Lời người dịch: Câu chuyện về một nhóm phụ nữ trẻ Nhật Bản được mang từ Nhật Bản qua San Francisco để lấy chồng qua mai mối hồi đầu thế kỷ trước. Tác phẩm mô tả hành trình gian nan của những cô gái chỉ thấy mặt người chồng sắp cưới của mình qua những tấm hình và những lá thư đầy hứa hẹn. Từ đó họ vẽ vời những tương lai êm ấm, và nhắm mắt đưa chân vào cuộc sống mới đầy bất trắc. Được tuyển vào chung kết của National Book Award (Giải Thưởng Văn Chương Toàn Quốc Hoa Kỳ Năm 2011), The Buddha in the Attic, tiểu thuyết của Julie Otsuka (Alfred A. Knopf: 2011), phô bày kiếp sống cùng cực của người phụ nữ mà chúng ta có thể bắt gặp ở bất cứ nơi nào trên thế giới. Câu chuyện làm chúng ta nhớ đến những cô gái Việt Nam đem thân đi làm dâu xứ người. Tác phẩm khác của Julie Otsuka là When the Emperor Was Divine (Khi Hoàng Đế Còn Linh Thiêng). Xin giới thiệu với độc giả bản tiếng Việt (chương 1) của Đức Phật Ở Trên Gác.
Dưới tàu, chúng tôi hầu hết là gái còn trinh. Chúng tôi có tóc đen dài, bàn chân phẳng, to bè và chúng tôi không cao lắm. Vài đứa trong chúng tôi không ăn gì ngoài cháo như những bé gái nhỏ và có chân cong, vài đứa trong chúng tôi mới chỉ mười bốn tuổi và chúng tôi vẫn chỉ là những bé gái nhỏ. Vài đứa chúng tôi đến từ thành phố, mặc những áo quần thời trang đô thị, nhưng nhiều đứa khác đến từ miền quê và dưới tàu, chúng tôi mặc cũng những chiếc kimono cũ mà chúng tôi đã mặc bao nhiêu năm trời – những bộ áo phai màu các chị gái chúng tôi bỏ lại đã vá víu và nhuộm lại bao nhiêu lần. Vài đứa trong bọn tôi đến từ vùng núi, chưa bao giờ trông thấy biển, trừ trong những bức hình, vài đứa là con gái những ngư phủ suốt đời quanh quẩn trên biển cả. Có lẽ chúng tôi đã mất một anh trai hay một người cha cho biển, hoặc một vị hôn phu, hoặc có thể một người nào đó mà chúng tôi yêu thương, đã buông mình vào dòng nước một buổi sáng bất hạnh nào đó, lầm lũi bơi đi, và bây giờ, tới phiên chúng tôi bỏ đi.
Trên tàu việc đầu tiên chúng tôi làm – trước khi quyết định xem mình sẽ thích ai hoặc không ưa ai, trước khi nói với nhau mình từ đảo nào tới, và vì sao mình phải ra đi, ngay cả trước khi hỏi tên nhau – là so sánh những bức hình chụp chồng của chúng tôi. Họ là những thanh niên bảnh bao, với con mắt đen với đầu tóc rậm với da trơn mịn không tì vết. Những chiếc cằm của họ đầy vẻ cương nghị. Tướng tá họ đẹp mắt. Mũi họ thẳng và cao. Trông họ giống những ông bố, những anh em trai của chúng tôi bên nhà, chỉ khác là họ ăn mặc sang trọng hơn, trong những chiếc áo choàng xám, trong những bộ y phục ba mảnh. Vài người trong số họ đứng bên lề đường, trước những căn nhà mái khung hình chữ A bằng gỗ với hàng cọc giậu trắng và những khoảng sân cắt tỉa gọn gàng, vài người đứng trong lối đậu xe dựa vào những chiếc xe Ford kiểu T. Vài người ngồi trong tiệm chụp ảnh trên những chiếc ghế cứng có lưng dựa cao, hai tay khoanh ngay ngắn và nhìn thẳng vào máy hình, như thể họ đang sẵn sàng chinh phục thế giới. Tất cả đều hứa sẽ có mặt ở đó, chờ chúng tôi, ở San Francisco, khi tàu chúng tôi cặp bến.
Trên tàu, chúng tôi vẫn tự hỏi: liệu chúng tôi có thích họ không? Liệu chúng tôi có yêu thương họ không? Liệu chúng tôi có nhận ra họ – qua những bức hình chụp – khi thấy họ lần đầu tiên trên bến cảng.
Trên tàu chúng tôi ngủ dưới khoang dành cho hành khách hạng chót, nơi tối tăm và dơ dáy. Giường của chúng tôi là những thanh kim loại hẹp lớp này dát lên lớp kia. Và nệm của chúng tôi cứng, đen đúa với những vết loang lem luốc, từ những chuyến đi khác, những đời sống trước. Gối nằm của chúng tôi độn bằng trấu lúa mì khô. Những mảnh vụn thức ăn rải rác trên lối đi giữa giường ngủ và sàn tàu ẩm ướt, nhầy nhụa. Có một lỗ thoát hơi, và tối đến sau khi cửa hầm tàu đóng lại, bóng tối tràn ngập tiếng thì thầm. Liệu có đau không nhỉ? Thân thể trăn trở dưới chăn.
Biển dâng lên hụp xuống. Không khí ẩm ướt ngột ngạt. Đêm xuống, chúng tôi mơ thấy chồng chúng tôi. Chúng tôi mơ những đôi guốc gỗ mới và những súc lụa màu chàm dài vô tận với ước mơ được sống, một ngày nào đó, trong một căn nhà có ống khói. Chúng tôi mơ thấy mình cao ráo và khả ái. Chúng tôi mơ thấy mình trở lại với ruộng lúa, nơi chúng tôi đã khao khát đến tuyệt vọng được thoát đi. Những giấc mơ có ruộng lúa luôn là những cơn ác mộng. Chúng tôi mơ thấy những người chị lớn hơn, xinh đẹp hơn của chúng tôi đã bị cha chúng tôi bán cho những nhà geisha để cả nhà có miếng ăn, và khi thức giấc chúng tôi hớp không khí hụt hơi. Trong một giây em tưởng em là chị ấy.
Những ngày đầu tiên trên tàu chúng tôi say sóng, không thể nào kềm giữ (thức ăn trong bụng), và đã phải chạy tới boong tàu không biết bao nhiêu lần. Vài đứa chúng tôi chóng mặt tới mức không thể bước đi, nằm mê mệt trên khung giường hẹp trong trạng thái đờ đẫn, tên mình còn không nhớ, nói gì tới tên của chồng mới cưới. Nhắc lại giùm tôi lần nữa đi mà, tôi sẽ là bà… gì nhỉ? Vài đứa chúng tôi ôm chặt lấy bụng mình và lớn tiếng van vái Kannon – nữ thần của lòng thương xót – Ngài ở đâu? – trong khi những đứa khác chịu đựng âm thầm mặt mày xanh xám. Và thường xuyên, giữa đêm khuya, chúng tôi bị xóc đầu dậy bởi một cơn sóng cồn hung bạo và trong một giây ngắn ngủi chúng tôi hoàn toàn không biết mình đang ở đâu, hoặc vì sao giường của chúng tôi không ngừng lay động, hay vì sao tim chúng tôi đập thình thịch đầy kinh hãi như thế. Động đất luôn là ý nghĩ đầu tiên thoáng hiện trong tâm trí chúng tôi. Những lúc ấy chúng tôi quơ tay tìm mẹ mình, và trong vòng tay của người, chúng tôi ngủ tới buổi sáng hôm chúng tôi bỏ đi. Giờ này những bà mẹ có đang ngủ đó không? Các bà mẹ có nằm mơ không? Các bà mẹ có nghĩ đến chúng tôi thâu đêm, suốt sáng? Các bà mẹ có vẫn bước ba bước phía sau bố chúng tôi với hai tay khệ nệ đồ đạc trong khi các ông bố chúng tôi chẳng cầm gì hết không? Các bà mẹ có âm thầm ganh tị chúng tôi đã xuống được tàu, ra đi? Mẹ đã đưa cho con hết mọi thứ chưa? Các bà mẹ có nhớ phơi những chiếc kimono cũ của chúng tôi ra gió không? Các bà có nhớ cho mèo ăn không? Các bà mẹ có chắc chắn là đã chỉ dẫn cho chúng tôi những điều chúng tôi cần biết? Cầm tách trà của mình bằng hai bàn tay, đừng dãi nắng, đừng nói hơn những gì cần phải nói.
Hầu hết chúng tôi trên tàu đều sửa soạn chu đáo, và nắm chắc mình sẽ là những người vợ đảm đang. Chúng tôi biết nấu nướng và may vá. Chúng tôi biết cách hầu trà, cắm hoa và ngồi hàng giờ thật yên lặng trên hai bàn chân to bè của mình, tuyệt đối không hở môi nói bất cứ điều gì quan trọng. Con gái phải hòa lẫn vào căn phòng: nó phải có mặt ở đó nhưng không được lộ ra sự hiện diện của nó. Chúng tôi biết cách cư xử trong đám tang, và biết cách viết những bài thơ sầu muộn ngắn với chính xác mười bảy vần về sự qua đi của mùa thu tàn tạ. Chúng tôi biết cách nhổ cỏ, chẻ củi và múc nước, và một đứa trong bọn chúng tôi – con gái ông chủ nhà máy xay gạo – biết cách đi bộ hai dặm đường xuống phố với một bọc gạo tám chục cân Anh trên lưng mà không đổ giọt mồ hôi nào. Tất cả chỉ là nhờ biết cách thở cho đúng. Hầu hết chúng tôi đều có phong cách tốt đẹp, và vô cùng nhã nhặn, ngoại trừ khi chúng tôi nổi giận và chửi thề như bọn thuỷ thủ. Hầu như lúc nào chúng tôi cũng chuyện trò như những mệnh phụ, với giọng nói của chúng tôi cao chói, và giả bộ biết thật ít so với cái biết thực sự của mình, và mỗi khi đi qua những anh chàng chùi quét boong tàu chúng tôi cố nắm chắc là mình nhón những bước nhỏ, yểu điệu với những đầu ngón chân xoay vào trong một cách nề nếp. Bởi không biết bao nhiêu lần mẹ chúng tôi đã dặn dò: Hãy đi đứng như dân thành phố, đừng như dân cày!
Trên tàu, hàng đêm chúng tôi nhồi nhét vào trong những giường hẹp và thức khuya hàng giờ chuyện trò về cái lục địa chưa hề biết đến ở phía trước. Nghe nói dân ở đấy không ăn gì khác ngoài thịt và thân thể họ có đầy lông (đa số chúng tôi theo đạo Phật, không ăn thịt, và chỉ có lông ở những nơi thích hợp). Cây cối đồ sộ. Bình nguyên mênh mông. Đàn bà ồn ào và cao ráo – chúng tôi nghe nói, cao hơn người đàn ông cao nhất của chúng tôi một cái đầu. Ngôn ngữ khó hơn ngôn ngữ của chúng tôi tới chục lần và phong tục thì kỳ lạ tới mức không lường được. Sách đọc từ trước ra sau và sà bông được dùng trong nhà tắm. Hỉ mũi vào khăn mù soa dơ rồi lại nhét vào túi để sau đó lấy ra dùng đi dùng lại. Màu trái ngược của trắng không phải đỏ mà là đen. Chúng tôi tự hỏi, chúng tôi sẽ ra sao trong xứ sở lạ lùng ấy? Chúng tôi hình dung ra chính mình – một sắc dân nhỏ bé trang bị đơn giản với những cuốn sách hướng dẫn – vào xứ sở của người khổng lồ. Liệu chúng tôi có bị chế nhạo? Bị khinh miệt? Hoặc tệ hơn thế, chẳng được ai để tâm tới chút nào không? Nhưng ngay cả đứa ngần ngại nhất trong bọn chúng tôi cũng nhìn nhận rằng thà kết hôn với một người lạ ở Mỹ châu còn hơn chết già với một nông dân trong làng. Bởi vì ở Mỹ châu, phụ nữ không phải vất vả công việc đồng áng, ở đó có nhiều gạo, nhiều củi cho tất cả mọi người. Và bất cứ mình tới nơi nào đàn ông cũng mở cửa cho mình và chạm tay vào vành mũ họ, rồi nói, “Lady first” và “After you.”
Trên tàu có vài đứa đến từ Kyoto, lịch thiệp và xinh xắn, và đã từng sống cả đời trong những phòng tối ở phía sau căn nhà. Vài đứa chúng tôi đến từ Nara, và khấn nguyện tổ tiên ba lần một ngày, và thề là vẫn nghe được tiếng chuông chùa ngân vang. Vài đứa tôi là con gái những nông dân từ Yamaguchi với cổ tay thô với vai bè những đứa không bao giờ đi ngủ sau chín giờ. Vài đứa trong chúng tôi đến từ thôn ấp nhỏ miền núi ở Yamanashi và chỉ trông thấy chiếc xe lửa lần đầu tiên trong đời mới đây thôi. Vài đứa trong chúng tôi đến từ Tokyo, và đã nhìn thấy mọi thứ, nói thứ tiếng Nhật duyên dáng, và không hòa nhập mấy với những người khác. Nhiều đứa khác nữa trong chúng tôi đến từ Kagoshima và nói bằng thổ ngữ miền nam nặng chịch mà những đứa chúng tôi đến từ Tokyo giả bộ không hiểu. Vài đứa bọn tôi đến từ Hokkaido, nơi tuyết rơi, trời lạnh, và có thể mơ đến giải đất trắng ấy qua bao nhiêu năm tháng. Vài đứa tôi đến từ Hiroshima, nơi sau này nổ bùng, và đã thật là may mắn được xuống tàu cho dù lúc ấy chúng tôi dĩ nhiên là chưa biết. Đứa trẻ nhất trong bọn tôi mười hai tuổi, đến từ bờ phía đông của hồ Biwa, và chưa có kinh lần đầu. Bố mẹ em gả em đi để lấy tiền đặt cưới. Người lớn nhất trong bọn tôi ba mươi bảy tuổi, từ Niigata, và đã dành cả đời mình săn sóc ông bố tật nguyền, người mà khi qua đời mới đây đã khiến cô con gái vừa vui vừa buồn. Tôi biết chỉ khi nào bố tôi chết tôi mới lập gia đình được. Một người trong bọn chúng tôi đến từ Kumamoto, nơi chẳng còn gã thanh niên nào – năm trước đó tất cả những thanh niên độc thân đều đã bỏ xứ đi tìm việc ở Mãn Châu – và đã cảm thấy may mắn nếu như lấy được bất cứ ai làm chồng. Vừa nhìn lướt qua tấm hình là tôi nói với người làm mai liền, “Anh ấy được đấy.” Một đứa trong bọn tôi từ làng dệt lụa Fukushima, đã mất người chồng thứ nhất vì bệnh cúm, mất người chồng thứ nhì về tay người đàn bà trẻ đẹp hơn sống ở phía bên kia ngọn đồi, và bây giờ chị ta giong buồm sang Mỹ để lấy người chồng thứ ba. Anh ấy khỏe mạnh, anh ấy không rượu chè, anh ấy không cờ bạc, tôi chỉ cần biết có thế thôi. Một đứa trong bọn chúng tôi trước đây là vũ nữ ở Nagoya ăn mặc đẹp đẽ, có làn da trắng trong suốt, và biết tất cả những điều cần biết về đàn ông, và mỗi tối chúng tôi vây quay chị ta đặt câu hỏi. Làm chuyện đó có lâu không? Có mở đèn hay làm trong bóng tối? Cẳng chân dơ lên hay hạ xuống? Mắt mở hay nhắm? Nếu mình không thở được thì sao? Nếu mình khát nước thì sao? Nếu anh ấy nặng quá thì sao? Nếu anh ta to con quá thì sao? Nếu như anh ấy không thèm muốn mình thì sao? “Bọn đàn ông đơn giản lắm,” chị ấy bảo chúng tôi thế. Và chị bắt đầu giải thích.
Trên tàu, đôi khi chúng tôi nằm thức hàng giờ trong bóng tối ẩm ướt lắc lư của khoang tàu, lòng đầy ắp niềm ước mong cùng sự sợ hãi, và băn khoăn tự hỏi làm cách nào chúng tôi có thể sống sót thêm ba tuần lễ nữa.
Trên tàu, chúng tôi mang theo trong rương tất cả những thứ chúng tôi sẽ cần cho cuộc sống mới: những áo kimono lụa trắng cho đêm tân hôn, những áo kimono vải bông màu để mặc hàng ngày, những áo kimono vải bông trơn để dành lúc về già, những ngòi bút lông, những cục mực đen dầy, những trang giấy làm bằng bột gạo mà chúng tôi sẽ dùng để viết những lá thư thật dài gửi về quê nhà, những tượng Phật nhỏ xíu bằng đồng, những tượng thần cáo bằng ngà, những con búp bê mà chúng tôi đã ngủ chung với từ thuở lên năm, những gói đường nâu phòng hờ khi có chuyện phải nhờ vả người khác, những tấm chăn vải màu sáng, những quạt giấy, những cuốn sách đàm thoại Anh ngữ, những giải thắt lưng lụa có hình bông hoa, những viên đá trơn nhẵn nhụi nhặt được từ dòng sông phía sau nhà, một lọn tóc của đứa con trai mà chúng tôi có lần rờ rẫm, yêu thương, và hứa sẽ viết thư, dù chúng tôi biết chúng tôi sẽ chẳng bao giờ viết, những cái gương bạc mẹ chúng tôi cho chúng tôi, người mà những lời dặn dò cuối cùng vẫn vang trong tai chúng tôi. Con sẽ thấy những người đàn bà thì yếu đuối, nhưng những bà mẹ thì mạnh mẽ.
Trên tàu, chúng tôi than phiền về mọi thứ. Rệp. Chấy. Mất ngủ. Tiếng dộng trầm đục liên tục của máy tàu, thứ len lỏi vào tận giấc mơ của chúng tôi. Chúng tôi than phiền vì mùi hôi của nhà xí – những cái lỗ khổng lồ, trống hoác mở vào lòng biển cả – và cái mùi càng lúc càng nặng của chúng tôi – mà dường như càng ngày càng nồng nặc. Chúng tôi than phiền vì tật dửng dưng của Kazuko, thói đằng hắng của Chiyo, tiếng Fusayo rì rầm không ngừng “Bài ca của người hái trà,” cái thứ dần dần làm chúng tôi phát điên. Chúng tôi than phiền về những chiếc kẹp tóc thất lạc – đứa nào là kẻ ăn trộm trong đám chúng tôi? – và làm cách nào mà bọn con gái đi vé hạng nhất e ấp dưới những chiếc dù lụa màu tím của chúng nó, không bao giờ mở miệng chào chúng tôi một câu trong bao nhiêu lần bọn chúng nó đi qua sàn tàu phía trên đầu chúng tôi. Chúng nó tưởng chúng nó ngon lắm chắc? Chúng tôi than phiền về cái nóng. Về cái lạnh. Về cái chăn len nhám nhúa. Chúng tôi than phiền về chính những lời than phiền của mình. Dù vậy, trong thâm tâm, hầu hết chúng tôi thực lòng sung sướng, bởi chẳng bao lâu nữa chúng tôi sẽ ở Mỹ Châu với những người chồng mới của chúng tôi, những người đã viết cho chúng tôi nhiều lần trong những tháng qua. Anh đã mua một căn nhà thật đẹp. Em có thể trồng hoa Uất Kim Hương trong vườn. Hoa Thuỷ Tiên. Bất kỳ hoa gì em muốn. Anh làm chủ một nông trại. Anh điều hành một khách sạn. Anh là giám đốc một ngân hàng lớn. Anh rời Nhật Bản vài năm trước để mở dịch vụ thương mại riêng của anh và anh có thể cung phụng cho em đầy đủ. Anh cao một thước bảy mươi chín phân và không bị bệnh cùi hay bệnh phổi và trong gia đình anh không có ai bị bệnh tâm thần. Anh là cư dân vùng Okayama. Vùng Hyogo. Vùng Miyagi. Vùng Shizuoka. Anh lớn lên ở ngôi làng bên cạnh làng em và có lần anh thấy em trong buổi chợ phiên cách đây nhiều năm. Anh sẽ gửi tiền để em đi đường càng sớm càng tốt.
Trên tàu chúng tôi mang theo hình của chồng chúng tôi trong những khung ảnh hình bầu dục nhỏ xíu đeo trên những dây chuyền dài trên cổ chúng tôi. Chúng tôi mang chúng trong những cái ví lụa và những hộp thiếc đựng trà cũ kỹ và những hộp sơn mài đỏ và trong những bao thư dày màu nâu đã được gửi từ Mỹ về cho chúng tôi. Chúng tôi mang chúng trong tay áo kimono, nơi mà chúng tôi không ngớt sờ vào để biết chắc chúng vẫn còn đó. Chúng tôi mang chúng ép sát giữa những trang giấy của cuốn Come, Japanese! Và Guidance to America và Ten Ways to Please a Man và những tập kinh Phật cũ, sờn rách, và một đứa trong bọn tôi, theo đạo Thiên Chúa, ăn thịt, và cầu nguyện với một thần linh khác có mái tóc dài, thì kẹp những hình của nó giữa những trang cuốn Kinh Thánh King James. Và khi chúng tôi hỏi nó thích người đàn ông nào hơn – người trong tấm hình chụp hay Chúa Jesus – nó cười một cách bí hiểm và trả lời, ‘Dĩ nhiên là Ngài rồi.’
Trên tàu, vài đứa trong bọn tôi có những điều bí mật, mà chúng tôi thề suốt đời sẽ không bao giờ cho chồng mình biết. Có lẽ lý do thực sự của việc chúng tôi xuống tàu đi Mỹ là để tìm tông tích người bố đã biệt tích từ lâu, người đã bỏ gia đình mà đi nhiều năm trước. Ông ấy đến Wyoming để làm trong hầm mỏ và chúng tôi không được tin tức gì từ ông ấy nữa. Hoặc có thể chúng tôi bỏ lại sau lưng một đứa con gái nhỏ mà chúng tôi đã cưu mang bởi một gã đàn ông mà chúng tôi không thể nào nhớ mặt – một gã phiêu bồng có tài kể chuyện dạt qua ngôi làng một tuần lễ, hay một vị sư Phật giáo lang bạt ngừng lại để trọ nhà chúng tôi một đêm trước khi tiếp tục hành trình lên núi Phú Sĩ. Và mặc dù chúng tôi biết bố mẹ chúng tôi sẽ săn sóc con bé đến nơi đến chốn – nếu con ở lại làng này, bố mẹ cảnh cáo chúng tôi, con sẽ không bao giờ lấy chồng được đâu – chúng tôi vẫn mang mặc cảm tội lỗi vì đã chọn cuộc sống cho riêng mình thay vì của con, và trên tàu chúng tôi khóc thương con gái mình đêm này qua đêm khác và rồi một buổi sáng chúng tôi thức dậy lau nước mắt và nói, “Vậy cũng đủ rồi,” và chúng tôi bắt đầu bận tâm đến những thứ khác. Sẽ mặc chiếc áo kimono nào khi cặp bến. Sẽ chải tóc thế nào. Sẽ nói gì với anh ấy khi gặp mặt lần đầu tiên. Bởi vì bây giờ chúng tôi đang ở trên tàu, quá khứ ở sau lưng, chẳng thể nào quay đầu lại được.
Trên tàu chúng tôi hoàn toàn không nghĩ là chúng tôi sẽ mơ thấy con gái mình cho tới ngày chúng tôi chết, và trong giấc mơ của chúng tôi, con bé mãi là đứa bé ba tuổi và trông hệt như lần cuối cùng chúng tôi nhìn thấy nó: thân hình bé bỏng trong chiếc kimono màu đỏ thẫm ngồi bệt cạnh vũng nước, mê mải nhìn con ong chết trôi nổi bập bềnh.