình trạng giáo dục, ô nhiễm môi trường, tham nhũng. Đó là những hoạt động phát huy những cảm xúc tích cực và tiêu hủy những cảm xúc tiêu cực.
C. Kết Luận:Hầu hết mọi quan điểm triết lý, khoa học, và tôn giáo đều coi hạnh phúc là mục tiêu của cuộc sống. Có nhiều cuộc thăm dò và nghiên cứu về hạnh phúc cho cá nhân và so sánh các quốc gia trên thế giới. Khoa học cho thấy trí tuệ và bộ óc ảnh hưởng lẫn nhau. Do đó, những phương pháp vận dụng trí tuệ trong việc gia tăng hạnh phúc có thể cải thiện cơ cấu óc não và giúp cho việc duy trì hạnh phúc lâu dài.
Trong xã hội suy đồi, tham nhũng, kẻ cầm quyền cướp bóc dân, và công dân không có các tự do căn bản và quyền con người như Việt Nam, người dân Việt rất khó phát huy hạnh phúc chân chính. Tuy nhiên, tuổi trẻ là nguồn hy vọng lớn lao cho đất nước, và có thể gây dựng một lực lượng đấu tranh đáng kể chống lại chế độ cộng sản. Trong bài kế tiếp, tôi sẽ khai triển vấn đề về các phương pháp đấu tranh để đem lại hạnh phúc cho toàn dân, khi người dân bị kẻ cầm quyền đàn áp và tước đi những quyền căn bản của con người.
2018 Cao-Đắc Tuấn_____________
Tài Liệu Tham Khảo:tlđd.: tài liệu đã dẫn, thay cho "sđd." (sách đã dẫn) để chỉ tài liệu (sách, trang mạng, liên lạc riêng, v.v.) đã trích dẫn xuất hiện ngay trước trích dẫn này.
Achor Shawn. 2010. The Happiness Advantage. The Seven Principles that Fuel Success and Performance at Work. The Virgin Books. Random House, Inc., New York, NY., U.S.A.
Alcorn, Randy. 2015. Happiness. Tyndale House Publishers. Carol Stream, IL., U.S.A.
Argyle, Michael. 2009. The Psychology of Happiness. Reprinted 2nd edition. Routledge. East Sussez U.K.
Batchelor, Stephen. 2015. After Buddhism. Rethinking the dharma for a secular age. Yale University Press. New Haven, CT., U.S.A.
Cahn, Steven M. và Vitrano, Christine. 2008. Happiness. Classic and Contemporary Readings in Philosophy. Oxford University Press. New York, NY., U.S.A.
Dalai Lama, His Holiness The và Cutler, Howard C. 2009. The Art of Happiness, 10th Anniversary Edition. Hodder & Stoughton Ltd. London, U.K.
Dalai Lama, The và Chan, Victor. 2014.The Wisdom of Compassion – Stories of Remarkable Encounters and Timeless Insights. Riverhead Books, New York, NY. U.S.A.
Dalai Lama, The và Chodron, Thubten. 2014. Buddhism. One Teacher; Many Traditions.Wisdom Publications, Somerville, MA., U.S.A.
Dalai Lama, The và Chodron, Thubten. 2017. Approaching the Buddhist Path. Wisdom Publications, Somerville, MA., U.S.A.
Dalai Lama, His Holiness The và Carrière, Jean-Claude. 2001. Violence & Compassion - Dialogues on Life Today. Image Books, Doubleday, New York, NY., U.S.A..
Haidt, Jonathan. 2006. The Happiness Hypothesis. Finding Modern Truth in Ancient Wisdom. Basic Books. New York, NY, U.S.A.
Hanson, Rick. 2013. Hardwiring Happiness. The new brain science of contentment, calm, and confidence. Harmony Books, New York, NY., U.S.A.
Hanson, Rick và Mendius, Richard. 2009. Buddha's Brain. The practical neuroscience of happiness, love, and wisdom. New Harbinger Publications, Inc., Oakland, CA., U.S.A.
Keown, Damien. 2013. Buddhism. A very short introduction. Oxford University Press. Oxford, U.K.
Klein, Stefan. 2006. The Science of Happiness. Translated by Stephen Lehmann. De Capo Press, Cambridge, MA., U.S.A.
Lenoir, Frédéric. 2016. Happiness. A philosopher's guide. Translated by Andrew Brown. Melville House Publishing. Brooklyn, NY., U.S.A.
Lyubomirsky, Sonja. 2008. The How of Happiness. A New Approach to Getting the Life You Want. Penguin Books. New York, NY., U.S.A.
Peterson, Christopher. 2006. A Primer in Positive Psychology. Oxford University Press. New York, NY., U.S.A.
Pope Francis. 2017. Happiness in this life. Translated from the Italian by Oonagh Stransky. Random House, New York, NY., U.S.A.
Ricard, Matthieu. 2007. Happiness – A guide to developing life’s most important skill. Translated by Jesse Browner. Little, Brown, and Company. New York, NY., U.S.A.
Schwartz, Jeffrey M. và Begley, Sharon. 2002. The Mind & The Brain. Neuroplasticity and the Power of Mental Force. HarperCollins Publishers. New York, NY., U.S.A.
Seligman, Martin E.P. 2013. Authentic Happiness. Using the new positive psychology to realize your potential for lasting fulfillmemt. Simon & Schuster, New York, NY, U.S.A.
Tsering, Geshe Tashi. 2006. Buddhist Psychology. The foundation of Buddhist thought. Volume 3. Wisdom Publications, Somerville, MA., U.S.A.
Vitrano, Christine. 2014. The nature and value of happiness. Westview Press. Boulder, CO., U.S.A.
Wadell, Paul J. 2016. Happiness and the Christian Moral Life. An introduction to Christian ethics. Third Edition. Rowman & Littlefield. Lanham. MD., U.S.A.
NGUỒN INTERNETCần lưu ý rằng nguồn Internet có thể không vĩnh viễn. Một blog có thể gỡ bỏ bởi tác giả, một bài báo có thể bị xóa, hoặc một Website có thể bị đóng cửa.
Bible Study Tools. Không rõ ngày. Compassion. Không rõ ngày.
https://www.biblestudyto...m/dictionary/compassion/ (truy cập 15-2-2018).
Helliwell, John; Layard, Richard; và Sachs, Jeffrey (Eds). 2017. World Happiness Report. Sustainable Development Solutions Network, U.S.A.
https://s3.amazonaws.com...whr2017/HR17_3-20-17.pdf (truy cập 15-2-2018).
Lewis, Martin W. 2010. The Misleading Ecological Footprint Model. 23-11-2010.
http://www.geocurrents.i...ological-footprint-model (truy cập 15-2-2018).
Muehlenberg, Bill. 2014. C. S. Lewis on Real Happiness and Real Christianity. CultureWatch. 30-1-2014.
https://billmuehlenberg....s-and-real-christianity/ (truy cập 12-2-2018).
New Economics Foundation (NEF). 2012. Happy Planet Index: 2012 Report. 14-6-2012.
http://neweconomics.org/...lanet-index-2012-report/ (truy cập 15-2-2018).
_________. 2016. The Happy Planet Index 2016. A global index of sustainable wellbeing.
https://static1.squaresp...ing+paper+-+HPI+2016.pdf (truy cập 15-2-2018).
Pearce, Fred. 2013. Admit it: we can’t measure our ecological footprint. 20-11-2013.
https://www.newscientist...ur-ecological-footprint/ (truy cập 15-2-2018).
POH (The Pursuit of Happiness). a. Socrates. Không rõ ngày.
http://www.pursuit-of-ha...y-of-happiness/socrates/ (truy cập 15-2-2018)
_________. b. Aristotle. Không rõ ngày.
http://www.pursuit-of-ha...-of-happiness/aristotle/ (truy cập 15-2-2018).
Rampell, Catherine. 2009, The Happy Planet Index. Economix. 6-7-2009.
https://economix.blogs.n.../the-happy-planet-index/ (truy cập 15-2-2018).
Stanford Encyclopedia of Philosophy (SEP). 2014. Aristotle's Ethics. 21-4-2014.
https://plato.stanford.e...ntries/aristotle-ethics/ (truy cập 15-2-2018).
Veenhoven. R. 2014. Average happiness in 158 nations 2005-2014. World Database of Happiness. Rank report Average Happiness. Internet: worlddatabaseofhappiness.eur.nl/hap_nat/findingreports/RankReport_AverageHappiness.php (truy cập 15-2-2018).
Wikipedia. 2018a. Gross National Happiness. Thay đổi chót: 10-2-2018.
https://en.wikipedia.org...Gross_National_Happiness (truy cập 13-2-2018).
_________. 2018b. World Happiness Report. Thay đổi chót: 29-1-2018.
https://en.wikipedia.org...i/World_Happiness_Report (truy cập 14-2-2018).
_________. 2018c. List of countries by GDP (PPP) per capita. Thay đổi chót: 11-2-2018.
https://en.wikipedia.org...ist_of_countries_by_GDP_(PPP)_per_capita (truy cập 14-2-2017).
_________. 2018d. Neuroplasticity. Thay đổi chót: 9-2-2018.
https://en.wikipedia.org/wiki/Neuroplasticity (truy cập 13-2-2018).
_________. 2018e. Karuṇā. Thay đổi chót: 4-2-2018.
https://en.wikipedia.org/wiki/Karu%E1%B9%87%C4%81 (truy cập 14-2-2018).
_________. 2018f. Four Noble Truths. Thay đổi chót: 11-2-2018.
https://en.wikipedia.org/wiki/Four_Noble_Truths (truy cập 14-2-2018).